Trải suốt trên 25 thế kỷ, nền giáo lý
chính chân của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni chúng ta, đứng giữa thời gian
vô cùng và không gian vô tận luôn luôn hiện hữu, xứng tánh tùy cơ trong
quãng đại quần chúng, trong các loại chúng sanh, không phân biệt giai
tầng xã hội của từng thời đại, xứ sở, quốc độ, quốc gia…
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
>>Đạo Phật & Vấn Đề Nhập
Thế (Phần I)
qua những bước chân vô ngại của chư vị Lịch Đại Tổ Sư, chư Bồ Tát,
Tổ
Thầy, cùng các bậc tôn túc tiên sinh tiền bối, vượt qua những thử thách
gian nguy trên con đường hoằng pháp lợi sinh, cho đến các bậc hậu côn
cũng đã thành công viên mãn giữa hai phương diện xuất thế và nhập thế.
Các vị đã sáng suốt linh hoạt trong từng thời kỳ, chuyển mình từ hiện
tượng giới ngược dòng sanh tử về nguồn bản thế giới, và thệ nguyện từ
nguồn tịch diệt xuôi về an trụ giữa trần gian, thông qua con đò phương
tiện với những hành trang TÍN, NGUYỆN, HẠNH, mượn gió lành Phong Tỳ lam
đưa người sứ giả Như Lai làm tròn nhiệm mệnh “tác Như Lai sứ, hành Như
Lai sự” rước đưa người lữ khách rời bến sông mê sang bờ an vui giải
thoát.
Pháp Phật dù là vô lượng pháp môn, hay tám muôn bốn ngàn pháp,
nhưng
pháp pháp thảy đều quá rộng rãi, mênh mông, chúng sanh không thể dò tìm
nắm bắt kịp thời để chận đứng tứ ma, các nghiệp báo chướng, tham sân si,
ngũ uẩn, ngũ ấm … Nên từ tám muôn bốn ngàn pháp môn vun rãi trong vô
lượng kiếp, trong từng thời đại xã hội, vũ hành phương tiện dọc ngang
trong mỗi loài, nhóm chúng sanh và nhất là loài người chúng ta trên hành
tinh uế độ, trược ác. Pháp môn ấy, nền giáo lý chính chân ấy được rút
ngắn, thu gọn theo thứ lớp để hài hòa cùng với làn sóng trí huệ của hàng
tỷ Phật tử trên thế giới, chủ yếu là mười tôn phái lớn được chư vị Tổ
đức, Thiền sư, Đại sư, Tiên sinh, Tiền bối sáng lập từ những thế kỷ xa
xôi về trước mà Tăng Ni chúng ta ai ai cũng từng học qua, từng biết đến.
Mười tôn phái ấy, chính là kim chỉ nam, là thuyền từ để đưa người,
chúng
sanh qua bể khổ. Mười tôn phái ấy (Thiền tông, Tịnh Độ tông, Luật tông,
Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Câu Xá tông, Thành Thật tông…chính là
những ân sư, là những tấm bản đồ, từng giúp cho những người con Phật
mãn nguyện độ sanh.
Thế thì, pháp môn niệm Phật, thuộc Tịnh Độ tôn là một tôn thứ hai
trong
mười tôn phái lớn ở Trung Hoa. Môn niệm Phật rất giản dị, dể tu, dể
chứng mà cũng dể hành đạo và lắm nhiệm mầu vi diệu, là vì pháp môn chỉ
tuỳ theo cơ cãm, niềm tin và sức nguyện của tầng lớp chúng sanh Thượng
căn, Trung căn và Hạ căn, người có tội hay không tội, nếu khi lâm chung
hoặc hiện tiền chỉ nhất tâm niệm danh hiệu ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ đều được
vãng sanh hoặc thân chứng, lúc bấy giờ sẽ được Tây Phương Tam Thánh, vô
số hoá Phật, hoá Bồ tát, và hàng Thánh chúng Thượng Thiện Nhơn tiếp dẫn
về cõi nước Tây Phương Cực Lạc diện kiến Đức Phật.
Về phương diện dể tu dể chứng, Tịnh Độ tôn kết tinh được ba phương
pháp
để nhiếp thọ, những chúng sanh có rất ít thiện duyên hay những chúng
sanh có căn lành với Phật pháp:
1/- XƯNG DANH NIỆM PHẬT: nghĩa là niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT có
âm thinh, cũng bằng cách niệm lớn tiếng, nhưng có phân giờ khắc, hoặc
rổi rảnh mới niệm được, nên phép XƯNG DANH này có gián đoạn.
2/- TRÌ DANH NIỆM PHẬT: nghĩa là niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT có
âm thinh, cũng bằng cách niệm cao tiếng, nhưng một lòng trì niệm tinh
tấn, không giãi đãi, không quên mất, vì vậy trong tâm niệm vẩn tương
tục, không gián đoạn.
3/- QUÁN TƯỞNG NIỆM PHẬT: trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có dạy rõ
16 phép
quán. Còn trong kinh Tiểu Bổn chỉ dạy niệm theo hai pháp môn trên, tức
là XƯNG DANH và TRÌ DANH. Thế thì, phép quán tưởng niệm Phật, tức là
quán Y báo và Chánh báo nơi cõi Cực Lạc, nếu quán hạnh được thuần thục,
thì lúc mở mắt hay nhắm mắt, hành giả đều thấy cảnh giới Cực Lạc, hiện
tiền tâm thần dạo chơi nơi cảnh Tịnh, khi mạng chung quyết định sẽ vãng
sanh. Công đức của pháp nầy lớn lao không thể nghỉ bàn. Pháp quán tưởng
niệm Phật nầy có phần vi tế sâu mầu, nên cần phải tinh chuyên, cần mẫn
nhiều hơn mới thành tựu.
Với hai pháp XƯNG DANH và TRÌ DANH trên có thể nói là phương diệu
dược
để cứu vãn các căn bệnh của chúng sanh, miễn chúng sanh đó một lòng tin
nhân quả, xa lìa tội chướng, càng ngày càng tạo thêm phước lành và biết
tu học theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ Sư trưởng, Tổ Thầy,
không phạm oai nghi, vâng lời Phật dạy…
Nếu người siêng năng hành trì tu tập, không nhàm trễ, đối với một
câu
niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, thì sẽ dứt được một niệm chúng sanh, phiền não
trần lao vong bặt. Vì chính lúc bấy giờ câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT chính
là PHÁP GIỚI TÁNH HIỆN TIỀN, mà pháp giới tánh tức là chơn thể của vũ
trụ cũng là bản tâm thanh tịnh của chúng sanh, Phật tự tánh của chúng
sanh, cũng chính là Phật pháp thân. Thế thì pháp môn niệm Phật khác nào
như dùng phèn lóng nước, nước sẽ trong, như người gia công lọc vàng ra
khỏi quặng. Đấy là kết quả của pháp niệm Phật.
Phương pháp XƯNG DANH NIỆM PHẬT, TRÌ DANH NIỆM PHẬT là phương tiện
rộng
rãi làm cho chúng sanh tội diệt phước sanh và cũng để thực hiện hướng đi
đích thực trên đường về với tự tánh của bản lai chân diện mục. Khi dứt
hết vọng niệm chính đấy là Phật. Cũng như một Cử nhân, một Tiến sĩ phủ
nhận sự tối dốt trong quá trình cuộc sống của họ.
Lại nữa, hai phương pháp trên, chúng sanh ở căn cơ nào, trình độ
nào
cũng có thể tu được. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể niệm tương
tục, cho đến khi tự tánh Phật được thể hiện, cũng ví như người đào
giếng sẽ được nước, người ma sát thanh tre sẽ được lửa, người tối dốt
siêng học sẽ đọc và viết được một cách dễ dàng.
Vì pháp môn niệm Phật hay dùng sự để hiểu lý, dùng tướng tu để thể
nghiệm lý tánh. Nhưng lại dùng thông cả ba căn, nên gọi pháp môn này dễ
tu, dễ chứng. Là con đường tắt trong các con đường tắt, là tối thắng
trong các pháp môn tối thắng, miễn là chúng sanh không khởi lòng nghi
hoặc với pháp môn. Nên trong Luận Thập Trụ TỲ BÀ SA, ngài LONG THỌ dạy:
“Nếu người trồng căn lành,
Nghi thì hoa không nở,
Người tín tâm thanh tịnh,
Hoa nở liền thấy Phật.”
Con nguyện lâm chung không chướng ngại
A Di Đà Phật rước từ xa
Quan Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài cho đở gót
Trong một sát na lìa ngũ trược
Khoảng tay co duỗi đến Liên Trì
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe được pháp âm liền hiểu rõ
Nghe rồi tỏ ngộ pháp nhẫn vô sanh
Không rời an dưỡng trở lại ta bà
Khéo dùng phương tiện cứu độ chúng sanh
Thường vào trần lao mà làm Phật sự
Con nguyện như thế Phật chứng tri
Tất cả về sau được thành tựu.
Ở thế giới ngũ trược, trong thời mạt pháp, chúng sanh cách Phật đã
xa,
ba nghiệp thân khẩu ý của chúng sanh thời bộc khởi phát triển mạnh.Chúng
sanh thường ưa sát hại, lấy cái chết của người khác làm vui cho mình,
hoặc thích trộm cắp, hay say mê dục lạc, đối với khẩu nghiệp thường ưa
nói lời độc ác, hay nói dối, lấy dối trá làm vui, đến mức trong xã hội
không ai tin nhau được. Đối với ý nghiệp thì lòng tham không giới hạn
chỉ muốn gom về cho mình. Khi cầu không được lại nổi giận, bấy giờ quyền
lợi, địa vị, vật chất làm mờ mắt họ, họ chẳng còn đạo nghĩa nhân tình.
Do quá tham lam mà tạo thành khối óc ngu si…
Trong một thời đại tồi tàn, tâm lượng chúng sanh đầy nghiệp ác,
không
thể nào đem giáo pháp cao thượng, hay một pháp môn phương tiện nào
truyền thông cho được. Đức Phật dạy chúng ta đổi ba nghiệp ác thành ba
nghiệp thiện. Như chúng ta biết thiện ác không thực thể vì nó tuỳ thuộc
nơi hành giả. Tu theo pháp môn niệm Phật, hành giả tự đổi mười nghiệp ác
bằng cách triển khai ba nghiệp thân, khẩu, ý thành mười nghiệp lành. Có
mười nghiệp lành này, hành giả đã chuyển cuộc đời nầy thành cõi Tịnh
Độ. Tây Phương Cực Lạc ở trần gian, không phải đợi đến lúc lâm chung mới
vãng sanh Tịnh Độ. Tức là hành giả nương từ bản thể tự tánh Phật, tức
Phật thân, hay Phật A Di Đà, phát tín tâm, dùng nguyện lực đi thẳng vào
hiện tượng sinh diệt của cuộc đời để cứu độ chúng sanh. Có như vậy dù
trải qua bao cơn ác nghiệt, thế biến suy vong, phong ba bảo táp, đối
tượng đau khổ, hận thù, địa vị, quyền thế, vật chất… sẽ không áp đảo
hành giả trong cuộc nhập thế. Hành giả niệm Phật luôn luôn vững lái con
thuyền đại nguyện của mình.
Cổ đức bảo: - người khéo tu dù nặng như đá qua sông vẫn được -
người vụn
tu dù nhẹ như hạt cải vẫn chìm…
Thật vậy, hành giả niệm Phật, không đạt được đến chổ nhứt tướng
chuyên
chú một chổ, là một niệm Phật chư hiện tiền, tức không thấy Phật, không
thân chứng, tức hành giả chưa đủ trình độ vào đời…
Nhưng nếu hành giả mãi ngồi tu chờ cho đắc đạo rồi vào đời, như
vậy đã
lạc vào tiểu thừa, sơ tâm “chết ai nấy chịu”. Thế thì hành giả đã đi
ngược lại con đường của đức Thế Tôn, chống phá cương lĩnh đại bi tâm của
chư Phật, càng lún sâu vào con đường chấp có, chấp không, hết thuốc
chữa trị.
Do đó, từ lâu đài TÍN NGUYỆN HẠNH, hành giả không rời Phật, vượt
gió
tuôn mây, thường vào trần lao mà làm Phật sự, chí đạo sẽ không mòn mõi,
dù ác chướng nặng như núi Tu Di, nhưng tâm niệm A Di Đà như huỳnh cân
lực sĩ giáng xuống làm tiêu tan các chướng phiền não trong ba đời.
Tuy nhiên, người còn mang nặng tri kiến giải thoát tức là người
niệm
Phật chưa đạt đến lý niệm Phật, câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT còn nặng cả ngàn
cân, nặng hơn cả các khối phiền não của cuộc đời, thì khó lòng mà vào
đời lướt gió tuôn mây đưa chúng sanh ra khỏi bể khổ. Vì chính tự thân
còn không giải thoát, làm sao giải thoát chúng sanh, làm sao diệt độ đau
khổ, tam đồ bát nạn ? cứu người ra khỏi bến mê ?
Giá trị của tha lực đối với bậc thượng căn mới xứng tánh, mới trở
thành
hóa Phật, hóa Bồ Tát cứu lấy tội lỗi chúng sanh, đới nghiệp vãng sanh,
cứu lấy mê luyến an lạc của Nhị thừa.
Tha lực của Phật A Di Đà sẽ phá tan những thành kiến chấp có, chấp
không, chấp vọng, chấp chơn, chấp độ, chấp không độ, chấp niết bàn, chấp
phiền não…
“Bao nhiêu sông nước, bao trăng hiện,
Mấy dặm mây tan, mấy dặm trời.”
Hành giả đạt đến mức độ không còn năng niệm, sở niệm thì đối với
phiền
não, trần lao cũng không còn là tướng đối đãi với Niết Bàn, Tây Phương,
lúc bấy giờ thấy thân độ mà không độ, không chúng sanh mà độ chúng sanh
vô lượng. Hành giả đi vào đời không còn bị vật dục làm đắm chìm chiếc y
vàng, chiếc áo lam, làm mất thanh danh người con Phật.
Người còn mang nặng năng sở đi vào đời sẽ bị vật dục lôi cuốn, và
chết
lầm trong vật dục, lại tưởng tượng là Bồ Tát thị hiện độ đời, ở những
quyền năng, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ, tiền tài…
Tiếng nói của pháp môn là tha lực, đưa hành giả vào cuộc đời để
kiến tạo
một Niết Bàn, Tịnh Độ trần gian, nhận chân bản thể sự vật tự tánh vốn
không, tức là pháp thân thường trụ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn.
Đối với bậc đã chứng đạo, đắc đạo, thân chứng pháp môn niệm Phật,
không
lựa là phải ở chốn trần gian, cũng không phải do cảm nghĩ của hành giả
mà có được. Mà phải đi trong biển hạnh nguyện của chư Phật, bản hoài của
Thích Ca Mâu Ni, nguyện lực của Phật A Di Đà ma sát vào lòng tin của
chúng sanh :
“Phật pháp bất ly thế gian giác…”
Làm sao chúng ta quên được những ấn tích : một Pháp Sư Đỗ Thuận,
một
Khuông Việt Ngô Châu Lưu, một Quốc Sư Vạn Hạnh, một Ỷ Lan thái phi đã
làm rạng rỡ cho Đạo Phật đi vào cuộc đời hằng mấy thế kỷ từ thời Đinh,
Lê, Lý, Trần…
Làm sao chúng ta quên được những hình ảnh gần nhất: những Bồ Tát
Quảng
Đức thiêu thân cho sự sống còn của Phật giáo Việt Nam, các Thánh Tử Đạo,
chư Tăng Ni vị pháp thiêu thân, Hoà Thượng Thích Minh Nguyệt, Hoà
Thượng Thích Trí Thủ, Đức Giáo Tổ Minh Đăng Quang, Đại lão Hòa Thượng
Thích Huệ Thành, Hòa Thượng Thích Thiện Hào, Đức Tôn Sư Hòa Thượng
thượng Thiện hạ Phước, Ni Trưởng Hùynh Liên…biết bao nhiêu danh Tăng xã
thân vào cuộc đời với những bước đi không ngại, vì thượng cầu Phật đạo,
hạ hóa chúng sanh, và còn biết bao nhiêu những bậc Đạo sư mai danh ẩn
tích, tổ ấn trùng quang, thị hiện dưới nhiều dạng loại người, mình người
đồng lợi cho chánh pháp được lưu thông. Nhiều khi các vị phải bị mạt
sát, khinh bỉ, chà đạp, tranh lấn, mà các vị vẫn điềm nhiên toạ thị, để
triển khai giấc mộng hồn của chúng sanh, nương Phật lực chuyển hóa tam
khổ thành tam lạc… đạt mục tiêu đăng thuyền đại nguyện đưa chúng sanh
qua bỉ ngạn. Phải chăng các vị là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, Thế
Chí và chư Bồ Tát trong mười phương !
Hình ảnh đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát là tiêu biểu cho
hạnh
nguyện lợi tha của chư Phật, thị hiện trong cuộc đời dưới dạng nhiều
hình thức chúng sanh, tăng, tục, cư sĩ, vua, quan, trời, thần, người…
nhưng các vị không bao giờ đánh mất tính đặc thù của Niết Bàn, tự tại,
an lạc, các vị đã thể nghiệm được tính bản lai, thân độ không hai, chỉ
có những hình ảnh đa dạng thị hiện mới có đủ phương tiện đưa chúng sanh
đến cứu cánh. Vì vậy Niết Bàn cũng không tăng, chúng sanh cũng không
giãm, nếu là không tăng, không giãm thì tự tánh bản lai không đối đãi,
nên cũng không nhơ, không sạch, phiền não tức Bồ Đề.
Thực hiện công cuộc hoằng pháp lợi sanh, Tăng Ni cũng như hành giả
niệm
Phật phát Bồ Đề tâm nương tha lực, dưới dạng Quán Âm và Thế Chí, đấy là
một trong những phương tiện thuyền từ bát nhã, giúp cho Tăng Ni không
phải vướng bận trần lao.
Nhất định chư Tăng Ni Phật Tử chúng ta sẽ thành công trên đường
hoằng
pháp lợi sanh.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT