Hòa thượng Thích Quảng Đức
(1897-1963) thế danh là Lâm
Văn Tuất sinh năm 1897
(Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa.
Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
Lên 7 tuổi, Ngài được song thân cho xuất gia
học Phật. Ngài thụ
giáo với Hòa thượng Thích Hoằng Thâm là cậu ruột và được Hòa thượng
nhận làm
con đổi tên là Nguyễn Văn Khiết.
Năm 15 tuổi, Ngài thọ giới Sa Di, năm 20
tuổi thọ giới Tỳ Kheo và
Bồ Tát, được pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp, pháp hiệu Quảng
Đức. Sau
đó Ngài phát nguyện nhập thất tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh Hòa.
Về sau
Ngài có trên núi này một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc Tự. Rời núi,
Ngài vân
du hóa đạo một mình với chiếc bình bát theo hạnh đầu đà ( khất thực).
Hai năm
mãn nguyện, Ngài lại quay về nhập thất tại chùa Sắc Tứ Thiên Ân ở Ninh
Hòa.
Năm 1932 hội An Nam Phật Học ra đời, Đại lão
Hòa thượng chùa Hải
Đức đến nơi Ngài đang nhập thất, mời ngài nhận chức Chứng minh Đạo sư
cho Chi
Hội Ninh Hòa. Ba năm sau, Ngài được thỉnh cử giữ chức Kiểm Tăng cho
Tỉnh hội
Khánh Hòa. Trong thời gian hành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến tạo
và trùng
tu tất cả 14 ngôi chùa.
Năm 1943, rời Khánh Hòa vào
Nam, Ngài hành đạo khắp các tỉnh Sài gòn, Gia Định, Định Tường xuống
đến Hà
Tiên. Ngài cũng đã từng sang Nam Vang lưu trú ba năm, vừa giáo hóa các
Phật tự
kiều bào, vừa nghiên cứu kinh điển Pàli và phật giáo Nam Tông.
Lúc mới vào Nam, Ngài đã lưu trú tại chùa
Long Vĩnh (quận 3-Sàigòn)
một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi Ngài là Hòa thượng Long
Vĩnh, Ngài
còn có hiệu là Thích Giác Tánh. Suốt thời gian hóa độ chúng sinh, bất
cứ nơi
nào, Ngài cũng dốc lòng làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, kế
tục các
thế hệ Tổ sư truyền giáo, chăm lo tô bồi công đức, hoằng dương chánh
pháp.
Năm 1953, Ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó
Trị Sự và Trưởng ban
Nghi lễ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, đồng thời lãnh nhiệm vụ trì chùa
Phước Hòa
ở Bàn Cờ, là nơi đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật Học Nam Việt.
Năm 1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá
Lợi, Ngài nhận thấy
tuổi già sức yếu, và với bản nguyện "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm",
Ngài xin
thôi mọi chức vụ để có đủ thì giờ an tâm tu niệm. Tuy nhiên, vốn có
tâm từ bi,
Ngài vẫn để cho gót chân vân du hành đạo ghi dấu nhiều nơi, khi thì
chùa Quan
Thế Âm ở Gia Định, lúc lại tới chùa Long Phước, xã Ninh Quang, tỉnh
Khánh Hòa,
dùng mọi phương tiện thích ứng hướng dẫn hậu sinh mê mờ quay về chánh
đạo.
Trong phong trào đấu tranh của Phật giáo
miền Nam vào năm 1963 đòi
tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, tuy tuổi đã già, Ngài vẫn tích
cực tham
gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật tử của Ngô Đình Diệm
ngày một
nặng nề và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát Thanh Huế. Chùa
chiền bị
phong tỏa, phật tử bị bắt bớ khắp nơi. Để thức tỉnh ông Ngô Đình Diệm
và tập
đoàn của ông đang đắm chìm trong vô minh sớm thỏa mãn 5 nguyện vọng
của Phật
giáo đồ, đồng thời để cho thế giới nhận thấy cuộc đấu tranh đòi hỏi tự
do tín
ngưỡng của Phật tử việt Nam là chính đáng, ngày 20 tháng 4 năm Quý
Mão, tức
ngày 11-6-1963 Ngài đã thực hiện tâm nguyện đã thiêu đốt nhục thân để
cúng
dường và bảo vệ Đạo pháp.
Từ một cuộc diễn hành của trên 800 vị Thượng
tọa, Đại đức, Tăng Ni
và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá Lợi, khi đoàn diễn hành tiến
đến ngã
tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình
Chiểu và
Cách Mạng Tháng Tám), Ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng ướt
mấy lớp
cà sa, ngồi kiết già xuống mặt đường, tự châm lửa giữa hàng mấy trăm
Tăng Ni
đang vây quanh chấp tay cầu nguyện. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân
mình, Ngài
vẫn an nhiên chấp tay tĩnh tọa. Gần 15 phút sau, lửa tàn và Ngài ngã
xuống,
tay vẫn còn quyết ấn tam muội. Nhục thân của Ngài được đưa vào lò điện
thiêu
4.000 độ- xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài vẫn
còn
nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy.
Cái chết phi phàm của Bồ Tát Thích Quảng Đức
đã làm chấn động dư
luận khắp hoàn cầu. Báo chí thế giới đăng tin lên trang đầu cùng ảnh
tự thiêu
của Ngài. Việc Ngài tự thiêu, được đồng bào cả nước biết ngay chiều
hôm đó, và
đã gây xúc động sâu xa trong mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo.
Sự hy
sinh vì đạo của Ngài đã làm cho Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo
sợ, tìm
mọi cách đối phó với Phật giáo cuồn cuộn như sóng thần để đi đến kết
thúc là
ngày 01-11-1963 chế độ độc tài, gia đình chị của họ Ngô sụp đổ, Phật
giáo Việt
Nam thoát qua một pháp nạn.
Trước khi tự thiêu, Ngài có để lại một bức
thư gọi là: Lời nguyện
tâm huyết, nói rõ chủ định và nguyện vọng của Ngài. Điều đáng ghi nhớ
là toàn
văn bức thư này đã không chứa đựng một mảy may hận thù và tuyệt vọng
nào, mà
trái lại còn toát lên tình thương và hy vọng.
“Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa
Quan Thế Âm, Phú Nhuận,
Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là
một tu
sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa
thị để
cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả
tạm này
cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn
mười
phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý
nguyện
sau đây:
1. Mong ơn Phật Tổ gia
hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng
tối thiểu
của Phật giáo Việt
Nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2. Nhờ ơn Phật từ bi
gia hộ cho Phật giáo Việt
Nam được trường tồn bất diệt.
3. Mong nhờ hồng ân
đức Phật gia hộ cho chư Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi
nạn
khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác gian.
4. Cầu nguyện cho đất
nước thanh bình, quốc dân an lạc...
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời cho Tổng
Thống
Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc dân và thi hành
chánh
sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở.
Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất
trí để
bảo toàn Phật pháp”.
NAM MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT
Tỳ Kheo Thích Quảng Đức Kính bạch.
Ngoài ra, Ngài còn để lại năm bài kệ, dặn dò
bổn đạo và đệ tử sống
theo Bát chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ vững niềm tin trong đạo
pháp.
Cũng như miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền
Nam, Ngài đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa
cuối cùng
Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm, tại Gia Định, Sài Gòn.
Để ghi nhớ công hạnh của Ngài, sau khi Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện: Tăng Thống và Hóa Đạo trong
một phiên
họp trước ngày Phật Đản năm 1964, đã đồng thanh quyết nghị suy tôn
Ngài pháp
vị BỔ TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất. Nhà nước dùng pháp hiệu của
Ngài đặt
tên cho đường Nguyễn Huệ cũ chạy qua trước chùa Quan Thế Âm là đường
Thích
Quảng Đức, quận Phú Nhuận.
Quả tim Bồ Tát Quảng Đức là một chứng minh
cụ thể cho tấm lòng của
muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự do và bìng đẳng nhưng
cũng bất
khuất trước nạn cường quyền và áp bức. Trái tim ấy trở thành biểu
tượng tinh
thần của Phật giáo Việt
Nam và là trái tim của nhân loại đã và đang đấu tranh mãi cho tự do
hòa bình,
hạnh phúc nhân sinh.