Giới thứ tư, vọng ngữ, đã đề cập đến trong phần Chính Ngữ.
Phần lớn các kinh sách không đề cập đến giới thứ năm -- không dùng chất
say -- trong Chính Nghiệp.
Nên hiểu rằng không dễ duôi uống rượu và dùng các chất say là giữ gìn
tâm cho được luôn luôn sáng suốt để luôn luôn quyết định chân chính.
Không Sát Sinh là không có ý cắt đứt, ngăn chặn,
tiêu diệt hay làm trở ngại sức tiến triển của năng lực một đời sống,
không cho nó liên tục trôi chảy, là không làm tổn thương cuộc sống của
bất luận sinh vật nào, cũng không sai biểu, xúi dục hay quyến dụ người
khác làm những điều này.
Trong hình thức thô sơ nhất, hành động sát sinh gồm đủ năm yếu tố là:
Có một sinh vật đang sống, có sự hiểu biết rằng sinh vật ấy đang sống,
có ý định cắt đứt sự sinh sống của sinh vật ấy, có sự cố tâm cố gắng làm
cho con vật chết và chính tác động sát sinh.
Ðức Phật dạy: "Ai cũng run sợ trước gậy gộc. Tất cả đều qúy trọng
đời sống. Hãy lấy bụng ta suy lòng người. Không nên giết cũng không nên
làm cho người khác giết." (Kinh Pháp Cú, câu 129).
Một ngày nọ khi vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì bình Ðức Phật thấy
một đám trẻ con cầm gậy xúm lại đập một con rắn nước. Ngài dừng chân lại
hỏi:
- Này các con, các con đang làm gì đó?
- Bạch Ngài chúng con đập con rắn.
- Tại sao các con đập nó?
- Bạch Ngài, vì chúng con sợ nó cắn.
Ðức Phật mở lời khuyên rằng trong khi làm đau đớn con rắn các con hãy
nghĩ đến chính các con. Hành động hung bạo này sẽ làm tổn thương đến
hạnh phúc của các con trong tương lai.
Người nào muốn tìm hạnh phúc cho mình chớ nên đánh đập kẻ khác. Và
Ngài dạy: "Kẻ nào tìm hạnh phúc cho chính mình bằng cách hành hạ
chúng sinh khác, cũng ưa thích an lạc, kẻ ấy sẽ không được hạnh phúc."
Khi giảng về Trì Giới Ba La Mật (Sĩla Paramita), Ðại Ðức Nãrada có
lời khuyên dạy như sau: "Mọi người đều quý trọng đời sống của mình.
Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác.
Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, cho đến những con vật bé
nhỏ đang bò dưới chân và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một
sinh vật nào.
Con người vốn sẵn có một thú tính xúi dục giết hại những chúng
sinh khác để ăn thịt mà không chút thương hại. Cũng có khi sát sinh, như
săn bắn hay đi câu, để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng
hay để tìm thú vui, không có lý do nào chính đáng để giết một sinh linh
hoặc làm một cách nào khác cho một sinh linh bị giết.
Có những phương pháp tàn nhẫn, ghê tởm, cũng có những phương pháp
mà ngươi ta gọi là "nhân đạo" để sát sinh. Nhưng, làm đau khổ một chúng
sinh khác là thiếu lòng từ ái.
Giết một con thú đã là hành động bất chính, nói chi đến giết một
người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện ra, gọi là chính đáng, có khi
gọi là cao qúy, để con người tàn sát con người."
Ðể giải thích cho một thanh niên tên Subha, thắc mắc trước trạng
huống bất đồng giữa loài người Ðức Phật dạy:
"Nếu người kia trọn đời chỉ biết sát sinh, nguời thợ săn chẳng hạn,
bàn tay luôn luôn đẫm máu, hàng ngày sống trong sự giết chóc và gây
thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy, nếu tái sinh
trong cảnh người, người ấy sẽ yểu mạng.
"Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xúc phạm đến cuộc
sống của ai, sống xa gươm đao giáo mác và các loại vũ khí, lấy lòng từ
ái đối xử với tất cả chúng sinh. Do sự không sát sinh ấy, nếu tái sinh
trong cảnh người, người ấy sẽ trường thọ.
"Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người, luôn luôn
dùng đấm đá và gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung dữ bạo tàn ấy,
nếu tái sinh trong cảnh người, người ấy sẽ ươn hèn yếu bệnh hoạn.
"Nếu người kia không bao giờ làm tổn thương ai. Do đức tính hiền
lương nhu hòa ấy, nếu tái sinh trong cảnh người, người ấy sẽ mạnh khỏe...
" (Kinh Cũllakammavibhanga Sutta số 135 của bộ Trung A Hàm, Majjhima
Nikãya).
Quả của nghiệp sát sinh nặng hay nhẹ tùy theo tầm quan trọng của
chúng sinh bị giết vì sự cố gắng để thực hiện hành động sát sinh và tai
hại gây ra khác nhau. Sát hại một người thánh thiện là gâsy nhiều tai
họa hơn là giết một tương cướp.
Không trộm cắp: là không có ý lấy hoặc xúi dục người
khác lấy một vật có chủ mà không được cho đến mình. "Lấy một vật
không được cho đến mình" có thể bao gồm nhiều hình thức như trộm
cắp, tức lén lút lấy của người như móc túi, khoét vách đào ngạch vào nhà
lấy trộm v.v... ; như cướp gịưt tức công khai lấy của người bằng võ lực
hoặc bằng cách hăm dọa, lẹ làng gịưt lấy món đồ rồi bỏ chạy, làm cho
người ta không kịp trở tay; như gian lận, tức giả dối, tráo trở dành
quyền sở hữu của một người khác; như lường gạt, buôn bán của ít nói
nhiều, giá thấp nói cao hay đo, lường, cân thiếu, của hư xấu nói tốt,
v.v...
Tất cả những hình thức trên đều tạo nghiệp trộm cắp.
Một khi nhân đã gieo rồi thì qủa đương nhiên ắt phải trổ, sớm hay
chầy, nơi này hay nơi khác. Theo đúng giáo huấn của Ðức Bổn Sư, không
thể van lơn cầu cạnh hay hối lộ hoặc gian lận bằng cách nào mà ta có thể
đổi được định luật nhân qủa, cũng không thể lẩn trốn nơi nào, dầu trên
trời lồng lộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm hoặc ở thâm sơn cùng
cốc mà ta có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp bất thiện đã tạo.
Không có vị Trời nào, chí đến Ðức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào
sự báo ứng của nghiệp. Qủa của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ,
bị thất vọng và làm thân nô bộc.
Năm chi tạo nghiệp trộm cắp là: Có một vật sở hữu của người khác,
mình biết như vậy, mà có ý định đoạt vật ấy làm sở hữu của mình, rồi cố
gắng đoạt lấy.
Người thực hành Chính Nghiệp lánh xa mọi hình thức trộm cắp, dầu là
sự trộm cắp hiển nhiên, lộ liễu hay vi tế, kín đáo, ẩn núp dưới một lớp
gì khác, trái lại, luôn luôn cố gắng phát triển những đức hạnh thanh
bạch, liêm khiết, chân thật và chính trực.
Không tà dâm: tức là giữ gìn đời sống gia đình cho
được trong sạch, không lang chạ phóng túng, là pháp tu học thứ ba trong
Chính Nghiệp.
Về phương diện luân lý giới này nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, không
để cho người ngoài xâm phạm vào tình trạng an lạc trong nhà, tạo sự tín
cẩn lẫn nhau và xiết chặt tình nghiã giữa vợ và chồng.
Về mặt đạo đức, giới này giúp làm giảm thiểu năng lực tự nhiên có
chiều hướng lan rộng của dục vọng và đằng khác tăng trưởng hạnh từ khước
buông bỏ và tự chế của lối sống thanh cao.
Lẽ dĩ nhiên đời sống độc thân của các vị tu sĩ chân chính là hình
thức trong sạch đáng qúy trọng nhất, vì các Ngài có thể tận dụng tất cả
năng lực và thì giờ của mình để phục vụ kẻ khác.
Tuy nhiên, Ðức Phật là vị giáo chủ thực tế, Ngài không bao giờ trông
chờ hàng tín đồ tại gia cư sĩ sống cuộc sống của các bậc xuất gia. Hiểu
biết bản năng và những kích thích của đời sống, khát vọng và những thúc
giục của con người Ðức Bổn Sư không ép buộc người Phật Tử cư sĩ sống
tuyệt đối độc thân như các vị Tỳ Khưu.
Nhưng Ngài khuyên chúng ta nên thận trọng, đừng để sai lầm làm nô lệ
cho thể xác và do đó, làm giảm suy phẩm giá con người.
Quả của nghiệp Tà dâm là có nhiều kẻ thù và đời sống gia đình, giữa
vợ và chồng, không có hạnh phúc.