Kể
từ khi khái niệm “toàn cầu hóa” ra đời, thế giới
đã chuyển sự chú ý vào văn hoá. Và chỉ trong một
thời gian ngắn, văn hóa truyền thống đã trở
thành nền tảng cho mọi sự phát triển bền vững,
toàn diện, trong khi trước đó không xa, người ta
chỉ xem nó như một nét viền mờ nhạt của kinh tế.
Lẽ ra thế giới phải nhận thức về vai trò quan
trọng của văn hoá truyền thống từ lâu rồi mới
phải. Nhưng vì sao lại có sự chậm trễ này? Câu
trả lời có lẽ không gì khác hơn ngoài sự trả giá
của nhiều nền văn hoá, văn minh. Đã có không ít
dân tộc “mất tên” trên bản đồ văn hoá thế giới,
hoặc thảng thốt nhận ra mình chỉ còn là một nền
hoá nghèo nàn, lệ thuộc, thiếu bản sắc… Nếu
trong lúc này, chúng ta nói người Việt Nam đang
có xu hướng ấy thì rất có thể sẽ bị cho là rơi
vào chủ nghĩa bi quan. Tuy nhiên, cái vươn vai
thức dậy của kinh tế Việt Nam trong hơn một thập
kỷ nay và những tác động tiêu cực đi theo nó
không khỏi khiến người ta phải suy tư thêm về
khái niệm “phát triển bền vững”.
Song song
với xu thế toàn cầu hóa là những cuộc đối thoại
giữa các nền văn hóa, văn minh. Khái niệm “đụng
đầu” được thay bằng khái niệm “giao lưu, hội
nhập”, và người ta tuy đã có thể ngồi lại với
nhau nhưng nói cho “vừa lòng nhau” là một điều
đáng suy nghĩ. Vấn đề không còn nằm ở nội dung
nói mà là ở cách nói, cho nên cái “vừa lòng nhau”
ấy càng nói càng xa mục đích ban đầu mà nó muốn
nói, mục đích đối thoại. Chúng ta cần ý thức
rằng, một nền tảng văn hoá thế giới không thể
xây dựng trên tư tưởng gây tội rồi xin lỗi, phá
huỷ rồi xây dựng, âm mưu giết hại rồi gửi lời
chia buồn, hay xí xóa cho xong chuyện…
Người Việt
Nam không nên chỉ nhớ qúa khứ của mình bằng hận
thù, song cũng không thể quên đi quá khứ của
mình bằng những đồng tiền viện trợ hay những cái
lợi trước mắt. Vì sao? Vì quá khứ đau thương
của dân tộc phải trở thành một bài học sâu sắc
về lòng khoan dung và tinh thần độc lập tự chủ.
Từ hiện tại, nghĩ về tương lai và đối xử công
bằng với quá khứ đó là cách mà chúng ta nên sống.
Sống không phải chỉ nhằm vào mục đích “làm ăn”
mà còn vượt qua những nghi kỵ và thù hằn, để nói
tiếng mẹ đẻ một cách thân thương, để ghi tâm
khắc cốt bài ca dao: “Khôn ngoan đối đáp người
ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”…
Trong lúc
nền văn hóa, văn minh của thế giới đang chuyển
dần sang thế đối thoại, chúng ta phải nói như
thế nào? Và đối thoại có phải chỉ đơn thuần là
nói hay không?
Hiển
nhiên, đối thoại không hẳn chỉ là nói, bởi các
cụ ta từng dạy: “nói là bạc…”. Đối thoại còn nằm
ở cách chúng ta ăn, mặc, ở, ứng xử… bằng nội lực
văn hóa của chính mình. Vậy chúng ta đã ăn, mặc,
ở và ứng xử như thế nào? Đối thoại về văn hóa có
phải chỉ để “làm ăn” với nhau, để sinh ra cái
gọi là “lợi ích vật chất”? Mục đích của đối
thoại văn hóa phải cao hơn cái nhu cầu “hầu bao”
đó, có như vậy, chúng ta mới có tinh thần minh
mẫn để hiểu mình, để tôn trọng lịch sử và sự
thật, bằng không chúng ta đã vô tình đưa diễn
đàn đối thoại văn hóa cho “những khổng lồ kinh
tế” làm chủ. Vấn đề là cho dù hội nhập nào, đối
thoại nào cũng cần có thời gian để nghỉ, nghỉ để
nhìn lại mình, để ăn, mặc, ở, để quây quần bên
nhau quanh chiếc mâm tròn, để hát lên những bài
hát ru của mẹ, để gieo vào trong tâm những niệm
yêu thương, niệm hiểu biết, để sau một giấc ngủ,
tỉnh dậy rồi, chúng ta còn biết ngôi nhà của
mình vẫn còn nguyên vẹn.
Khi xưa,
“con đường tơ lụa” là bước giao thương, giao lưu
đầu tiên về văn hóa và kinh tế giữa châu Âu và
châu Á. Lúc đó, “con đường tơ lụa” đẹp như chính
tên gọi của nó. Cả châu Âu đứng lặng trầm trồ
nhìn ngắm và thấy được đằng sau nó là cả một thế
giới tâm linh sâu lắng hiền hoà của không ít các
dân tộc được sinh ra và được sống trong câu niệm
Phật… Và những dân tộc ấy đã đến với phương Tây
bằng lụa chứ không phải bằng súng đạn, bạo lực.
Cái tinh xảo, khéo léo, hiền hoà không bao giờ
làm cho người ta sợ hãi. Thế nên, sự gặp gỡ giữa
những cái đẹp của hai phương trời diễn ra như
một tất yếu, không cái nào tổn hại cái nào,
trong chừng mực của lòng tôn trọng và hiểu biết.
Cũng trong
bối cảnh đó, ông cha ta thật tinh tường khi sáng
tạo ra thần thoại, cổ tích với một thông điệp lo
âu về “cái đẹp bị đánh cắp”. Càng giao lưu, càng
gần nhau, người ta càng nảy sinh sự so sánh hơn
kém, mà ở đâu có so sánh ở đó có chọn lựa. Điều
đáng nói là sau khi nhìn ngắm rồi, người ta bắt
đầu nhòm ngó, và cũng trong lúc ấy, cái đẹp đã
bị “đánh cắp” theo cách riêng của mỗi người.
Càng có nhiều người “đánh cắp” thì càng tạo ra
nhiều sự cạnh tranh, chia, nhượng, thậm chí là
giành giật. Cuối cùng để thoả mãn với nhau người
ta buộc phải chia nhỏ cái đẹp ra, và ngay lập
tức, cái đẹp bị chà đạp. Vậy ra, mục đích cuối
cùng của những bộ óc xâm lăng ấy không phải vì
bấy lâu họ qúa thiếu thốn cái đẹp mà vì họ không
thoả mãn được cái lợi.
Nhưng nói
gì thì nói, cách thức “đánh cắp” mới là vấn đề
mà chúng ta cần phải đối thoại với nhau một cách
thẳng thắn. Người phương Đông vui vẻ nói với
nhau rằng rác là hoa, hoa là rác để tìm cách ứng
xử đẹp với cuộc đời. Cụ Nguyễn Du nói: “Hoa tàn
rồi lại thêm tươi”. Chỉ một câu tin yêu ấy,
người ta có thể khóc lên vì sung sướng, sung
sướng cho nhiều thế kỷ dân tộc đã sống dậy từ
trong đau khổ, thù hận, từ rác, từ bùn, từ tủi
nhục,… như thế. Nhưng cho dù sống dậy từ cái gì
đi chăng nữa nó cũng phải tươi, phải đẹp, phải
khoan dung độ lượng. Vì sao? Vì Phật (Bụt) bảo
khổ đau tương quan với hạnh phúc. Mỗi khi thấy
người hiền gặp nạn, Phật hiện ra và hỏi: “Tại
sao con khóc?”. Cả dân tộc đã suy nghĩ, lắng
nghe cơn gió vô thường ùa về, và nhìn những hận
thù tan đi… Cho đến khi tiếng vó ngựa xâm lăng
lại hý lên. Phật lại hiện ra: “Con đừng khóc nữa
mà hãy nhìn vào cơn giận của chính mình”. Nhưng
mọi người không thể không khóc. Và chắc chắn
Phật sẽ bảo: “Con hãy khóc đi, khóc xong rồi con
sẽ cảm nhận được thế nào là hạnh phúc, biết khóc
là một hạnh phúc, khổ đau là một hạnh phúc, và
nếu chưa khổ đau các con hãy khổ đau đi”. Và cụ
Nguyễn Du lại từ trong tâm thức của Phật mà nói:
“Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”…
Chúng tôi
muốn nói đến Việt Nam như nói đến một cái đẹp
thường xuyên bị vùi dập. Một nghìn năm bị vùi
dập, một trăm năm bị vùi dập. Bởi thế, chưa lúc
nào dân tộc ngừng thao thức: “Biết đâu Hợp Phố
mà mong châu về?”. Về đâu? Phải trở về quê hương
tâm linh để nhận ra minh châu còn ở trong lòng,
có như vậy, cái vô giá nhất ấy mới không bị đánh
mất. Chỉ có thế mới giữ lòng thuỷ chung với dân
tộc, với cái đẹp, và chỉ có thế “Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài”. Hậu thế góp nhặt điều “dông
dài” của cụ Nguyễn Du để nói lên điều mình muốn
nói. Việt Nam như một “anh nhà quê với cái đầu
luôn luôn phải đội nặng”, đội nặng một nghìn năm,
đội nặng một trăm năm... Vâng đúng như vậy,
chúng tôi nói là đội nặng chứ không phải cúi đầu.
Bởi Đức Phật đã nói rằng, chúng sinh đều bình
đẳng, Phật không “dỗ nín” ai mà Phật chỉ dùng
nhân quả để cân đo thiện-ác.
Hội nhập
kinh tế và văn hoá là một tất yếu trong thế giới
mà mọi trật tự chỉ là tương đối. Thế nên, trong
vô vàn các điều kiện để hội nhập, sự điều chỉnh
mình tất yếu phải diễn ra và không phải cái gì
cũng khách quan, công bằng…
Hai nghìn
năm về trước, Trung Hoa đã tiến hành chiến tranh
xâm lược và áp đặt văn hóa lên dân tộc Việt. Một
nghìn năm sống trong ách đô hộ, người Việt buộc
phải dùng chữ Hán để bổ sung cho cái khuyết điểm
mang tính lịch sử của mình, đó là “không văn tự”.
Nhưng cũng lúc ấy, đạo Phật hiện diện trên quê
hương Việt Nam, người Việt đón chờ đạo Phật như
đón chờ một người thân xa quê trở về. Người Việt
đã tiếp nhận đạo Phật, và cả dân tộc Việt đã gọi
Bụt là Phật bằng tiếng mẹ đẻ thiêng liêng của
mình. Chúng tôi dùng từ tiếp nhận bởi đó là hệ
luận của một cuộc vận động ý thức hệ tư tưởng
quan trọng nhằm đối kháng với Trung Hoa. Kể từ
buổi bình minh của dân tộc, đạo Phật đã cùng với
dân tộc đội chung khối nặng ấy, và tiếng nói
trong trẻo của dân tộc vẫn không ngừng cất lên
ngay cả lúc khổ đau nhất. Như một tất yếu, những
tranh luận xảy ra trên bình diện ý thức hệ của
đạo Phật đã nhóm lên cho dân tộc Việt một hướng
đi mới. Và suốt một nghìn năm cùng nói chung một
thứ tiếng, đạo Phật đã đi vào cổ tích, huyền
thoại của dân tộc Việt, để khi lần đầu tiên dân
tộc lấy lại được quyền độc lập tự chủ, chùa Khai
Quốc (Mở Nước) xuất hiện, cũng là lúc cả dân tộc
xác nhận vị trí, vai trò của đạo Phật trong trái
tim mình. “Trời còn để có hôm nay, Vén sương đầu
ngõ tan mây giữa trời”(Truyện Kiều), và
bài tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc vang
lên xua tan giấc mộng xâm lăng của phương Bắc.
Kế đến, sự hưng thịnh của dân tộc và đạo Phật
thời Lý - Trần đã mở ra một thời kỳ thanh bình,
thuần từ, khoan dung nhất trong lịch sử dân tộc.
Trong kỷ
thuộc Minh, đạo Phật vẫn gìn giữ mạch chảy tâm
linh của dân tộc. Chính vì thế, lý luận Nho giáo
đến từ phương Bắc buộc phải vận động cho một
cuộc cải cách mang dấu ấn Việt để tồn tại. Càng
mang dấu ấn Việt bao nhiêu thì khuynh hướng “cư
Nho mộ Thích” càng diễn ra nhanh chóng bấy nhiêu.
Không ít những nhà văn hóa tư tưởng, thậm chí
những người có thái độ bài xích đạo Phật đã dẹp
đi mọi niềm nhân ngã để trở về quy ngưỡng với
đạo Phật, yêu kính Phật và niệm Phật. Đều đặn
như thế, 108 tiếng chuông chùa vẫn hàng ngày
ngân rung trên làng quê Việt Nam, không ngừng
đánh thức hồn dân tộc.
Sau kỷ
thuộc Minh, sự đô hộ đáng kể nhất của ngoại bang
chính là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp; cuộc
xâm lăng này đã đẩy dân tộc vào giai đoạn khó
khăn nhất trong lịch sử. Một thách thức mang
tính sống còn khi tiếng súng đại bác và lòng hận
thù vung vãi trên quê hương Việt Nam. Lúc ấy,
hoạ mi có thể tắt tiếng nhưng câu niệm Phật và
tiếng chuông chùa vẫn đều đặn ngân lên, nức nở
ngân lên: “Trần kiếp vì đâu oan khổ?”
Trong các
cuộc xâm lăng, vẫn chỉ có thế, cái đẹp luôn luôn
bị nhòm ngó và chiếm đoạt. 100 năm mà đau hơn cả
nghìn năm, người Việt lang thang đi tìm mẹ Âu Cơ
của bốn nghìn năm để không trở thành đứa trẻ mồ
côi.
Sau những
cuộc đối đầu cực đoan của chính sách “sát tả”,
triều đình ngày càng trở nên bất lực trước thế
mạnh quân sự của thực dân Pháp, Nho giáo tàn lụi
theo, lô cốt đi đến đâu thì nhà thờ mọc lên đến
đó, và khi đại diện cao nhất của triều đình bán
nước nhà Nguyễn chịu phép rửa tội thì cũng là
lúc những người Việt Nam thiết tha với dân tộc
cảm thấy mình có tội, không phải là “tội tổ
tông” mà là tội với anh linh dân tộc.
Người Pháp
vui mừng vì Nho giáo không đánh cũng tan, vậy
điều gì còn lại khiến họ lo lắng? Ở phạm vi quân
sự, các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ chưa đủ để người
Pháp lo lắng, bởi lúc đó họ đã có tay sai đắc
lực là triều đình đối phó. Người Pháp tuy mới
đến Việt Nam nhưng cũng hiểu sâu sắc thế nào là
câu “mỡ nó dán nó”, ngon lắm. Có không ít người
Việt cũng thấy ngon khi ăn thứ mỡ ấy, nhưng ăn
mỡ nhiều thì rất dễ bị tắc tiếng.
Vì sống
quen với “nhạc trời” nên điều mà người Pháp cảm
thấy khó chịu, bất an nhất có lẽ không gì ngoài
tiếng chuông chùa và câu niệm Phật, cứ thế, như
cỏ mọc, dai dẳng và bất trị. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên, chùa chiền lại trở thành nơi lý
tưởng để xây cất nhà thờ. Đau xót biết bao,
những ngôi chùa đã nghìn năm sống trong tâm thức
dân tộc bị tàn phá không thương tiếc, điều mà
Nho giáo khi xưa dù có cực đoan đến đâu cũng
không bao giờ đối xử với đạo Phật như thế. Nhưng
cũng chính trong cơn vô thường ấy, đạo Phật đã
hóa thân vào cuộc sống. Phong trào Duy Tân của
hai nhà trí sĩ họ Phan như một luồng gió mới
thổi vào tinh thần yêu nước của toàn dân tộc.
Các cụ đã thống thiết kêu gọi “bài Nho hưng
Phật”, và tình nguyện từ bỏ hệ tư tưởng mà mình
đã theo đuổi suốt cuộc đời, để tìm đến đạo Phật,
mong rằng tiếng chuông tỉnh thức của Phật có thể
gội sạch những linh hồn lầm lỗi như hàng nghìn
năm trước Phật đã làm. Trước đó, ở phía bên kia
biên giới, trong phong trào duy tân, Lương Khải
Siêu cũng đã kêu gọi “bài Nho hưng Phật”. Rất có
thể sự kiện này sẽ là một “mâu thuẫn” khó có lời
giải, bởi khi chưa đối mặt với phương Tây, Phật
giáo đã từng bị bỏ quên, thế mà bây giờ nó lại
trở thành một sự lựa chọn “mới”.
Không lạ
sao được khi đạo Phật Việt Nam lúc này không có
đại bác, súng ống hiện đại, không có quyền lực,
tiền của hậu thuẫn… chỉ có những pho tượng Phật
lặng ngồi ngắm nhìn dòng chảy vô thường trôi đi,
trôi đi; chỉ có những tiếng chuông chùa, câu
niệm Phật; chỉ có giọt lệ bi tâm trong những đêm
thiền truyền đời nhỏ xuống... Vậy người ta chọn
đạo Phật để làm gì? Phải chăng ở tầm văn hóa,
đạo Phật chính là nguồn nội lực văn hóa tâm linh
của dân tộc trong suốt hơn hai nghìn năm hội tụ?
Có thể người ta đã nhận ra tinh thần vô ngã,
khoan dung, bất bạo động của Phật giáo chính là
tấm gương phản chiếu, nhìn vào nó quân xâm lược
như nhìn vào kính chiếu yêu, nhưng tấm gương ấy
không phải để chiếu ra quỷ, ra yêu mà để con
người có cơ hội nhìn thấy mình còn là con người
đúng nghĩa.
Phong trào
chấn hưng Phật giáo ra đời, vượt ra khỏi chủ ý
“nhân văn mị dân” của thực dân Pháp sau những vụ
cướp phá chùa chiền và huỷ hoại di sản vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Mạch nước ngầm văn
hóa tâm linh của dân tộc một lần nữa lại được
Phật Mẫu Man Nương điểm huyệt, hồn thiêng sông
núi và câu niệm Phật thân thương từ nghìn xưa
vọng về trong bom đạn, khổ đau và tủi nhục.
Nghìn năm trước, người Tăng sĩ đã bước lên đỉnh
núi hét một tiếng dài làm lạnh cả thái hư, nghìn
năm sau chiếc y vàng phải trải qua không ít lần
tắm máu, nhưng câu niệm Phật và lòng khoan dung
thì không bao giờ thay đổi. Những “cô tấm-sinh
viên” lại ngồi chụm đầu vào nhau mà khóc, khóc
vì bị dì ghẻ ghét ghen, hãm hại. Và Phật lại
hiện ra: “Con hãy đi tìm cái đẹp từ trong đống
tro tàn của thù hận kia”. Khi Bồ tát Quảng Đức
hoá thân, giọt lệ bi tâm của cả dân tộc đã dồn
tụ lại thành trái tim bất diệt. Lửa khoan dung,
bất hại cháy lên, hồn dân tộc sáng bừng trong
tỉnh thức. Phật Việt Nam - dân tộc Việt Nam nhập
vào làm một, và trái tim của mọi miền đất nước,
của thế giới yêu hòa bình đều cùng nhau thổn
thức. Nói như thi sĩ Vũ Hoàng Chương: “Muôn vạn
khối sân si vừa mở mắt, Nhìn nhau tình huynh đệ
bao la…”.
Không hiểu
sao, cho đến hôm nay, trong những cuộc đối thoại
giữa các nền văn minh, văn hoá Á - Âu, lại có
người cho rằng “Nếu nói cho đủ thì trong tiến
trình lịch sử của mình, Việt Nam lại còn có cơ
hội tiếp cận (vì lý do chiến tranh và ý thức hệ)
với nhiều nền văn minh…” và “Chiến tranh thật
khốc liệt với nhiều tội ác và thương tích nhưng
đó là một thế kỷ đủ giúp Việt Nam bứt ra khỏi
cái thế giới Trung Hoa truyền thống không chỉ về
chính trị mà quan trọng hơn là sự tiếp nhận
những giá trị văn của văn hoá phương Tây, trở
thành một phần di sản và bản sắc của văn hoá
Việt Nam hiện đại”. Sao lại có thể nhận thức
kiểu “không vỏ dưa thì vỏ dừa” như thế. Chiến
tranh là một nguyên nhân, một cơ hội làm cho dân
tộc chúng ta đẹp như hôm nay sao? Nói cho “vừa
lòng nhau” như thế thì đau lắm. Con đường tơ lụa
mà Âu - Á khi xưa gặp nhau không có chiến tranh
mà vẫn đẹp. Đành hanh một tí mà nói thì kết quả
tất yếu của một hệ suy như vậy sẽ dẫn đến quan
niệm “không có chiến tranh (đặc biệt là chiến
tranh của Pháp) có lẽ người Việt vẫn còn ăn lông
ở lỗ trong cõi mù mờ nào đó…”. Nếu chiến tranh
có thể mang lại nhiều cái đẹp cho dân tộc ta như
thế thì quả thật việc khát khao hoà bình chỉ còn
là chuyện hết sức vớ vẩn. Có thể có cái đẹp nào
mà không có chiến tranh không? Hiển nhiên là có.
Có sự giao lưu nào không cần đến chiến tranh
không? Hiển nhiên là có. Đạo Phật và dân tộc
Việt đã gặp nhau và thương nhau là một minh
chứng. Nếu lúc này thế giới chưa thể tìm lại
được cái điều hiển nhiên ấy thì chúng ta cũng
không thể nhận thức văn hóa theo kiểu hãy “đưa
trứng vịt cho gà ấp” để kết quả sẽ nở ra những
con vịt cứ nhận lầm gà là mẹ, đau đến tức cười.
Có thể nói,
sự hội nhập văn hoá, văn minh cần thiết nhất cho
hạnh phúc con người phải là sự hội nhập tình
nguyện và tự nguyện, không phải vì lý do ép buộc,
nhân nhượng, đánh đổi, bằng chính trị, quân sự,
kinh tế, “hôn nhân”… càng không thể vì lý do
chiến tranh. Nếu không nhận thức một cách đầy đủ
về vấn đế này, mọi người dù có ngồi lại thảo
luận với nhau trên triệu triệu trang giấy thì
thế giới cũng vẫn chỉ là một nền văn hóa, văn
minh bị “những người khổng lồ” thao túng. Khi
xưa các cụ ta đã sáng tạo ra biểu tượng “tri
hành hợp nhất” bằng hình ảnh Phật Bà nghìn mắt
nghìn tay và hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm ứng đủ
muôn thân để độ chúng sinh viên mãn, là các cụ
ta đã gửi gắm ý nghĩa đầy đủ nhất của sự thống
nhất trong đa dạng. Đó cũng chính là lý do để
đạo Phật -nền văn hoá tâm linh của dân tộc. Tiếp
xúc, đối thoại 1.000 năm với Trung Quốc, 100 năm
với phương Tây mà vẫn đứng vững và trở thành
thành tố quan trọng của văn hoá dân tộc. Từ thực
tiễn sinh động đó, chúng ta tin rằng Đạo Phật có
khả năng cùng với dân tộc đối thoại với bất kỳ
nền văn hoá, văn minh nào ngay cả trong những
lúc tưởng chừng như im lặng…