Bhikkhu
Bodhi là một nhà sư quốc tịch Mỹ, sinh ở thành phố New York vào năm 1944. Sau khi nhận học vị
Tiến sĩ Triết học từ Đại Học Claremont
Graduate Schu. (California), Ngài đến Sri Lanka xuất gia sa di (1972) và năm
sau thọ đại giới với vị đại sư danh tiếng BALANGODA ANANDA MAITREYA. Tại đây
Ngài đã học Pāli và Phật pháp, sau đó đến Ấn Độ nghiên cứu thêm.
MỤC LỤC
Lời Người dịch
Lời tựa
Kinh Văn
Phạm Võng
Phần chú giải
Chủ thuyết Thường kiến
Chủ thuyết Thường kiến Phiến diện
Những lý thuyết về thế giới hữu biên và vô biên
Những lý thuyết về ngụy biện vô tận
Những lý thuyết về sự sinh khởi ngẫu nhiên
Những lý thuyết về tưởng bất tử
Những lý thuyết về vô tưởng bất tử
Những lý thuyết về phi tưởng phi phi tưởng bất tử
Chủ thuyết Đoạn kiến
Những lý thuyết về Niết-bàn hiện tại
Sự luân chuyển của các duyên và sự giải thoát
Do duyên xúc
Sự chấm dứt luân chuyển
Phần tóm
lược kinh Phạm Võng
Tài liệu tham khảo
LỜI NGƯỜI DỊCH
Từ khi
hội PĀLI TEXT LONDON ra đời, các bộ Nikāya và một số chú giải lần lượt
được dịch sang tiếng Anh, nhưng chưa có bản dịch nào về chú giải kinh Phạm
Võng. Do đó, tác phẩm của Ngài Bodhi là một đóng góp lớn lao cho nền văn học
Phật giáo khắp thế giới. Kinh Phạm Võng là kinh đầu tiên trong Trường bộ kinh
và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào. Như lời
của Ngài Bodhi trong phần giới thiệu: "Phạm Võng đứng hàng đầu trong Dīghanikāya.
Đây không phải là việc sắp xếp tình cờ, hoặc ngẫu nhiên của các trưởng lão khi
kết tập kinh điển, nhưng hoàn toàn có chủ tâm. Việc phân loại của các trưởng
lão phản ảnh tầm nhìn xa hiểu rộng về tính trọng yếu của kinh này qua tương
quan với tất cả lời Phật dạy. Đứng ở lối vào của các Nikāya, thông điệp
chính của Phạm Võng là cung cấp lời giới thiệu cho toàn thể mô hình Phật
pháp."
Khi đọc qua kinh văn, chúng ta
vấp phải những thuật ngữ đương thời như: Ngã, Thế giới, Như lai, Niết-bàn v.v…
Một bản chú giải sẽ trợ giúp đắc lực cho việc lãnh hội những ý nghĩa cô đọng
trong kinh. Khi dịch xong tôi nhận thức rằng kinh Phạm Võng giải thích cặn kẽ
về nguồn gốc của ngã chấp - một bản đồ đưa đến kho tàng vô ngã tướng kinh. Qua
đó tôi có một niềm xác tín: căn nguyên của mọi tà chấp sinh khởi do trình độ
nhận thức về vấn đề nhân sinh và vũ trụ, về sự ngộ nhận chân lý. Tất cả tà chấp
cứ tái diễn vô cùng tận khi người ta tiếp tục xây dựng đời sống trên nền tảng
ngã kiến. Nơi đây trong kinh Phạm Võng Đức Phật đã tung ra lưới chánh pháp trên
đại dương của những tư tưởng tà kiến và xác chứng rằng Ngài chính là nhân vật
đã ly thoát thế giới điên đảo đó.
Phần đặc sắc nhất của kinh Phạm
Võng liên quan đến sáu mươi hai tà kiến nên tôi dịch rất cẩn thận; phần còn lại
bàn về giới chỉ là lời giới thiệu và khá đơn giản, tôi xin lược bỏ để bản chú
giải kịp thời đến tay chư độc giả. Nếu bản dịch này giúp một phần nhỏ phương
tiện cho người học Phật thành tựu tri kiến về Không tính của các pháp thì đó là
phần thưởng dành cho người dịch.
Tỳ-kheo
GIÁC LỘC
Pháp Bảo Tự
28-03-2000 - PL. 2543
LỜI TỰA
Kinh Phạm Võng là một trong những
kinh quan trọng nhất do Đức Phật thuyết. Đương nhiên kinh này được tôn kính độc
nhất vô nhị vì đứng vị trí hàng đầu trong các Nikāya của tam tạng PĀLI.
Sự trọng yếu của Kinh xuất phát từ đối tượng chính, phân tích về một hệ thống
trong sáu mươi hai trường hợp, được thiết lập để bao gồm tất cả những quan điểm
suy đoán trên hai mối quan tâm chủ chốt về tư tưởng suy đoán - bản chất của ngã
và thế giới. Giải thích về những quan điểm này là một bước thiết yếu trong toàn
thể cấu trúc của Phật Pháp, là sự đo lường tiên khởi vốn cần thiết để làm sáng
tỏ lập trường thành lập chánh kiến - yếu tố đầu tiên trong Bát Thánh Đạo, con
đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, mục đích của toàn bộ giáo pháp. Kinh này đã
dệt nên tấm lưới về các quan điểm, cung cấp một dụng cụ thích hợp để khẳng định
bất cứ xu hướng triết học này và quyết định xem nó có như nhất với chánh pháp
không. Vì bất cứ vấn đề nào thỏa hiệp với những lập trường được đưa ra trong
kinh này có thể được nhận ngay là một quan điểm sai lầm, đi lệch con đường đưa
đến giải thoát.
Vì lý do này, mô hình của kinh
Phạm Võng đã được sở hữu bởi toàn thể di sản Phật giáo sau như phương tiện
chính xác giúp cho việc phân chia ranh giới giữa điểm bắt đầu của Phật giáo và
những quan điểm của những hệ thống tín ngưỡng khác. Sáu mươi hai quan điểm đã
được đề cập trong kinh tạng, trở thành một phạm trù tiêu chuẩn của các chú giải
và tiếp tục mãi qua những tác phẩm triết học thuộc nhiều giai đoạn tư tưởng
Phật giáo sau đó như một phương tiện thích hợp cho việc phân loại nhiều dạng
ngoại giáo.
Ý thức về sự quan trọng cốt lõi
của kinh Phạm Võng, một nền văn học chú giải đồ sộ đã được dựng lên xung quanh
nó, bao gồm một chú giải dài, một chú giải phụ và một chú giải hiệu đính. Chú
giải kinh này bao gồm trong Sumangala-vilāsinī hoặc Atthakathā
cho Dīghanikāya. Nó được sáng tác bởi nhà đại chú giải Ấn Bhadantācariya
Buddhaghosa (đầu thế kỷ thứ năm sau công nguyên), trên cơ sở của những chú
giải cổ không còn nữa, Ngài đã duyệt lại và phối hợp thành một văn bản thống
nhất mà đã truyền đến chúng ta ngày nay. Chú giải này được cung ứng với một chú
giải phụ hoặc Tìkà bở Ācariya Dhammapāla ở Badaratittha (Nam Ấn) vào
khoảng thế kỷ thứ sáu: tác phẩm của Ngài Dhammapāla gồm có hai mục đích:
Giải thích những từ khó và những điểm rắc rối nằm trong chú giải. Thứ hai là
xem xét đầy đủ những vị trí được đưa ra trong kinh, quan sát cơ sở suy luận,
những tương quan, những nghi vấn có thể xảy ra v.v… Thật ra phần thú vị và giá
trị nhất của Tīkā là những khảo sát của nó thường được trình bày dưới
dạng một câu hỏi hoặc sự đối kháng được theo bởi một phần giải đáp dài hoặc sự
biện minh. Nhưng Tīkā đầu thì thường khá ngắn gọn trong cách diễn đạt,
hoặc quá phức tạp trong những chuỗi biện luận của nó, khiến cho nghĩa chính xác
của đoạn văn đôi khi khó nhận ra. Để sửa chữa khuyết điểm này, một chú giải mới
(abhinavatīkā) cho phần đầu của Dīghanikāya được sáng tác vào
cuối thế kỷ 18 bởi Hòa thượng người Miến Nānābhivamsa. Tác phẩm hiệu
đính này có tên là Sādhuvilāsinī, phần lớn sao chép nội dung của chú
giải phụ tiêu chuẩn nhưng mở rộng và gọt giũa nó cho văn phong sáng sửa nhiều
hơn, thêm những điểm dẫn giải nơi nào cần thiết.
Văn phong Pāli trong các Tīkā
khó và phức tạp, lời văn đầy những giải thích chằng chịt, những biện luận
và nghĩa bóng. Vì tác phẩm hiện tại so với kiến thức của chúng tôi là nỗ lực
đầu tiên về một bản dịch có qui mô bao quát từ các Tīkā, chúng tôi e
rằng vài khuyết điểm có thể phạm phải. Vì phép hành văn chúng tôi phải uyển
chuyển khi hoàn thành những cụm từ và trích dẫn trong nguyên bản, sắp xếp lại
những cấu trúc rườm rà, những chuyển đạon luận lý trong các suy luận từ chú
giải phụ. Chúng tôi hy vọng các thế hệ học giả Pāli trong tương lai sẽ tiếp tục
khảo sát các Tīkā và phô diễn thêm khía cạnh tế nhị về phương diện triết
học và tâm lý học của văn học Pāli sang Anh văn.
Tựa của tác phẩm toàn tập "The
Discourse on The All-Embracing Net of Views" (Kinh về lưới bủa khắp các
quan điểm) là phóng dịch từ vài tựa khác được nêu ra ở phần kết đề của Kinh
Phạm Võng.
Bhikkhu Bodhi
Forest Heritage, Kandy,
Sri Lanka
11-07-1977