Tiểu Sử
Sư cụ Tuệ Nhuận
thế danh Văn Quang Thùy, sanh năm 1887 (17-3-Đinh Hợi) tại tỉnh Hải
Dương. Chuyên Nho học suốt thời niên thiếu. Ngài chăm học đến nỗi nhà cháy, ai
nấy lo cứu hỏa, riêng ngài vẫn ngồi yên chuyên chú học. Mãi sau lớn mới chuyển
qua học chữ Pháp, thi đỗ làm Thông phán tại nha quan thuế Hà Nội. Năm 1928, cụ
thân sinh Văn Đức Khiêm thất lộc, ngài suy tư về kiếp sống vô thường, bắt đầu
tụng kinh, nghiên cứu đạo Phật. Bẩm tánh thông minh lại sẵn Hán học, ngài vào
giáo lý thâm sâu rất dễ dàng.
Thời ấy người đời xô nhau theo
nếp sống mới, quên lãng đạo Phật. Nhưng ở các chùa thì Bồ-đề vẫn rộ nở hoa. Tổ
Vĩnh Nghiêm, Tổ Bằng, Tổ Sở, Tổ Cồn v.v... pháp tràng phất phới khắp nơi. Nhưng
giáo pháp vô thượng thậm thâm hoàn toàn được tuyên dương bằng chữ Hán ở các
chùa trên các đồi quê, gần như không quan hệ gì đến xã hội quần chúng. Các quan
chức như Tổng đốc Nguyễn Năng Quốc, Bùi Thiện Căn v.v... ý thức được sự lợi ích
của Phật giáo đối với nền văn hóa Việt Nam, hô hào thành lập hội Phật giáo.
Ngài nhiệt liệt tham gia. Từ đó một mặt giúp các Sư học đạo, một mặt giảng kinh
ở các chùa Quán Sứ, Hòe Nhai và các chùa nhỏ ở quanh vùng Hà Nội. Mở các lớp
học Phật Pháp cho các cư sĩ tinh tấn. Các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng,
thường thỉnh ngài giảng pháp, ngài đều vui vẻ đáp ứng.
Mùa xuân Canh Thìn, một phái
đoàn Tăng sĩ Trung Hoa sang thăm Việt Nam, trong đó có 2 ngài Đế Nhàn và Thái
Hư. Chùa Quán Sứ hồi ấy chưa đủ phòng xá tiếp đón khách Tăng, các ngài phải
nghỉ ở khách sạn của người Hoa. Cụ Văn Quang Thùy mon men đến xin học thiền. Ngài Thái Hư đáp: “Tôi
thấy Việt Nam
toàn tu Tịnh-độ, cư sĩ nên vâng theo”. Rồi ngay tại khách sạn, ngài Thái Hư
ngồi trên bàn, cụ quỳ dưới đất. Ngài trao Bồ-tát Giới và cho một mảnh thiếp để
kỷ niệm:
“Nhập Như Lai Tạng.
Văn tự quang minh
thùy vũ trụ.
Phật môn tuệ trạch
nhuận sinh linh.
Thời tại Canh Thìn
niên xuân,
Tam nguyệt nhị thập
lục nhật.
Thái Hư lữ Hà Nội”.
Năm 1935 cụ xin nghỉ việc, dành trọn thời giờ để phục vụ
Tam-bảo. Cụ đã dịch rất nhiều kinh tiếng Việt. Kinh Di Đà, Dược Sư, Hoa Nghiêm
phẩm Phổ Hiền v.v... cho tới nay vẫn đang lưu hành trong toàn quốc. Giảng kinh
Lăng Nghiêm ở Quán Sứ năm 1945, được học chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Chùa Hòe
Nhai thành lập hội Phật tử, mở lớp học Lăng Nghiêm. Cụ vừa dạy vừa phiên âm
sang tiếng Việt Nam.
Năm 1949, lần đầu tiên Việt Nam
in chữ quốc ngữ bộ kinh Lăng Nghiêm và Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương
Hoàng). Thấy tình hình quần chúng các thành phố toàn quốc đã rạng tỏ, cụ
xuất bản tờ Bồ Đề Nguyệt San, thân làm giám đốc. Những bài của cụ đăng trong
báo được coi như những hạt châu ngọc để lại cho hậu lai. Trên tờ báo này, những
ngọn bút danh tiếng khắp Bắc, Trung,
Nam đã cùng
nhau thi đua trình bày tư tưởng cao thâm.
Năm 1954 cụ xuất gia theo Hòa-thượng Thích Thiện Hòa và từ
đó lấy việc chuyên tu làm chính vụ. Cụ thị tịch năm 1964 trong tiếng niệm Phật
và chí nguyện vãng sanh.
Pháp tử Cát Tường Lan
Dâng phiến tâm hương
đền ơn pháp nhũ
Lời Người Dịch
Tu Thiền chắc chắn thành Phật. Tu Tịnh mau chóng thành
Phật. Tu môn nào cũng phải thấy rõ Phật tánh rồi mới thành Phật. Mỗi niệm Phật
danh là một nhớ đến Phật tánh. Thấy rõ Phật tánh là thành Phật quả. Thành Phật
là khôi phục lại tự do hạnh phúc.
Tìm hiểu tánh Phật của mình của người là sự nghiệp Tịnh-độ
hóa thế gian năm ấm ngũ trược của bảy thú. Sự nghiệp này Phật tử phải làm ngay.
Phật dạy: Tất cả chúng sanh ai cũng có tánh Phật. Bồ Tát
Giới nói: Ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành, thường khởi tin như vậy,
giới phẩm đã đầy đủ.
Áp dụng lời dạy trên vào đời sống, ta có 2 thực hiện: 1)
Vâng giới luật, không dám áp bức một loài nào dù là con sâu cái kiến. 2) Khai
trí tuệ bình đẳng, tôn trọng muôn loài hàm thức, tận tình cứu giúp lẫn nhau.
Có tâm Phật, mắt Phật như vậy là siêu phàm thoát tục.
Kinh Niết Bàn, Sư Tử Hống Bồ-tát hỏi: Tất cả chúng sanh
cùng có chung một Phật tánh hay mỗi người riêng biệt một Phật tánh?
Phật đáp: Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải hai, bình
đẳng như hư không.
Nói bình đẳng tất nhiên phải có nhiều cái so sánh với
nhau, thấy đều như hư không. Nghĩa là không hình không tướng nhưng bát ngát
mông mênh không bờ bến.
Hôm nay ta mới đến phương Đông nhưng Phật tánh của ta đã ở
đấy từ vô thủy rồi. Mai ta rời Đông đi Tây, Phật tánh của ta như hư không vẫn
mãi ở Đông mà cũng đã ở Tây từ vô thủy rồi. Thân nghiệp báo theo duyên đổi dời
vòng quanh luân chuyển khắp bảy thú. Phật tánh như hư không vẫn thường trụ ở
khắp mười phương. Vậy đương khi ta ngồi ở Việt Nam, niệm Phật cầu sanh Tây
phương, thì Phật tánh của ta như hư không vẫn ở Việt Nam và cũng đang ở An Lạc
thế giới cách đây mười vạn cõi Phật. Mỗi tiếng niệm Phật là Phật tánh của ta ở
khắp mười phương đều rung cảm. Duyên Sa Bà hết, duyên Tịnh-độ thành, nghiệp
trần lụy hết, nghiệp Tịnh-độ thành, thì thân đất nước gió lửa ở Sa Bà tan rã mà
thân hào quang rực rỡ sẽ hóa sanh. Tùy ý ta muốn hiện sanh phương nào, Phật
tánh của ta sẽ hiện thân ở phương ấy một khi nhân duyên đầy đủ.
Bản Như Lai Tạng diệu chân như tánh của người, của ta, của
chúng sanh, của Phật, bao giờ cũng thường hằng linh thông cảm ứng với nhau vô
lượng, vô biên, vô cùng, vô tận.
Nam mô Pháp Giới Tạng
Thân A Di Đà Phật.
Nam mô Vô Biên Thân
Bồ-tát ma-ha-tát.
Nam mô Hư Không Tạng
Bồ-tát ma-ha-tát.
Không Thiền tông, không Tịnh-độ
Địa ngục đêm ngày đau khổ
Muôn đời ngàn kiếp còn lâu
Nhờ cậy ai, ai tế độ?
Có Thiền tông, có Tịnh-độ
Như thêm sừng cho mãnh hổ
Hiện tại làm thầy trời người
Đời vị lai làm Phật Tổ.
Hà Nội, ngày 7-10-Tân Mão
(5-11-1951)
Tuệ Nhuận cẩn tự
KHÓA LỄ TỊNH-ĐỘ
TÁN PHẬT
Đấng pháp vương
Vô-thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng.
Đạo sư khắp trời
người,
Cha lành chung bốn
loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp tăng
kỳ.
Xưng dương cùng tán
thán,
Ức kiếp không cùng
tận.
Phật, chúng sanh tánh
thường không tịch.
Đạo cảm thông không
thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo
tràng,
Mười phương Phật bảo
hào quang sáng ngời.
Trước Phật đài thân
con ảnh hiện,
Cúi đầu xin đảnh lễ
quy y.
CHÍ TÂM ĐẢNH
LỄ:
— Nam mô tận hư không biến pháp
giới, quá hiện vị lai. Mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường
trụ Tam-bảo. (1 lễ)
— Nam mô Sa Bà giáo chủ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ Di Lặc tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi
Bồ-tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát, Đạo tràng hội thượng
Phật Bồ-tát, nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng. (1 lễ)
— Nam mô Tây phương An Lạc thế
giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại
Thế Chí Bồ-tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh đại hải chúng
Bồ-tát. (1 lễ)
SÁM HỐI
Con nay khắp vì bốn ân ba cõi
pháp giới chúng sanh tất nguyện đoạn trừ ba chướng quy mạng sám hối (1 lễ).
Chí
tâm sám hối
Con xưa đã tạo bao
nghiệp ác
Đều vì ba độc tham,
sân, si
Từ thân miệng ý phát
sanh ra
Hết thảy con nay cầu
sám hối.
Bao nhiêu nghiệp
chướng sâu nhường ấy
Nguyện đều tiêu diệt
không còn dư.
Niệm niệm trí soi
khắp pháp giới,
Rộng độ chúng sanh
thề không thoái.
Sám hối phát nguyện
rồi, chí tâm đảnh lễ
A Di Đà Phật biến
pháp giới thường trụ Tam-bảo (1 lễ).
TÁN HƯƠNG
Lư trầm vừa đốt, pháp
giới thơm lừng.
Xa đưa hải hội Phật
đều mừng.
Đâu đâu cũng thấy cát
tường vân.
Thành ý ân cần, chư
Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái
Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
CHÚ SẠCH KHẨU
NGHIỆP
Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu
tu lị, sa bà ha (3 lần).
CHÚ SẠCH THÂN
NGHIỆP
Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị,
sa bà ha (3 lần).
CHÚ SẠCH BA
NGHIỆP
Ám sa phạ bà phạ, truật đà sa
phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần).
CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đá một đà nẫm,
ám độ rô độ rô địa vĩ sa bà ha (3 lần).
CHÚ PHỔ CÚNG
DƯỜNG
Ám nga nga nẵng tam bà phạ phạt
nhật la hộc (3 lần).
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao sâu rất
nhiệm mầu,
Ngàn muôn ức kiếp dễ
hay đâu.
Con nay nghe thấy xin
vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai
hiểu thật sâu.
Nam mô Liên Trì hải hội
Phật Bồ-tát ma-ha-tát
(3 lần).
Mục Lục
Phẩm Tựa
Phần Chính
Tông
Phần Lưu
Thông