Trên
cơ sở đó, Thiền Phật giáo
triển khai các phạm trù về nhận thức và giải thoát rất đặc thù. Theo
Thiền
Phật giáo, để nhận thức được bản chất đích thực của Không nhằm đạt tới
chân
lý tuyệt đối thì cần phải vượt qua nhận thức lý tính bằng trực giác,
gọi là
trí Bát nhã (Prajna Paramita). Phân tích quan niệm của Thiền Phật giáo
về
quá trình nhận thức, và cùng với nó là quá trình giải thoát, tác giả
muốn
chỉ ra thế mạnh cũng như hạn chế của những quá trình mang tính hướng
nội và
cá thể này. Cũng chính vì vậy, theo tác giả, có thể lý giải được sự lan
toả
đang rất thành công của Thiền Phật giáo trên thế giới hiện nay.
Thiền
thực sự có vị thế trong triết
học Phật giáo. Ngày nay, Phật giáo đang phát huy một số đặc trưng độc
đáo để
hội nhập và lan toả sang phương Tây một cách thành công, trong đó có sự
góp
phần của Thiền. Bài viết này cố gắng làm rõ một số đặc trưng của Thiền
Phật
giáo từ góc độ vấn đề cơ bản của triết học để góp phần nhận diện và
phát huy
cũng như bảo tồn những đặc sắc của tư duy phương Đông, cũng là của Phật
giáo
nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.
"Thiền"
là một khái niệm xuất hiện
rất sớm, từ thời kỳ văn minh Veda của Ấn Độ cổ đại tới thời Đức Phật,
Thiền
trở thành khái niệm chuyên biệt chỉ phép tu đặc trưng riêng của Phật
giáo.
Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo, khi phát triển những nguyên lý
cơ
bản của giáo lý trên tinh thần mới, Thiền luôn đóng vai trò lý luận.
Đến
Thiền tông, tư tưởng Thiền Phật giáo đã đạt tới tầm triết học với hệ
nguyên
lý, khái niệm và cấu trúc đặc trưng và độc lập. Điểm riêng biệt là Phật
giáo
không triển khai và phát triển hệ vấn đề như triết học phương Tây, và
cũng
không hoàn toàn giống các hệ triết học phương Đông khác. Song, những
nguyên
lý và khái niệm đặc trưng của Thiền Phật giáo thể hiện khá rõ nội dung
triết
học phổ quát của riêng nó, nổi trội nhất là nguyên lý "Không” và các
phạm
trù về nhận thức và giải thoát mà Thiền học đã triển khai thành công.
1. Nguyên
lý "Không"
Tư
tưởng Thiền Phật giáo thừa nhận
nguyên lý có một thực tại tối hậu, bất biến đằng sau hiện tượng. Thực
tại đó
không thể nắm bắt hay nhận thức được bằng nhận thức thông thường nên
tạm gọi
là "Không” hoặc "Vô" hay nhiều tên gọi khác. Đây là một xuất phát điểm
căn
bản cho khuynh hướng nhận thức thoát ly khái niệm của cả hệ thống. Đây
cũng
là một trong những đặc trưng của lối nhận thức phương Đông nói chung và
ở Ấn
Độ nói riêng mà Phật giáo đã tiếp thu và Thiền học phát triển thành một
điển
hình. Nguyên lý Không phổ quát của Thiền Phật giáo là một khẳng định ở
tầm
chủ thuyết chứ không còn là một phủ định thông thường.
Thiền
Phật giáo cho rằng, mọi hiện
tượng không nằm ngoài quy luật nhân quả (duyên khởi) phổ quát, do đó
chúng
vận động, biến đổi không ngừng. Không có hiện tượng nào hoàn toàn độc
lập và
bất biến. Phật học đã tổng kết rằng, mọi hiện tượng đều trong vòng biến
đổi
sinh/thành - trụ - hoại/dị - diệt/không của sự vận động thái cực có -
không.
Từ đó, Thiền học tiếp tục khẳng định từ góc độ nhận thức luận rằng,
hiện
tượng chỉ là ảo ảnh của bản thể và được gọi bằng các thuật ngữ "vô
thường",
"vô ngã" hay 'không thường còn", với nghĩa là không tồn tại thực.
"Không”
mới là bản thể tối hậu (chân như), là nơi sinh ra và trở về của mọi
hiện
tượng, là cái thường còn, không phụ thuộc vào nhân quả, siêu vượt mọi
hiện
tượng. Do vậy, không thể miêu tả nó bằng khái niệm. Chỗ này rất giống
với
Đạo của Lão Trang ở Trung Quốc.
Thiền
học phân định rõ rằng, có một
thực tại tuyệt đối cần nhận thức là cái đằng sau thế giới hiện tượng,
nhưng
không thể diễn tả bằng khái niệm, vì đó không phải là tổng số các thuộc
tính,
không phụ thuộc vào điều kiện và không bị quy định. Đó gọi là thực tại
phi/siêu
hiện tượng, là cái tuyệt đối phổ quát, chỉ có thể tạm biểu đạt bằng
khái
niệm "Không" hay "Chân như” hoặc “Nhất như” nào đó. Từ nguyên lý Không,
Thiền Phật giáo đã triển khai các phạm trù về nhận thức và giải thoát
rất
đặc thù.
2. Một
số phạm trù về nhận thức
Trên
cơ sở bản thể luận Không,
Thiền Phật giáo đặt ra mục đích là phải nắm bắt cho được cái bản chất
đích
thực của thực tại tuyệt đối Không. Do vậy, Thiền học không phủ nhận khả
năng
nhận biết bản thể tối hậu, mà còn khẳng định rằng, "trí tuệ này không
phải
mới có mà đã có sẵn từ xưa, ngủ ngầm trong chúng ta..."(1).
Về
hình thức, Thiền học có phần gần
với chủ nghĩa hư vô và bất khả tri luận khi phủ nhận giá trị của nhận
thức
thông thường về thế giới hiện tượng. Thiền học xếp giá trị của nhận
thức
thông thường vào giới hạn "vô minh" và gọi là "trí thế gian" (Jnanalan
Kikam)(2).
Song, tại đây có một sự khác biệt với hai tư tưởng trên. Đó là, về thực
chất,
Thiền học không phủ nhận mọi khả năng nhận thức thực tại, mà chỉ phủ
nhận
khả năng đạt tới giá trị tuyệt đối bằng con đường nhận thức lý tính qua
hiện
tượng bởi cho rằng, hình thức và ngôn ngữ chính là cái bẫy, còn gọi là
kiến
chấp do nhận thức tạo ra và bị mắc vào. Tại đây, Thiền học đã đụng tới
vấn
đề tính tương đối của nhận thức trong quan hệ với đối tượng nhận thức,
nhưng
dù vậy, nó vẫn vạch ra khả năng nhận thức tuyệt đối được "Không" bằng
việc
giác ngộ một cách trực tiếp cái bản chất của thực tại, tức là vượt qua
nhận
thức lý tính bằng trực giác, gọi là trí Bát Nhã (Prajna Paramita).
Như
vậy, Thiền Phật giáo không phủ
nhận khả năng nhận thức được chân lý, nhưng lại phân chân lý thành hai
mức:
chân lý tuyệt đối (chân đế, Paramarthasatya) và chân lý tương đối (tục
đế,
Samvritisatya). Chân lý tuyệt đối chỉ có thể nắm bắt được bằng trí Bát
Nhã
qua thực hành thiền định, còn chân lý tương đối là cái nắm bắt được
bằng
nhận thức lý tính thông thường, gọi là thức (Vijnana). Thiền học cho
rằng,
bằng suy lý nên nhận thức luôn bị phân đôi thành chủ thể nhận thức và
đối
tượng nhận thức. Một khi chủ thể nhận thức càng cố gắng phân tích đối
tượng
thì càng giết chết đối tượng. Theo Thiền học, phân tích không phải là
con
đường để đạt tới thực tại Tuyệt đối. Phân tích và suy lý là con đường
vô hạn
chỉ tiệm cận được hiện tượng chứ không thể đạt tới bản chất đích thực.
Giá
trị của nhận thức lý tính chỉ là chân lý tương đối, đó chỉ là "ảo ảnh"
của
thế giới tuyệt đối. Do vậy, Tuyệt đối không thể diễn đạt đầy đủ bằng
ngôn
ngữ, kể cả các thuật ngữ "Không" mà Phật giáo phải tạm dùng.
Thiền
Phật giáo thừa nhận, từ sắc
pháp (sắc) lên danh pháp (thọ, tưởng, hành, thức) là trật tự tự nhiên
của
con đường nhận thức từ cảm tính lên lý tính. Đây chính là giới hạn cần
phải
vượt qua, bởi tại đó, theo Thiền học, nhận thức chỉ nắm bắt được thế
giới
hữu hình, thế giới hiện tượng, mà hiện tượng chỉ là các lớp ẩn vận động
và
biến đổi, không bao giờ là hình ảnh chân thực hay hình ảnh tuyệt đối
của bản
thể đích thực. Như vậy, thức không thể vượt qua được giới hạn của khái
niệm,
vì cái hình, tướng (sắc) mà khái niệm miêu tả được chỉ là phản ảnh ảo
về sự
giả hợp của hiện tượng "vô thường” chứ không phải tồn tại đích thực.
Nói
tóm lại, thức không thể đột phá
được bản chất và thực tính của vũ trụ, của thế giới, của "các loại
không
gian với các chiều khác nhau..."(3). Về bản chất, thức có thể có được
bằng
tích luỹ kinh nghiệm, do truyền đạt và học tập... song chỉ dừng lại ở
khả
năng nắm bắt, miêu tả các lớp hiện tượng. Do vậy, thức luôn phụ thuộc
vào
đối tượng, vào hiện tượng và vào hệ khái niệm mà nó thiết kế và sử
dụng. Con
đường của thức là đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều
hơn và
con đường này là vô tận, vì đối tượng của nó (thế giới hiện tượng) luôn
vận
động và biến đổi không ngừng. Song, toàn bộ mạng lưới khái niệm và cả
kinh
nghiệm luôn là rào cản khiến thức mắc kẹt, không đến được bản chất tối
hậu
của thực tại. Thiền học khẳng định rằng, thức chỉ là sự nắm bắt, nhận
thức
gián tiếp, tương đối không phải là nhận thức trực tiếp, tuyệt đối và vì
thế,
thức không thể nào nắm bắt được bản thể tuyệt đối. Nói cách khác, thức
chỉ
đạt tới hiện tượng luận, chứ không thể đạt tới bản chất luận. Đây là
chủ
thuyết tầm phương pháp luận để từ đó, Thiền học liên tục củng cố và
chứng
minh một khả năng nhận thức được bản thể tuyệt đối bằng con đường siêu
vượt
khái niệm, siêu vượt nhận thức. Đó là lý luận về trí Bát Nhã (Prajna
Paramita).
Thiền
học khẳng định có thể nắm bắt
được tuyệt đối bằng trí Bát Nhã (Prajna Paramita). Đây là khả năng nắm
bắt
thực tại trong chỉnh thể, trong thục thể bất phân, hoàn toàn khác về
phương
tiện, con đường, phương pháp so với nhận thức thông thường(4). Trên cơ
sở
này, Thiền Phật giáo chủ trương: để nắm bắt thực tại đang trong biện
chứng
vừa là nó lại vừa không là nó, vừa không phải là cái khác nó, thì phải
tu
tập thiền - định để từ bỏ (dần hoặc ngay lập tức) cách nhận thức của lý
tính
(bằng quy nạp hoặc diễn dịch) và từ bỏ (dần hoặc ngay lập tức) lối nhận
thức
theo con đường "từ trực quan đến trừu tượng”, rồi từ bỏ (dần dần hoặc
ngay
lập tức) phương tiện suy lý bằng khái niệm và khẳng định một trí Bát
Nhã mới
có thể trực tiếp nắm bắt được thực tại tối hậu không bị chia chẻ.
Con
đường đạt tới trực giác mà
Thiền học vạch ra là con đường nội, đảo ngược dòng nhận thức thông
thường:
từ bỏ hiện tượng (không), thoát khỏi khái niệm (vô niệm) để đạt tới sự
thể
nghiệm, hội nhập tĩnh lặng vào ý thức tự nó, tức là thức thứ bảy (Mạt
na
thức - Manas) và thức thứ tám (A Lại Gia thức - Alaija). Xét ở nghĩa
nào đó,
hai thức này tương tự với tiềm thức và vô thức trong triết học của
Phrớt(5).
Trí Bát Nhã là sự tự chứng của mỗi người, không phải bằng nhận thức của
người khác và trong lãng quên khái niệm. Để có khả năng trực giác được
tuyệt
đối thì chủ thể nhận thức phải "đảo ngược hướng nhận thức và di vào nội
giới
và phải "quét sạch ý thức". Thao tác ngược dòng nhận thức để trục giác
được
chính là chu trình Thiền - định vốn được trình bày cụ thể trong các
kinh
thiền nguyên thuỷ của Phật giáo, như Tứ Niệm Xứ hay An Ban Thủ ý. Trong
quy
trình đó, chủ thể nhận thức phải làm chủ toàn bộ quá trình ý thức tâm
lý,
sinh lý kết hợp với đạo đức và niềm tin, như hướng dẫn trong Bát Chính
Đạo:
từ ý thức thiên về cảm tính (chính kiến), tới ý thức lý tính (chính tư
duy),
từ đó làm chủ các hoạt động cảm giác, sinh lý và tâm lý (chính nghiệp,
chính
ngữ, chính mệnh) một cách liên tục (chính tịnh tiến), để trở lại được
với
tâm thức tiền siêu khái niệm (chính niệm), và duy trì sự tập trung cao
độ
của tâm thức (chính định).
Con
đường rèn luyện trực giác của
Thiền Phật giáo là một chu trình nhận thức hoàn toàn ngược với nhận
thức
luận phương Tây. Phương Tây coi trọng con đường nhận thức từ biết chưa
đầy
đủ tới biết đầy đủ, từ bản chất nông tới bản chất sâu ngày càng tiến
gần tới
bản chất đối tượng, ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về đối tượng. Trái
lại,
Thiền Phật giáo lại đi từ biết đến không biết, nghĩa là từ phụ thuộc
vào
hiện tượng tới thoát khỏi giới hạn của hiện tượng. Thiền học cho rằng,
bản
chất của nhận thức nằm ngoài hiện tượng. Con đường đó là "học tới vô
học".
Chẳng hạn, "Ba mươi năm trước, khi chưa học thiền, sư cụ thấy núi là
núi,
thấy nước là nước. Sau đó, khi bắt đầu nhiễm mùi đạo, thì thấy núi
chẳng
phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước. Nay ngộ được cái lý đạo
huyền vi
rồi, lại y nhiên, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước"(6).
Nói
chung, Thiền học không phủ nhận
giá trị nhận thức và quá trình nhận thức thông thường, mà tập trung
nhấn
mạnh vào sự khác biệt giữa nhận thức thông thường và trực giác để đưa
ra khả
năng nắm bắt Tuyệt đối của trực giác. Thiền Phật giáo cho rằng, thức
(Vijana)
chỉ nắm bắt được hiện tượng giới, tới được giá trị tương đối của chân
lý, và
chỉ có trí Bát Nhã mới có thể nắm bắt trực tiếp bản chất của thực tại
chân
thực. Song, điểm khó bàn là giá trị đích thực của trực giác đạt được
bằng
con đường thiền - định lại không thể kiểm chứng và đầy mầu sắc thần bí.
Chân
đế của Thiền Phật giáo thường mang ý nghĩa tâm linh tôn giáo, và niềm
tin
dường như có nghĩa lý hơn là độ chân xác. Đây chính là chỗ mà nhận thức
luận
Phật giáo chọn thế lùi khi đụng chạm tới vấn đề tính đồng nhất giữa chủ
thể
và đối tượng nhận thức.
Trong thực tế sống động,
Phật giáo,
như một tổ chức xã hội, đang thừa hưởng nhiều thành tựu khoa học có giá
trị
cao là kết quả đích thực của nhận thức lý tính.
Và do vậy, Thiền không dễ tuyệt đối hoá tính tương đối của nhận thức lý
tính
và phủ nhận giá trị của nhận thức thông thường. Song vẫn có thể nhận
định
thận trọng hơn rằng, các lĩnh vực tâm lý (nội tâm), tâm linh, tức là
các
lĩnh vực mà khoa học về con người đang còn bỏ ngỏ, sẽ là khu vực phát
triển
cho nhận thức luận Phật giáo hiện đại. Thiền Phật giáo đã tập trung vào
một
vấn đề nan giải của triết học là, bằng cách nào nắm bắt được thực tại
mà
không có sự phân đôi chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, vì cho
rằng,
sự phân đôi chủ khách không cho phép nhận thức trực tiếp thực tại, vả
lại,
chia chẻ là giết chết thực tại. Thiền học thừa nhận có hai con đường
nhận
thức: hướng ngoại và hướng nội. Con đường thứ nhất là con đường của
nhận
thức thông thường bằng tư duy khái niệm và kinh nghiệm. Ngược lại con
đường
thứ hai, còn gọi là “nội quán” vượt bỏ kinh nghiệm và khái niệm. Theo
con
đường hướng nội, "Thiền đi con đường trái ngược và bước tháo lui… để
đạt đến
vũ trụ không - thời gian vô phân biệt. Thiền lui về tận cứ điểm trước
khi
thế giới với mọi thứ phân hai chưa bắt đầu hình thành. Có nghĩa là
Thiền
muốn chúng ta trực diện với một thế giới trong đó thời gian và không
gian
chưa xen vào để tách ra làm hai"(7).
Thiền
Phật giáo nguyên thuỷ đã tiếp
thu kỹ thuật tu luyện của Ấn Độ và Trung Quốc cổ về cách đạt được tâm
bình
lặng và khẳng định công dụng khả thi của nó là: "...nhờ tâm bình lặng
mà
nhìn thấy được sự vật như chúng tồn tại… " và nguyên nhân khiến tâm
không
bình lặng là vì ngoại trần (tác động của thế giới khách quan) và dục
vọng,
cho nên tâm bình lặng thì dục vọng, tham đắm do thế giới khách quan gây
ra
cũng không chi phối được tâm(8). Kinh Tứ Niệm Xứ của Phật giáo nguyên
thuỷ
đã nhấn mạnh: "Đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng
sanh,
vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết
bàn"(9).
Đích
của con đường hướng nội là đạt
đến cảnh giới tam muội (Samadhi) tuyệt đối, một cảnh giới nội tâm hoàn
toàn
bình lặng… gọi là vô niệm… hay tịnh, chỉ… đến lúc không còn cảm giác về
thân
nữa, cũng không còn cảm thọ nữa, cũng không còn tưởng nữa, bởi lẽ mọi
hoạt
động của tâm thức đều ngưng chỉ… bình lặng nội tâm đó được gọi là trạng
thái
tồn tại thuần tuý. Hướng nội để luyện tĩnh tâm đã có trong kinh điển
nguyên
thuỷ, kinh Pháp Cú (Dharmapada, kệ 38):
Ai
tâm không an trú,
không
biết chân điệu pháp.
Tín
bị rung động,
trí
tuệ không viên thành.
Hỡi
các tỳ kheo!
đây
là con đường dẫn tới Niết bàn.
Đó là
tâm bình lặng (Samatha) và
nội quán (Vipassana).
Sự
phê phán của Thiền học đối với
nhận thức hướng ngoại có mức độ hợp lý nhất định. Song, giá trị đích
thực
của nhận thức hướng nội là gì, nó có đạt tới chân lý hay thực tại tối
hậu
không lại là một vấn đề chưa dứt tranh luận. Sự chiêm nghiệm trực tiếp
của
cá thể hướng nội, còn gọi là trực nhập, không chia sẻ, vô ngôn… có một
giá
trị chủ quan tuyệt đối, khó kiểm chứng. Vậy chân lý hay thực tại sống
động
mà trực giác hướng nội của Thiền đạt được là diều bất khả tranh luận.
Đây
lại là nan đề của khuynh hướng hướng nội khi Thiền Phật giáo triển khai
sang
các lĩnh vực khoa học tự nhiên có độ kiểm chứng xác thực.
Tuy
nhiên, nhận thức hướng nội của
Thiền Phật giáo cho đến bây giờ vẫn có giá trị nhất định. Trước hết,
nếu đặt
mục đích để rèn luyện nội tâm, làm chủ các cảm xúc, thư giãn tuyệt đối,
điều
chỉnh dòng ý thức và tập trung tư tưởng… thì kỹ thuật thiền - định là
một
hướng khả thi đã được tâm - sinh lý học hiện đại kiểm chứng và chứng
minh.
Khi làm chủ được nội tâm và các dòng suy nghĩ tập trung cao độ vào một
việc,
con người không tốn phí năng lượng một cách tản mát mà vẫn có thể đạt
được
những kết quả kỳ diệu, đặc biệt trong các hoạt động sáng tạo như của
khoa
học cũng như nghệ thuật. Phát huy công năng hướng nội của Thiền, nhiều
môn
nghệ thuật phương Đông đã đạt được những thành tựu đặc biệt như là hoa
trái
của Thiền. Chẳng hạn như thiền hoạ, hoa đạo, trà đạo, thư pháp, võ đạo.
Tuy
nhiên, từ góc độ giáo lý giải thoát, Thiền học luôn cảnh tỉnh đó không
phải
là mục đích cuối cùng của giác ngộ.
3. Một
số phạm trù về giải thoát.
Nhìn
chung, các thuyết nhân bản Ấn
Độ cổ đã nhận thức được con người là sinh vật có ý thức, song không
luận
giải nhiều về vai trò của ý thức đối với đau khổ và giải thoát của con
người.
Phật giáo đã tiếp thu một cách có chọn lọc các thuyết nhân bản, đặc
biệt là
giải thoát luận của truyền thống Ấn Độ cổ và từ đó, nêu ra một luận
giải
trung đạo về giải thoát.
Đương
thời, Đức Phật đã phê phán
hai khuynh hướng cực đoan của các thuyết “Bất diệt” hoặc "Hư không” và
đưa
ra thuyết Duyên sinh vô ngã để lý giải bản chất người và cách tiếp cận
mới
về khổ đau và giải thoát. Thuyết Duyên sinh vô ngã đưa ra nguyên lý
"nguồn
gốc phụ thuộc”, phổ quát của vạn vật. Thuyết này nhận định rằng, mọi
vật và
con người đều là sự hiện hữu tạm thời "vô thường” theo quy luật nhân
quả.
Con người chỉ là sự giả hợp tạm thời của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành,
thức), do đó là "vô ngã" (Anatman). Cái gọi Ta/ngã chỉ là tồn tại hiện
tượng
trống rỗng (Sunyata). Nguyên nhân đầu tiên của mọi đau khổ là do con
người
mê lầm (vô minh), nhầm tưởng năm uẩn là Ngã đích thực, từ đó, luôn khởi
dục
vọng đối với Ngã. Dục vọng dẫn dắt ý nghĩ, hành động nên con người tạo
"nghiệp"
của chính mình và nghiệp lại tạo nghiệp mới, do vậy mãi trôi lăn trong
vòng
luân hồi. Thuyết Duyên sinh vô ngã phân tích nguyên nhân của đau khổ
thành
12 chi phần, gọi là "thập nhị nhân duyên”, gồm: vô minh - hành - thức
-danh
sắc - lục nhập - xúc - thọ - ái - thủ - hữu - sinh - khổ uẩn.
Luận
giải của Phật giáo về con
đường và cách thức giải thoát bắt đầu từ nhận thức: thức chỉ là một
thành
phần hợp nên ngũ uẩn. Bản thân thức do duyên sinh nên cũng vô thường.
Trong
chuỗi nhân duyên đó, vô minh là nguồn khởi của toàn bộ khổ đau của con
người.
Một khi giác ngộ được lẽ vô thường và vô ngã, thì vô minh tự chấm dứt,
con
người sẽ thoát khỏi đau khổ luân hồi(10). Để dứt vô minh thì không thể
nhờ
vào thức mà phải nhờ trí Bát Nhã. Ở đây, nhận thức luận đã không tách
rời
giải thoát luận trong cấu trúc triết học - tôn giáo của Thiền Phật
giáo.
Phật
giáo đã tiếp thu có phê phán
các quan điểm nhân bản của truyền thống Ấn Độ cổ và thiết kế tư tưởng
giải
thoát bình đẳng trên cơ sở thuyết Duyên sinh vô ngã (Paticcasamuppada).
Phật
giáo nguyên thuỷ chủ trương "vô ngã" để tụ giải thoát cho chính mình
(tự ngộ).
Sang giai đoạn Đại thừa, Long Thọ (Nagarjuna - khoảng 150 tới 250 năm
sau
công nguyên) tiếp tục triển khai nguyên lý Không và triển khai giải
thoát
luận "Trung đạo" mang tính phổ quát cao hơn. Theo ông, giác ngộ là sự
giải
thoát không chỉ cho chính mình (tự ngộ), mà còn cho mọi chúng sinh
(giác tha).
Quan niệm giác ngộ còn phân biệt có không về "ngã vô, pháp hữu” của
Tiểu
thừa được triệt để hoá theo nguyên lý Không thành "ngã pháp câu không",
tức
vứt bỏ cả ý thức phân biệt có không. Đây là mốc khẳng định Đại thừa
Phật
giáo và công đầu là của Long Thọ.
Niềm
tin giác ngộ bằng trực giác
được Phật học mô hình hoá cụ thể thành con đường tu dưỡng cá nhân. Đó
chính
là sự kết hợp tu luyện tâm thức (nội tâm) với đạo đức trong Bát Chính
Đạo.
Thiền Phật giáo lấy giác ngộ làm giới hạn của sự vượt bỏ nhận thức lý
tính
thông thường để trở về với trực giác Nội dung giác ngộ, tới khi xuất
hiện
Thiền tông đã có sự chuyển đổi, không hoàn toàn đơn nghĩa là giác ngộ
về
thực tại phổ quát mà thiên về ý nghĩa giác ngộ bản tâm nhưng vẫn nhất
quán
nguyên lý Không. Song thực tại hay bản tâm được giác ngộ đó là gì thì
Thiền
Phật giáo không trả lời, không miêu tả, mà trả lại cho sự chiêm nghiệm
có
tính cá biệt của cá nhân siêu phàm, trả lại cho sự chiêm nghiệm siêu
việt
phi khái niệm. Đây cũng chính là điểm dừng khi Thiền đụng tới vấn đề
tính
đồng nhất của chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức trong luận
thuyết
Giác ngộ của Phật giáo.
Trên
cơ sở nhận thức luận về trí
Bát Nhã, Thiền học mô hình hoá hai con đường nhận thức chân lý là đột
biến (đốn
ngộ) hoặc tuần tự (tiệm tu). Đốn ngộ là khuynh hướng đề cao khả năng có
thể
ngay lập tức đồng nhất tuyệt đối với thực tại phi hiện tượng, tức là
ngay
lập tức đạt được giải thoát. Riêng Thiền tông chủ trương đốn ngộ, nhưng
Thiền học luôn cảnh tỉnh Thiền gia không được chấp vào đốn hay tiệm, vì
đó
chỉ là những phương thức khác nhau để đạt tới mục đích giác ngộ. Tại
đây,
đốn ngộ đồng thời cỏ hai khả năng tiến triển.
Thứ
nhất là khả năng đẩy vấn đề
giải thoát ra khỏi phạm vi tôn giáo vì quá trình tu luyện và sự am hiểu
giáo
lý mất dần ý nghĩa tôn giáo ban đầu. Khuynh hướng này dễ dàng được giới
trí
thức chấp nhận và ứng dụng như một mô hình tu luyện nội tâm, tâm thức
ngoài
tôn giáo. Đây là một biến thể trong thực tiễn mà bản thân Phật giáo với
tư
cách một tôn giáo không hề mong muốn song nó đã xảy ra và tương đối phổ
biến
ở tầng lớp trí thức trung lưu hiện đại. Khuynh hướng thứ hai lại làm
tăng
thêm tính thần bí của Phật giáo, vì cho rằng, giải thoát hay chân lý
tối hậu
là sự giác ngộ cá nhân, không thể kiểm chứng. Tính thần bí của khuynh
hướng
này lại có giá trị tôn giáo lâu bền, và có sức thâm nhập hơn nhiều so
với
các tôn giáo khác. Có lẽ đây là một trong những khả năng vượt qua mọi
biên
giới, mọi rào cản văn hoá để hoà nhập với các nền văn minh lớn trên thế
giới
của Phật giáo, mà Samuel Huntington đã nhắc đến như một ngoại lệ trong
Sự va
chạm giữa các nền văn minh.
Như
vậy, nhìn chung, giải thoát
của Thiền Phật giáo vẫn là một trải nghiệm tâm linh có tính hướng nội
và
tính cá thể tuyệt đối nên không thể chứng minh hay bác bỏ, do vậy kết
quả
đạt được cũng không thể chứng minh hay bác bỏ. Có thể vì những lẽ này,
Thiền
Phật giáo chủ yếu phát huy sức mạnh trực giác hướng nội trong các lĩnh
vực
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... và có khả năng hấp dẫn đối
với
nhu cầu nhận thức nội tâm, nhưng cũng do vậy, Thiền Phật giáo không thể
trực
tiếp mở rộng sang các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật hiện đại.
Đây
chính là hạn chế của Thiền với tư một cách hệ tư tưởng triết học - tôn
giáo.
Sức
sống của Thiền Phật giáo một
phần chủ yếu ở cách tiếp cận và cấu trúc vấn đề độc đáo của bản thể
luận và
nhận thức luận. Trong tương lai, giá trị độc đáo này sẽ càng được khai
thác
trong đối sánh với triết học phương Tây. Đây chính là nguồn năng lượng
để
Thiền Phật giáo có khả năng được phổ cập hoá, đa dạng hoá, hiện đại hoá
trong khung cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
(1) Daiset Teitaro
Suzuki. Thiền. Người soạn dịch: Thuần Bạch.
Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr.8.
(2) Xem: Bùi Biên
Hoà. Đạo Tâm phương Đông - từ Tâm đến Tâm không.
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.63-70.
(3) Bùi Biên Hòa.
Sđd, tr 64 -65.
(4) Xem: Daiset
Teitaro Suzuki. Sđd, tr 57-80.
(5) Xem: Từ điển
triết học. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1986, tr 563,
677.
(6) Nghiêm Xuân
Hồng: Biện chứng giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ.
Nxb Quan điểm, Sài Gòn, 1996, tr 264.
(7) Daiset Teitaro
Suzuki. Sđd, tr 234.
(8) Thích Minh
Châu, Thích Thanh Từ, Thích Phước Sơn. Thiền
Nguyên thủy và Thiền phát triển. Ban Phật giáo Việt Nam và Ban phật
giáo
chuyên môn. TP. Hồ Chí Minh, 1994, tr 96 - 97.
(9) Trường bộ kinh
(Digha -Nikaya). Người dịch: Thích Minh Châu,
Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1972, tr 56 - 57.
(10) Thích Chơn
Thiện, Phật học khái luận. Nxb TP.Hồ Chí Minh,
1999, tr.166.