Hoa rụng trong thềm chùa - Ảnh: XNA
Thế nhưng, với sự biến đổi vô cùng tận của các thực
thể xã hội để rồi các hệ lụy khổ đau luôn song hành trong đời sống con
người, Phật giáo đã, đang và sẽ làm được gì để góp phần giải quyết vấn
nạn ấy? Từ trên nền tảng giáo lý đạo Phật ứng dụng vào thực tiễn cuộc
sống con người và xã hội nhằm định hình cho những nếp nghĩ, việc làm và
hành vi xã hội, ngang qua những khía cạnh dưới đây của người viết, rất
có thể sẽ làm sáng tỏ nhiều hơn về vấn đề này.
1. Vai trò của đạo đức cá nhân
Trong xã hội công bằng, mỗi con người đều phải nỗ lực
thực hiện đạo đức cá nhân, hoàn thành nhân cách bản thân, làm tròn bổn
phận của mình. Mối quan hệ giữa A và B chỉ có giá trị bền vững khi và
chỉ khi nó được thể hiện dưới biểu tướng của sự hỗ tương, bình đẳng và
cùng có lợi. Đức Phật dạy: “Cha mẹ đối với con cái cần thực hiện 5 điều.
Con cái đối với cha mẹ cũng thực hiện 5 điều. Chồng đối với vợ thực
hiện 5 điều và vợ cũng phải thực hiện 5 điều. Thầy đối với trò thực hiện
5 điều. Ngược lại, học trò đối với thầy cũng như thế. Bạn bè đối xử với
nhau cũng thực hiện 5 điều. Người lãnh đạo thực hiện 5 điều. Người giúp
việc, tôi tớ, nhân viên cũng phải thực hiện 5 điều để đáp lại. Tu sĩ
thực hiện 5 điều đối với tín đồ và ngược lại tín đồ cũng phải thực hiện 5
điều đáp lại.” (Trường Bộ. 16, Trung Bộ. 135, M. 31).
Trong các mối quan hệ xã hội ấy, nếu được duy trì
bằng những giá trị đạo đức thì kết quả của xã hội sẽ khác xa những thực
trạng của xã hội hiện nay. Và đặc biệt, đối với những mối quan hệ của
nhà lãnh đạo luôn có một ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế và tình hình xã
hội. Cho nên, đối với những nhà lãnh đạo mẫu mực, Phật giáo đưa ra 10
tiêu chí đạo đức để quản trị một xã hội tiến bộ:
Nhà lãnh đạo không được lạm dụng tài sản công cộng, hết lòng vì sự phát triển của quốc gia.
Nhà lãnh đạo biết tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân.
Nhà lãnh đạo phải luôn luôn đem tài sản, lương thực, nhu yếu phẩm chia sẻ cho dân chúng.
Nhà lãnh đạo chỉ nhận những tài sản, của cải vật chất hợp pháp, thuế vụ công minh.
Nhà lãnh đạo luôn luôn giữ thái độ hòa kính, tôn trọng nhân dân.
Nhà lãnh đạo có đời sống lành mạnh.
Nhà lãnh đạo không được liên hệ với các tệ nạn xã hội.
Nhà lãnh đạo không nên hiếu chiến, hung bạo.
Nhà lãnh đạo xét xử phải công minh, không lạm dụng luật pháp để gây oan trái cho nhân dân.
Nhà lãnh đạo phải có đủ sức khỏe để lãnh đạo đất nước.
Nói cách khác, nếu người lãnh đạo đối xử với nhân dân
bằng đạo đức thì tự thân quần chúng nhân dân sẽ tự đi vào quỹ đạo của
tự giác, đó là điều căn bản nhất tạo thành một xã hội công bằng, bình
đẳng, đạo đức, phát triển bền vững lâu dài, an vui, hạnh phúc tại thế
gian (Tăng Chi Bộ Kinh, 46 - Dasa Raja Dhamma Jataka).
Mái chùa - Ảnh tư liệu
2. Vai trò đạo đức Phật giáo đối với quan hệ xã hội
Trên bình diện quan hệ đạo đức, giáo lý đức Phật đã
khẳng định rằng, nếu 5 nguyên tắc đạo đức được thực hiện nghiêm túc thì
các tiêu chuẩn của một xã hội công bằng sẽ được hiện thực hóa trong đời
sống nhân sinh. Điều đó đồng nghĩa rằng, hạnh phúc là một hiện hữu thực
sự chứ không phải là một lý thuyết để con người mơ ước nếu chúng ta thực
hiện đầy đủ các điều kiện của nó.
Ở đời, ai cũng thích sống còn, ai cũng muốn được an
vui hạnh phúc, ai cũng biết quý trọng những giá trị của bản thân. Chính
vì thế, chúng ta cũng phải biết quý trọng những giá trị thuộc về người
khác. Do đó, những hành động giết hại hay hủy diệt đời sống của một sinh
linh cho đến gây hấn chiến tranh, hủy hoại hàng loạt, cần phải lên án
và ngăn chặn một cách hiệu quả. Như khế kinh nói:
Ai cũng sợ gươm đao,
Ai cũng thích sống còn.
Hãy lấy lòng mình suy lòng người,
Chớ giết người, chớ bảo giết người,
Chớ tùy hỷ giết người.
(Pháp Cú, 5)
Mặt khác, ai cũng thích bảo vệ tài sản, của cải, vật
chất của mình thì vì lẽ gì mình lại đi cưỡng đoạt, chiếm lấy của người.
Thậm chí, những hiện tướng tiêu cực của tham ô, tham nhũng, lừa đảo, móc
ngoặc... đã và đang là hiểm họa của rất nhiều nước trên thế giới. Chính
vì không chế ngự được lòng tham mà người người lo sợ, nhà nhà đề phòng,
đất nước nghèo nàn, xã hội lạc hậu. Tất cả hậu quả đó nhân loại chúng
ta đã và đang phải gồng mình chịu đựng. Chỉ có điều, nếu chúng ta biết
chiêm nghiệm lời dạy của người xưa: “Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi
nghĩa bất thủ” thì xã hội hiện nay đã không còn bóng dáng của khổ đau,
nghèo đói.
Một vấn đề nữa cũng mang tính thời sự không kém, đó
là hạnh phúc của gia đình. Đây là phạm trù có rất nhiều khái niệm và
khía cạnh liên quan. Nhưng cơ bản nó vẫn được định giá trên các tiêu chí
của tiết dục, chung thủy, anh em hòa thuận, vợ chồng ấm êm, con cái
ngoan hiền… Chính vì thế mà sự loạn luân, quan hệ bất chánh, bất hòa và
những thuộc tính tiêu cực khác sẽ là những tác nhân phá hoại các biểu
thức của hạnh phúc và luôn được xem là trái với luân lý, đạo đức của xã
hội cũng như cá nhân. Phật giáo với nguyên tắc thứ ba là đời sống gia
đình lành mạnh đã trở thành tiêu chuẩn mẫu mực cho mô hình gia đình hạnh
phúc. Với nguyên tắc ấy, các hành vi mang chất liệu độc hại cho đời
sống hạnh phúc sẽ là đối tượng để chúng ta chuyển hóa. Ai cũng muốn bảo
vệ gia đình, hạnh phúc cá nhân mình thì có lý nào lại nhẫn tâm phá hoại
hạnh phúc của người khác. Nếu chỉ vì một sự thỏa mãn của dục vọng mà
mình đi ngược lại với đạo đức, chà đạp lên luân lý, thì đó là một tội ác
không chỉ với cá nhân mà còn đối với xã hội và cộng đồng.
Có thể nói rằng, con đường đi đến hạnh phúc có trăm
ngàn nẻo, nhưng tôn trọng sự thật là yếu tố quan trọng đưa đến hạnh phúc
vững bền. Thông thường, không một ai thích bị lừa dối, phỉnh gạt. Vì
sao? Vì sai sự thật không bao giờ được chấp nhận là một phần của chân
lý. Chân lý thì trước hết phải là sự thật. Giả dối chỉ là sự biểu hiện
không nghiêm túc của một ý thức hình sin. Nó không thể là chất liệu cần
thiết cho sự vững bền của hạnh phúc con người. Thế nhưng, trong thực tế
của cuộc sống, sự giả dối được xem là một phần của hoạt động con người.
Nó thường hiện hữu trong lời nói, hành động, ý nghĩ của chúng ta. Và với
tỉ lệ càng cao bao nhiêu thì chỉ số hạnh phúc sẽ tỉ lệ ngược bấy nhiêu.
Bởi vậy, nguyên tắc thứ tư của đạo đức Phật giáo đề cao sự tôn trọng sự
thật chính là để bảo đảm sự tín nhiệm lâu dài và bền vững trong các
quan hệ xã hội giữa con người với nhau. Như cổ đức nói: “Một lời nói
chính xác thì được 10 ngàn người sử dụng, tin tưởng. Một lời nói không
đúng thì không thành tựu các công việc trên thế gian này.” (Nhất ngôn
trúng, vạn ngôn dụng. Nhất ngôn bất trúng, vạn sự bất thành).
Một yếu tố nữa liên quan đến hạnh phúc của con người,
đó là sức khỏe. Ở đời ai cũng mong muốn mình được mạnh khỏe, tinh thần
minh mẫn. Nhưng muốn được khỏe mạnh thì xa lánh các chất độc hại được
coi là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất trong Phật pháp. Với
nguyên tác đạo đức thứ năm là không sử dụng các chất kích thích, đời
sống của người Phật tử thường được mặc định là thanh tịnh hoàn toàn. Bởi
thế, người thực hành nguyên tắc này, các chất gây say xỉn, xì ke, ma
túy, các chất hêroin… đều xem là độc tố không những làm cho con người
phải hư hỏng mà còn trở thành sản phẩm xa xỉ, vô ích cho một đời sống
hạnh phúc. Trong ý nghĩa công bằng ấy, mọi người sẽ an vui hạnh phúc, xã
hội ổn định, minh mẫn nếu mỗi chúng ta tự thiết lập cho mình một đời
sống lành mạnh hoàn toàn.
3. Ý nghĩa của phúc lợi xã hội
Xuất phát từ lòng từ bi, không ái nhiễm, bình đẳng
trong các mối quan hệ, đức Phật dạy phương pháp phân chia lợi dưỡng theo
tinh thần lợi hòa đồng quân. Cách thức này không bình quân hóa tất cả
mà là chú trọng ở sự chia sẻ dựa trên tinh thần yêu thương và cảm thông.
Đứng về phương diện phúc lợi xã hội mở rộng trên các lĩnh vực giáo dục,
văn hóa, y tế, lương bổng, bảo hiểm, tiền thưởng, khen thưởng… thì mọi
người đều sẽ được hưởng đồng đều bằng tình thương và bình đẳng. Trong
đó, người có năng lực chia sẻ cho người yếu kém hơn để họ tự vươn lên
bằng con đường của chính họ. Với tình thương đồng loại, cuộc sống của cả
hai, người chia sẻ và người được sẻ chia, đều không bị chi phối bởi
tham lam, sân hận, mà thay vào đó là những nỗ lực chuyển hóa nghiệp lực
của cá nhân và cộng đồng. Người có khả năng sẽ hỗ trợ cho người yếu hơn
vững tin trên con đường hướng về hạnh phúc, còn người yếu hơn sẽ nỗ lực
trong công tác xã hội, hoàn thiện bản thân, phát triển tình người trong
cộng đồng, gây nhân bố thí, tùy hỷ trước mọi thành tựu của người khác,
đồng thời san bằng những bất ổn trên đường đời để cùng hướng về một xã
hội ấm no hạnh phúc, bình đẳng và công bằng, không có sự đàn áp, bóc lột
nhau trong văn minh, tiến bộ, đạo đức được phát huy. Như ca dao Việt
Nam có câu: “Ở đời muôn sự của chung. Nhường cơm sẻ áo sống cùng với
nhau”.
Hương hoa súng đầu mùa - Ảnh: Giang Phong
4. Về phương diện nông nghiệp, công nghiệp và mậu dịch
Với tinh thần vô tham, bình đẳng và tình thương chan
chứa trong mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp đều có sự tương
quan bằng hình thức và phương pháp thực hiện chân chính, hợp lý, công
bằng. Giới sản xuất công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp, giới nông
nghiệp phục vụ lương thực cho công nghiệp. Mối quan hệ đó luôn thể hiện
rất rõ sự bình đẳng, tương xứng, hợp lý trong cung - cầu chính đáng, hợp
pháp, chân thật, bền vững. Vì mọi người đều thừa nhận giá trị sản phẩm
phải được định lượng tương xứng và hợp lý, không ai bị thiệt thòi,
không bị ép giá, không có những rào cản trong mối quan hệ sản xuất và
tiêu dùng. Như thế gian thường nói: “Của một đồng, công một nén…” Do đó,
tất cả phải được tôn trọng lẫn nhau để cùng phát triển bền vững trong
xã hội hiện nay. Như đức Phật đã dạy, khi mặc chiếc áo trên thân nên
nghĩ công lao người dệt vải, hàng ngày dùng ba bữa, phải nghĩ sự cực khổ
của người nông dân. Đó chính là nền tảng của mối quan hệ bình đẳng
trong xã hội Phật giáo.
Về phương diện thực hiện lối sống lành mạnh, nghề nghiệp chân chánh thì có bốn yếu tố:
Đầy đủ các phương tiện, có trình độ, giỏi tay nghề.
Giữ gìn tài sản hợp pháp.
Kết thân, liên hữu mọi thành phần có thiện chí.
Đầy đủ chính mệnh.
Nói khác đi, giáo lý đức Phật cho rằng, Một đời sống
đích thực luôn đi kèm với nếp sống lành mạnh, lựa chọn nghề nghiệp, tạo
địa vị, sự giàu sang một cách chân chính và bằng sự nỗ lực tự thân cũng
như đạo đức nhân bản. Do đó, Đức Phật dạy: “Chân chính về sinh hoạt và
nghề nghiệp là nguyên nhân chủ yếu chấm dứt khổ đau đời này và những đời
sau”. Đây là công năng của con đường Bát Chánh trong việc xây dựng xã
hội công bằng, chân chánh, bình đẳng, dân chủ, tự do. Và điều đó cũng
chính là nội dung của đoạn kinh sau:
Phương tiện tạo nghề nghiệp
Tích lũy nên giữ gìn
Người thiện nam, trí thức
Tự sống với chính mệnh
Tịnh tín, giới đầy đủ
Bố thí, lìa tham lam
Trừ bỏ con đường mê
Đời sau được an lạc
Nếu sống trong gia đình
Thành tựu các pháp ấy
Hiện tại được an ổn
Hiện tại sống Hỷ lạc
Đời sau cũng Hỷ lạc. (Tạp A Hàm, 91).
Như vậy, với nền tảng không mong cầu tư lợi, không
chiếm đoạt của người, không lừa dối nhau, giáo lý Phật Đà đã định hướng
rất rõ một con đường xây dựng xã hội, con đường đó chính là năm nguyên
lý đạo đức và con đường Bát Chánh. Với con đường này, đức Phật đã chỉ
cho chúng ta thấy một xã hội lý tưởng điển hình ở cõi Tây Ngưu Hóa Châu:
“Chúng sinh cõi ấy đem súc vật đổi lấy cơm gạo, áo tiền, thuốc men, máy
móc, y phục. Lấy thuốc men, vải vóc trao đổi cơm áo, súc vật một cách
cân đối đồng đều, công bằng, hoan hỷ mậu dịch với nhau không có sự tranh
chấp kiện thưa.” (Trường Bộ Kinh, số 30).
Tóm lại, bằng giáo lý thực tiễn được xây dựng trên
tinh thần từ bi, bình đẳng, đạo đức nhân bản của con người, đạo Phật đã
cải thiện đời sống tâm linh, làm bớt đi tham ái, sân hận, để thay vào đó
là sự hỷ xả với nhau, thương yêu đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau những
kinh nghiệm tri thức, những tài sản vật chất, phúc lợi xã hội, để cùng
phát triển trong sự cân đối giữa trí tuệ và vật chất, thể xác và tâm
hồn, hay giữa người với người trong cộng đồng xã hội.
Và như vậy, đạo Phật đã xây dựng cho con người một
định hướng về xã hội thuần lương, chân thiện mỹ không những về một hình
thái mà còn cả chất liệu an bình, giải thoát mang tính chân thật, vững
bền và cứu cánh. Trong xã hội ấy, tham sân si, khổ đau, bất công sẽ
không còn hiện hữu. Thật như đức Phật nói: “Nơi nào có tình thương, chân
thật, bình đẳng, công bằng thì nơi ấy không có khổ đau. Vì nguyên nhân
của khổ đau là tham dục đã bị đoạn trừ. Và chính đấy cũng là một thế
giới hoàng kim, thiên đường, cực lạc tại nhân gian” (Trung Bộ Kinh).
Và cũng chính là tấm lòng từ bi, vô tham, vô sân, vô
si mà hoa tình thương nở rộ trong lòng người và trên khắp mọi nẽo đường
của xã hội công bằng, bình đẳng, hạnh phúc lâu dài, đời này và đời sau
cho đến khi hoàn toàn giải thoát.
HT. Thích Thiện Nhơn (GNO)