Như ta biết, phái Cách-lỗ mũ vàng, đệ tử của Tông-khách-ba
phát triển hoạt động mạnh mẽ sau khi ông chỉnh đốn lại nền Phật giáo Tây Tạng
trong thế kỷ thứ 14. Nhưng mãi đến năm 1578, Cách-lỗ mới phát huy cao điểm. Đó
là năm mà một vị sư trưởng tên là Sonam Gyatso [1] đi gặp nhà vua Mông Cổ Altan
Khan (Yêm-đáp-hãn). Vị sư trưởng thuyết pháp cho quần thần và thông báo rằng
nhà vua chính là hậu thân của đại đế Hốt Tất Liệt còn chính sư trưởng là hậu
thân của Phát-tư-ba mà Phát-tư-ba lại là quốc sư của cả triều Nguyên dưới thời
Hốt Tất Liệt ba trăm năm trước đó [2]. Nhà vua Mông Cổ Altan Khan tin nghe,
động tâm theo đạo lý, là kẻ "suốt đời chinh chiến, từ đây đã xếp cung đao
để tin sùng đạo Phật, dồn sức cho văn trị, lại theo Phật chỉ, cấm bộ chúng chém
giết" [3]. Nhà vua tặng Sonam Gyatso danh diệu bằng tiếng Mông Cổ
"Dalai", dịch âm là "Đạt-lai", dịch nghĩa là "đại
hải" (biển lớn) và xem vị Đạt-lai lạt-ma này là một hoá thân của Quán Thế
Âm. Thế nhưng vị Đạt-lai lạt-ma không quên dòng tu của mình là từ Tông-khách-ba
nên truy phong vị sư trưởng tu viện Tashilhungpo tại Shigatse là Gendun Drub
làm Đạt-lai thứ nhất, vị tu viện trưởng kế thừa là Gendun Gyatso làm vị thứ hai
và bản thân mình là Đạt-lai thứ ba. Kể từ đó sau khi mỗi vị Đạt-lai lạt-ma chết
đi, người ta đi tìm vị tái sinh để đưa lên ngôi kế vị.
Khoảng đến đầu thế kỷ thứ 17, Tây Tạng rơi vào rối ren nội
bộ, thế lực yếu dần trong lúc Trung Quốc và Mông Cổ phát triển quyền lực tới
mức cao nhất. May thay sau khi vị Đạt-lai thứ tư mất năm 1617, người ta sớm tìm
ra vị tái sinh. Vị Đạt-lai thứ năm này tên là Losang Gyatso [4] và có lẽ là vị
vĩ đại nhất trong cả dòng Đạt-lai. Ông vừa là một nhà học giả uyên thâm vừa là
một nhà chính trị và ngoại giao khôn khéo và là một kiến trúc sư xuất
chúng.
Vị Đạt-lai thứ năm chính là người cho xây dựng điện Potala,
công trình này kéo dài từ 1644 đến 1692. Trong cuối đời, Đạt-lai thứ năm dành
hết thì giờ cho việc hành trì thiền định và để hết quyền bính cho người phụ
chính. Đạt-lai thứ năm mất đi khi công trình xây dựng Potala còn dang dở và bên
giường bệnh, vị phụ chính nhận lệnh của ông sẽ không thông báo việc ông mất cho
đến khi Potala hoàn thành. Vị phụ chính giữ lời, cho người giả dạng Đạt-lai thứ
năm trong các cuộc tiếp kiến, mãi 13 năm sau mới công bố cái chết, đồng thời
giới thiệu luôn vị thứ sáu.
Những điều bí mật này chỉ làm cho phái Cách-lỗ mất uy tín và
sau đó vị Đạt-lai thứ sáu cũng không thọ được lâu, ông bị mưu sát năm 23 tuổi.
Trước đó thì tại Trung Quốc, bộ tộc Mãn Châu diệt nhà Minh, giành thắng lợi và
lập nên nhà Thanh. Tuy nhà Thanh trọng đãi Tây Tạng nhưng có lẽ cũng chính vì
quyền lợi thế tục đó mà các vị Đạt-lai gặp vô số âm mưu sau những vách tường đồ
sộ của Potala. Lịch sử Tây Tạng cũng rối ren và đẫm máu như các triều đình khác
ở châu Á. Ta cần biết rằng phái Cách-lỗ mũ vàng cũng tiến hành các cuộc truy
bức chống lại phái Hồng mạo mũ đỏ và dòng Kamarpa trong nội bộ Tây Tạng, chống
lại chính những người con Phật. Các phe phái của Tây Tạng cũng dựa vào lực
lượng nước ngoài như Mông Cổ và Trung Quốc để làm cảnh nồi da xáo thịt. Đọc lại
tiểu sử các vị Đạt-lai, ta thấy đó là một chuỗi lịch sử đầy bí ẩn với âm mưu
tranh giành quyền lực của những người phụ chính, trong và ngoài nước. Vị
Đạt-lai thứ sáu chết lúc 23 tuổi. Vị thứ bảy bị lưu đày. Vị thứ tám không có
thực quyền. Vị thứ chín chết năm lên chín, còn là một đứa trẻ. Vị thứ 10 chết
năm 21 tuổi. Vị thứ 11 chết năm 17 tuổi. Vị thứ 12 chết năm 19 tuổi. Người ta
ngờ rằng, từ vị thứ chín đến đến vị Đạt-lai thứ 12, ai cũng bị chết vì mưu sát
cả [5]. Vị thứ 13 ra đời năm 1876, là người xuất sắc nhất chỉ đứng sau vị thứ
năm, lập lại kỷ cương của Lhasa.
Trong thời kỳ của ông, các nước châu Âu như Anh, Nga bắt đầu dòm ngó Tây Tạng,
đồng thời Trung Quốc biến động dữ dội. Sau khi nhà Thanh mất năm 1911, quân đội
Trung Quốc rút khỏi Tây Tạng. Đạt-lai thứ 13 từ Ấn Độ trở về năm 1913, tuyên bố
Tây Tạng độc lập. Trong năm đó có một hội nghị tại Simla Ấn Độ thảo luận và
chấp nhận chủ quyền Tây Tạng, nhưng Trung Quốc không thừa nhận. Năm 1933 vị
Đạt-lai thứ 13 mất, bảy năm sau vị thứ 14 lên ngôi, đó là vị Đạt-lai còn sống
đến ngày nay.
Năm 1949 nước Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc được thành lập,
năm sau họ đem quân chiếm đóng Tây Tạng. Năm 1959, vị Đạt-lai thứ 14 bí mật di
tản qua Ấn Độ và ngày hôm nay Tây Tạng là một phần đất của Trung Quốc, được gọi
văn vẻ là "khu tự trị".
Như thế là dòng Đạt-lai lạt-ma, thuộc phái Cách-lỗ, là người
lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng hơn 400 năm qua, kéo dài được 14
đời. Trong thời gian đó, kể từ thế kỷ thứ 17 đến nay, điện Potala là kiến trúc
thiêng liêng nhất Tây Tạng, nơi đặt bảo tháp chứa di cốt của các vị Đạt-lai và
cũng là dinh thự lãnh đạo chính trị.
Thật ra Potala đã được xây dựng từ thời Tùng-tán Cương-bố, vị
Đạt-lai thứ năm chỉ là người xây dựng lên qui mô ngày nay. Vị vua Tùng-tán
Cương bố được xem là một hiện thân của Quán Thế Âm, ông đã chọn miếng đất
thiêng liêng này, nó được xem là hiện thân của trời Đâu-suất trên trái đất. Vì
thế mà nếu Phổ Đà là trú xứ của Quán Thế Âm ngoài đông hải thì Potala là cung
điện của Ngài trên nóc nhà của thế giới.
Điện Potala là ngôi đền lớn nhất Tây Tạng. Tuy vượt xa các
tòa kiến trúc khác nhưng nó dựa lưng một ngọn núi mang tên là Marpori (hồng
sơn) nên tuy ngôi điện hết sức uy nghi nhưng nó hài hòa với khung cảnh xung
quanh. Trước ngôi điện là một quãng trường rất lớn để từ rất xa người ta có thể
nhìn ngắm, cảnh quan thật là xứng đáng với tầm cỡ của điện. Ngôi điện có bề
ngang khoảng 360m, được lợp bằng mái mạ vàng, với 13 tầng cao khoảng 120m so
với mặt đường. Tổng diện tích của điện lên tới khoảng 360.000 mét vuông. Ngôi
điện màu đỏ mà người Trung Quốc gọi là "hồng cung" nằm trên cao, ngôi
màu trắng màu trắng ở dưới. Ngôi màu đỏ là khu vực trung tâm của Potala, là nơi
thờ tự thiêng liêng nhất của điện.
Trong lúc vô số người Tây Tạng tay quay bánh xe cầu nguyện,
vai mang lễ vật đi vòng quanh điện theo chiều kim đồng hồ để leo lên thì xe bus
chở chúng tôi được phép chạy lên tới đỉnh. Tôi có chút tiếc nuối và xấu hổ, lẽ
ra mình phải đi bộ để tâm lắng đọng trước khi vào chốn ẩn mật của điện. Nhưng
khi nhìn hàng trăm hàng ngàn bậc cấp và tự thấy hơi thở mình còn gấp, môi mình
còn tím, tôi thầm cám ơn ban tổ chức tour biết sức du khách. Lên tới chỗ xe
đậu, tôi mới biết mình còn phải leo bộ nhiều và sẽ còn đi qua vô số khám thờ,
bảo tháp, phòng thiền định. Không ai biết rõ trong ngôi điện mênh mông này có
bao nhiêu gian, có người nói 750 phòng, có tài liệu ghi 999 phòng.
Vào nội điện, mùi đèn mỡ trâu làm tôi nhớ Jokhang và bức
tượng Đức hạnh cao quí Jowo. Tôi biết rõ rằng các vị Đạt-lai từng trị vì trong
điện Potala này cũng đều đã được đăng quang tại Jokhang, trước mặt Jowo. Ánh
đèn mờ tỏ cho thấy tôi đang đi trong Tàng kinh các, đó là nơi cất chứa kinh điển.
Kinh điển Tây Tạng làm bằng những khổ giấy hẹp, chúng được để rời không đóng
gáy. Trong Potala các kinh điển quí báu đó đều được bọc bằng lụa đỏ hay vàng,
chứa trong các khung gỗ đặt cao, du khách không rờ tới được. Hệ thống kinh điển
của Tây Tạng thật đáng ngạc nhiên cho một nước có khoảng 5-6 triệu dân, đó là
một tập hợp đồ sộ của nhiều tạng kinh mà chữ Hán cũng chưa chắc có. Vài ngày
sau, trong một tu viện khác tôi có dịp thấy hai người đang in kinh, cách làm
thủ công. Một trong hai người đó là một cậu bé khoảng 12 tuổi, khuôn mặt sáng
rực, tay in kinh, miệng đọc thần chú. Cậu là tái sinh của ai ?
Sau Tàng kinh các, chúng tôi bắt đầu đi từ phòng này qua
phòng khác với vô số tượng. Tượng đầu tiên tôi thấy trong Potala là A-đề-sa và
các vị Đạt-lai và sau đó tôi không còn ghi chép nổi. Đây là A-đề-sa, vị tu sĩ
mà tôi đã nhiều lần "gặp" trong các câu chuyện do chính mình dịch ?
Đây là kẻ lữ hành người Ấn Độ đã từng tới cả đảo Sumatra của Indonexia ngày
xưa, kẻ đã chịu đi Tây Tạng mặc dù biết trước vì chuyến đi đó mà mình sẽ giảm
thọ 12 tuổi. Đây là kẻ mà mỗi lần có gì thắc mắc là cứ hỏi ý kiến của Quán Thế
Âm, cứ như hỏi bạn thân.
Potala phải là một pháo đài kiên cố, đường đi quanh co không
ai nhớ nổi. Tôi bỗng đứng trước các tượng của 13 vị Đạt-lai lạt-ma. Trong 13 vị
đó, như ta đã biết, vị thứ năm là vĩ đại nhất, "le cinquième", có một
người Pháp cất tiếng nói. Tượng của ông cũng to lớn hơn các tượng khác, công
của ông rực rỡ hơn công các vị khác.
Trong ánh sáng của đèn mỡ trâu chúng tôi đứng trước tám ngôi
tháp đựng di cốt của các vị Đạt-lai. Tháp được mạ vàng và mang nhiều ngọc quí.
Tháp của vị thứ năm cao khoảng 15m và được bọc bởi 3700kg vàng. Vàng bạc châu
báu quả là không thiếu tại Potala, đó là một kho tàng của nghệ thuật tôn giáo
và là nơi cất chứa không biết bao nhiêu tượng vàng. Đến trước một tượng của
Di-lặc với cặp mắt xanh biếc, tôi nhớ lại Ung Hoà Cung tại Bắc Kinh và những gì
Ngài nói về tự tính của "các pháp". Ôi, tất cả "đều không có gì
thành tựu cả", đó là cách nói về Tính Không của Ngài, nhưng đó là nhận
thức của Ngài, còn nhận thức của người thường là khác. Một nơi tập hợp châu báu
và quyền lực như Potala phải đánh thức lòng tham của nhiều người, xưa cũng như
nay. Và lòng tham phải gây đổ máu, tôi tự nhủ khi nhớ tới lịch sử của Potala vài
trăm năm trước và mấy chục năm gần đây. Những chuyện đó vẫn đè nặng nơi tôi, lẽ
ra tôi không nên có khi đi vào chốn ẩn mật này.
Hỡi Liên Hoa Sinh, ngày xưa Ngài đã hàng phục âm binh sao
ngày nay không ra tay với các loại ma quái tân thời. Tôi hỏi thế khi đứng trước
tượng Liên Hoa Sinh, bức tượng mà ai cũng nhận ra với cặp mắt trợn tròn, môi có
râu. Người Tây Tạng ai cũng tin Ngài chưa hề đi xa, vẫn còn đó để ra tay khi
đúng thời đúng lúc. Đạt-lai thứ 14 cho rằng trong đời này của ông, ông sẽ còn
về lại đất Tây Tạng. Năm nay ông cũng đã 65 tuổi, liệu ông có lý ?
Chúng tôi được phép leo lên đến nóc điện, ở đây ta có thể
nhìn ra xa. Thật là một cảnh quan hùng vĩ, xung quanh toàn là mái điện thếp
vàng. Chỗ tôi đứng chính là chỗ mà Đạt-lai thứ 14 ngày xưa, lúc còn một đứa trẻ
đứng nhìn xuống dưới mặt đất xa tít thấy trẻ con cùng tuổi chơi đùa. Ông ước ao
được xuống chơi với chúng nhưng không được, cuối cùng chỉ sắm cái ống nhòm,
theo lời tự thuật của ông. Ngày nay chỗ trẻ con chơi ngày xưa đã trở thành chỗ bán
đồ lưu niệm, chỗ đậu xe và tiếc thay, có không ít trẻ ăn xin ngồi chờ khách.
Rời nóc điện tôi đi thăm chỗ ngủ, phòng làm việc, phòng tiếp khách, phòng thiền
định của các vị Đạt-lai. Các phòng này để nguyên không hề thay đổi kể từ ngày
Đạt-lai thứ 14 ra đi. Tôi nhớ đến ông, nhớ lúc gặp ông tại Bonn. Tôi có cảm tưởng rằng ông thấu hiểu tất
cả tệ hại của một hệ thống tăng lữ dính líu tới quyền lực của dòng Đạt-lai của
mình, ông đã thấy nghiệp lực nặng nề của tổ tiên mình để lại. Song song ông
cũng nhìn thấy hết tham vọng của chính quyền Trung Quốc đối với Tây Tạng, thể
hiện trong những thế kỷ qua cũng như trong thời đại này. Ông biết rằng tình
hình đen tối của ngày hôm nay tại Tây Tạng là kết quả của một chuỗi lịch sử mà
những người lãnh đạo ham quyền lực của Trung Quốc lẫn Tây Tạng đã gây ra. Có
nhiều lần ông nói, "tôi chỉ là một tu sĩ Phật Giáo thông thường". Qua
câu nói đó tôi cảm nhận rằng đó không phải chỉ là sự khiêm cung cần có của một
tăng sĩ mà sự đoạn tuyệt với quá khứ của chế độ tăng lữ sa lầy trong quyền lực
thế gian.
Đi xuống dưới chân điện Potala tôi ra lại quãng trường trước
mặt, nhìn ngắm lại lần cuối. Đồng hồ chỉ buổi tối mà trời còn sáng như ban
ngày. Tôi sực nhớ Tây Tạng thuộc về Trung Quốc, ở đâu đồng hồ cũng chỉ một giờ,
đó là giờ Bắc Kinh. Bắc Kinh và Lhasa cách nhau
dễ cũng bốn múi giờ nhưng Lhasa
phải theo Bắc Kinh. Tám giờ tối của Lhasa
nhưng trời còn sáng như bốn giờ chiều. Người Tây Tạng xem ra dễ tính, giờ giấc
đối với họ sao cũng được. Nhưng một dân tộc vài triệu dân mà kinh điển của họ
không thua Trung Quốc thì phải hiểu họ có một nền văn hóa riêng biệt và độc
đáo.