Lời nói là một khả năng của con người có giá trị vô cùng
trọng đại. Bằng lời nói, ta biểu lộ những tư tưởng thầm kín để chia xẻ
với người khác.
Người có Chính Kiến và Chính Tư Duy tất nhiên cũng có Chính Ngữ.
Những người khác, dầu chưa đạt đến mức cao thượng ấy, vẫn có thể tu tập,
thận trọng chú tâm vào những gì mình sắp nói.
Nếu con người có thể kiểm soát được cái lưỡi không xương của mình
nhân loại ắt tránh được bao nhiêu phiền phức và đời sống trên thế gian
này sẽ tốt đẹp hơn bao nhiêu.
Lời nói trong sạch sẽ không đượm nhuần những tâm sở bất thiện như
tham lam, sân hận, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ v.v...
Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là: nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ
cộc cằn và nói nhảm nhí.
Không nói dối mà luôn luôn nói lời chân thật là đức hạnh đầu
tiên của Chính Ngữ
Người nghiêm trì giới này cố tránh và kiêng cữ nói lời giả dối, tức
chuyện có nói không, chuyện không nói có. Người ấy nói lời chân thật,
tận tâm sống chân thật, chắc chắn, đáng được tín cẩn.
Tâm sở bất thiện nằm phía sau lời nói giả dối, hay ý định làm cho
người khác hiểu sai sự thật, có thể khác nhau như khi nói dối để được
lợi về tài sản vật chất, địa vị, quyền thế, danh vọng v.v... cho mình
hay cho người thân mình thì đó là tâm tham. Nói dối cố tình làm hại
người khác là tâm sân v.v...
Nói lời giả dối tác hại cho người mà cũng làm hại chính mình. Xã hội
chỉ có thể tồn tại êm thấm trong sự tín cẩn lẫn nhau khi mà người này có
lý do để tín nhiệm người khác.
Tật nói dối còn ảnh hưởng đến tâm tính tự nhiên của mình. Khi đã nói
dối một lần ta bị bắt buộc phải nói dối nữa để che đậy cái dối trước và
như vậy, gài chặt người nói dối vào một loại cạm bẩy rất chằn chịt,
không lối thoát. Lắm lúc, đến độ nào, chính người nói dối cũng không còn
biết đâu là sự thật.
Giả dối là một trở ngại quan trọng trên đường giác ngộ. Giác ngộ là
thấu triệt sự thật, thấy rõ thực tướng của sự vật, còn nói dối là nói
sai sự thật, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự thật.
Chứng ngộ Chân Lý là trọn vẹn tự hòa đồng với sự thật, với cái gì
thật sự là như vậy.
Người giả dối nghĩ một đàng nói ra một nẽo, lấy giả làm thật. Con
đường giả dối hẳn là ngược chiều với con đường giác ngộ.
Như vậy, cố tránh, cố kiêng cữ lời nói giả dối là vươn mình cố vượt
qua khỏi phạm vi luân lý của đời sống xã hội.
Vấn đề ở đây là trọn vẹn hòa đồng với Chân Lý.
Ðến mức cùng tột, chân thật là một Parami (Ba La Mật), tức là một
trong mười pháp có khả năng đưa người thực hành thuần tục từ bờ mê đến
bến giác (Sacca Paramita, Ba La Mật Chân Thật).
Một vị Bồ Tát luôn luôn chân thật, trong sạch và chính trực. Phương
châm của Ngài là, "nói sao làm vậy, làm sao nói vậy", không hề
sai chạy, không bao giờ có sự chênh lệch giữa hành động và lời nói. Ðời
công các Ngài như thế nào đời tư như thế ấy. Dầu có phải hy sinh mạng
sống đi nữa Bồ Tát vẫn không hề nói lời giả dối. Sở dĩ chư vị Bồ Tát rất
chú tâm đến hạnh chân thật như vậy là vì ảnh hưởng của sự giả dối rất
sâu đậm.
Không nói đâm thọc là pháp tu học thứ nhì
Danh từ "pisunavacca" được Ðức Thế Tôn dùng ở đây có nghĩa là lời nói
nhằm bẻ gảy tình bằng hữu. Thành ngữ mà người thế gian thường dùng là
đâm bị thóc chọc bị gạo. Ði đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia
đặt chuyện dèm pha người này nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ.
Ðức Phật dạy:
"Người trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không dùng lời lẽ có
tính cách đâm thọc. Ðiều gì nghe ở đây, người ấy không lặp lại ở nơi
khác nhằm tạo chia rẽ, hoặc nghe ở nơi khác người ấy không lặp lại ở đây
với ý định làm cho hai đàng hờn giận lẫn nhau.
Người ấy đoàn kết những ai chia rẽ và khuyến khích những ai đoàn
kết. Không khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa
thích và phấn khởi trong sự hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo
trồng mầm mống thuận hòa" (Tăng Nhứt A Hàm. Anguttara Nikàya, 176)
Ðộng cơ thúc đẩy, đưa đến lời nói đâm chọc thường là tâm bất mãn, sân
hận hay ganh tỵ. Thấy ai thành công hay thấy người có giới đức được tôn
trọng thì sinh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm suy giá trị. Ðôi khi vì
muốn ám hại hay muốn lấy lòng một người, cũng có khi chỉ vì thỏa thích
muốn thấy người ta giận dũi cấu xé lẫn nhau.
Ðứng về phương diện nghiệp báo, quả của lời nói đâm thọc rất là tai
hại. Tâm sân, làm nguyên nhân cho lời nói, đã là một căn bất thiện rồi,
người có ác ý cố gây chia rẽ thường nghiền ngẩm suy tư, tìm lời lẽ để
châm chích cho đúng lúc, đúng tâm lý v.v...
Càng ấp ủ dưỡng nuôi trong lòng, nghiệp ác càng nặng. Nếu cố tâm bày
điều giả dối để thêm bớt thì lại còn tạo thêm khẩu nghiệp giả dối. Cả
hai, lời nói giả dối và lời nói đâm thọc, phối hợp lại tạo thành một
khẩu nghiệp bất thiện vô cùng tai hại.
Người nói đâm thọc tựa hồ như loài muổi, hút máu đầu này rồi đến ve
vản đầu kia, hút một ít máu và trong lúc ấy, không quên để lại một phần
nọc độc. Miệng nói ngọt ngào như mật nhưng tâm thì đượm nhuần chất độc.
Lời chân chính không tạo phiền phức cho ai mà chỉ đem lại hòa hợp và
an tĩnh. Thay vì gieo rắc mầm mống chia rẽ người ấy luôn luôn tạo hòa
khí giữa những người bất đồng ý kiến, xây dựng tình bằng hữu giữa những
người thù nghịch.
Trong xã hội loài người chúng ta không thể sống riêng rẽ một mình mà
phải tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi ích kế cận nhất của mỗi
người, chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau trong bầu không khí
thuận hòa, trong tình huynh đệ và trong sự điều hòa.
Không nói lời thô lỗ cộc cằn mà chỉ nói thanh tao nhã nhặn
Lời thô tiếng cộc biểu lộ ra ngoài tâm hung tợn bên trong và được
thốt ra trong cơn nóng giận. Tính cách thô bạo của lời nói như thế có
thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như la rầy, mắng nhiếc, chưởi rủa hay
nói xiêng nói xỏ v.v... tất cả đều phát sinh từ tâm bất mãn, sân hận và
nhằm gây phiền muộn khổ đau cho người khác.
Những cơn nóng giận thường bộc phát đột ngột, không có sự nghiền ngẫm
suy tính, do đó hậu quả không đến nổi trầm trọng lắm. Tuy nhiên, vì nó
có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ đểnh để lặp đi lặp lại nhiều
lần ắt thành thói quen và từ đó, trở thành tâm tính sân hận và hung bạo
thì rõ ràng là một hiểm họa.
Lời nói thô bạo, biểu lộ sự nóng giận, lúc nào cũng là một tai hại
cho người nghe cũng như cho người nói, trong hiện tại cũng như trong
tương lai.
Vào thời Ðức Phật có vài vị tỳ khưu thường nặng lời lăng mạ một vị
khác và vị này trả lời lại. Ðức Phật khuyên:
"Không nên dùng lời thô lỗ cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô.
Những lời gây thù trả oán thô tục thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ
làm tổn thương như gây thương tích." (Kinh Pháp Cú, câu 133)
Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những
lời lăng mạ của kẻ khác như sau, "Nếu giữ được im lặng như cái mõ
bể, con đã đắc quả Niết Bàn", ý nói người hành đúng như vậy, dầu
còn tại thế cũng được xem như đã đắc Niết Bàn.
Tự kềm chế, cố tránh và kiêng cữ những lời thô bạo trong cơn nóng
giận là trau giồi hạnh nhẫn nhục, cũng là một Ba La Mật, Khanti
Paramita, Nhẫn Nhục Ba La Mật,.
Ðó là chịu đựng những lời khiển trách khắc khe và khoan hồng bỏ qua
những sai lầm của người khác, tôn trọng những quan điểm dị đồng và cảm
thông những thiếu sót của người.
Tự kiểm soát thân tâm là cái chìa khóa mở cửa đưa vào hạnh phúc và để
cho những cảm xúc vô độ lượng, vô trật tự, đượm nhuần sân hận, điều
khiển mình là tự đạt mình vào tình trạng nô lệ tệ hại nhất.
Túc Sinh Truyện số 269 có thuật chuyện Bồ Tát, tiền thân của
Ðức Thế Tôn, là vua xứ Bernares (Ba La Nại), trong một kiếp sống.
Ðức Hoàng Thái Hậu, mẹ Ngài, là người hiền lương nhưng đôi khi ăn nói
cộc cằn. Hôm nọ Vua cùng đi chơi với Hoàng Thái Hậu và đoàn tùy tùng,
dạo chơi trong ngự uyển.
Bên đàng có con chim ác là, màu sắc xanh tươi lộng lẫy, nhưng mỗi khi
cất tiếng lên thì giọng kêu chát chúa, ai nấy cũng bịt tai, ngoảnh mặt
than phiền.
Một lúc sau, đến nơi khác có con chim chích chòe, lông đen xấu xí mà
tiếng hát lãnh lót thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích nghe, ai cũng trông
cho nó hát thêm nữa để nghe. Nhân cơ hội Vua mở lời khuyên nhủ mẹ:
"Kính Thưa Mẫu Hậu thân mến, tiếng kêu của con chim ác là thật
chác chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh. Thật không ai thích nghe lời
thô lỗ. Chim chích chòe trái lại, mặc dầu đen đúa xấu xa nhưng đã thu
hút mọi người bằng giọng hát thanh nhã dịu hiền. Như vậy, lời nói của ta
phải cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa v.v..."
Do lời khuyên của người con sáng suốt kể từ đó về sau Hoàng Thái Hậu
giữ gìn lời ăn tiếng nói và trở nên thanh nhã dịu hiền.
Không nói nhảm nhí mà chỉ nói lời hữu ích
Pháp học này được Ðức Phật dạy như sau: "Người (thọ trì phẩm
hạnh này) cố tránh và kiêng cữ nói lời nhảm nhí, vô ích. Người ấy nói
đúng lúc, đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo
Pháp và Giới Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng
lúc, hữu ly, hòa nhã và đầy ý nghĩa." (Tăng Nhứt A Hàm, Anguttara
Nikàya, bài số 176)
Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông cạn và không mang lại lợi ích nào.
Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng tâm. Ðức Phật khuyên nên hạn
chế những ngôn từ thuộc loại này.
Ðối với bậc xuất gia, lời nói phải thật là cẩn ngôn, phải được chọn
lọc và chỉ nói những gì thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy: "Này chư
Tỳ Khưu, khi các con tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm: hoặc
thảo luận về Giáo Pháp, hoặc im lặng cao thượng." (Trung A Hàm,
Majjhima Nikàya, bài số 26)
Thảo luận về Giáo Pháp là đề cập đến bản chất thật sự của vạn hữu, là
đề cập đến Con Ðường dẫn đến chứng ngộ Chân Lý cùng tột, Niết Bàn, và
do đó, quả thật là hữu ích.
Ðàng khác trầm lặng là một hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn.
Lại nữa, khi ẩn rút trong im lặng chúng ta hoàn toàn đơn độc để nhìn
vào bên trong chúng ta, vào bản chất thật sự của chúng ta, để tận tường
thấy rõ mình như thật sự mình là vậy. Chừng đó ta có thể học được phương
cách vượt qua những khuyết điểm và giới hạn của cuộc sống bình thường.
Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn phải cần nói năng lịch
thiệp trong câu chuyện giao dịch hằng ngày. Mặc dầu vậy, Ðức Phật dạy
không nên lơ đễnh để buông trôi quá xa, vì người chú nguyện đi trên con
đường giải thoát phải hết sức thận trọng phân biệt điều nào sẽ dẫn đi
đâu, và phải luôn luôn chuyên cần canh chừng "anh chàng nói láo"
sâu ẩn lẫn trốn bên trong chúng ta một cách rất là kín đáo.
Không nên nói lời nhảm nhí mà luôn luôn có lời hữu ích.
Vào thời Ðức Phật có tên sát nhân khát máu nọ gia nhập vào đảng cướp,
gây nhiều tội ác và về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình. Nhờ
Ðức Sàriputta (Xá Lợi Phất) cảm hóa, tính tình anh đổi hẳn từ hung tàn
bạo ngược trở nên hiền lành lương thiện và sau khi chết tái sinh vào
cảnh Trời.
Ðức Phật giải thích rằng sở dĩ anh tái sinh tốt đẹp là nhờ lời khuyên
hữu hiệu đượm nhuần từ bi của bậc đạo đức cao thượng. Ngài dạy: "Chỉ
một lời nói hữu ích, làm cho người nghe an tĩnh, còn quý hơn cả ngàn
tiếng nói vô ích." (Kinh Pháp Cú, câu 100)
Không phải nói nhiều mà chứng tỏ rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng
không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích cho mình hoặc cho ai khác.
Kinh sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi đưa đến hậy quả
tai hại, như trường hợp con két, vì ham nói mà phải chịu cảnh chim lồng.