I. Duyên Khởi Lập Tôn
Tôn
này thuộc về Ðại thừa, thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ.
Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm
của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn
tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài
Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long
Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Úy Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí
Tam tạng.
Vào
đầu đời Ðường, hai Ngài Vô Úy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp
Mật tôn.
Ngài
Vô Úy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh
Ðại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim
Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam tạng. Ngài sau này truyền
cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Ðại
sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.
Mật
tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Ðông
mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.
Kinh
điển của Mật tôn. Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh Đại
Nhật và kinh Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu
lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Ðức
Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn
đầu, Tôn này thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài
Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) bằng phương pháp quán đảnh đã nhận
lãnh pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này.
Nhưng
Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?
Như
chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1.
Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở
y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh thân tịnh có
đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.
2.
Bảo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu
hành trải qua ba đại kiếp mà được.
3.
Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa
ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật
Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà này. Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ
Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích Ca như một số người lầm tưởng, mà
chính là pháp thân Phật.
Theo
các tôn phái khác thì pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp chỉ báo
thân và ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói pháp.
Theo
Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp; Hiển giáo và Mật giáo.
Những
lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tùy theo căn cơ của mỗi
chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.
Còn
Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ
trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của pháp thân Phật, như Ngài Bồ
tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại
Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).
Tóm
lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Ðức Ðại Nhựt Như Lai,
(hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim Cang Tát Đỏa
là vị Bồ tát đã chép lại kinh Ðại Nhựt và kinh Kim Cang Ðảnh.
II. Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản.
1.
Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại là:
địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản
nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).
Trong
lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm.
Sau đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm
nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục
đại bao hàm 3 phương diện
Thể
đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ;
Tướng
đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh
Dụng
đại, tức là ngôn ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.
Vũ
trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.
Thể,
tướng, dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán sát; chứ
thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được.
Ngoài thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không thể có được; ngoài tướng
đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được. Vì vậy xét một phương diện
thì rõ được cả ba.
Như
chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba
phương diện: thể, tướng, dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc
dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung thông vô ngại, châu
biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh hay chơn như là
nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn như hay lý tánh
cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và
động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có lý. Lý tánh của
vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi
chúng sanh, trong mọi hình thức.
Muốn
chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát sự tướng,
sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây tức là bốn Mạn trà la.
2.
Bốn Mạn trà la: Mạn trà la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn
pháp Mạn trà la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của
bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà la là:
Đại
Mạn trà la, nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là
sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y
theo lục đại mà hiện.
Nghĩa
hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các
pho tượng chạm trổ, tô vẽ,v.v...
Tam
muội gia Mạn trà la, nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật
dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt
của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ,...nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát
thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời thề
nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng
sanh.
Pháp
Mạn trà la, nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký
hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các
đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể
của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Ðại Nhựt Như Lai (đọc là A), chủng tử
của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn chơn ngôn tức là Mật chú, và danh
hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong các kinh điển.
Yết
ma Mạn trà la: Yết ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma
Mạn trà la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và môn vật. Nghĩa hẹp là
chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp
độ sinh.
Bốn
Mạn trà la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà la, tức phải có ba Mạn trà
la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn của Phật không
lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không lìa bốn mạn của Phật.
Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.
III. Phương Pháp Tu hành
Cũng
như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai pyương
diện: Sự và Lý, hay nói theo danh từ của Mật tôn là Giáo tướng và Sự tướng.
Sự
tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập
đàn,...Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không
thể dùng ý riêng mà làm càn được.
''Giáo
tướng'' là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút
ra trong sự tướng để dạy chúng ta.
Người
tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy,không được thiên bỏ bên
nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm
cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói suông. Giáo tướng thì có
thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự tướng thì phải có các bậc A Xà Lê,
tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho mới biết được.
Ngoài
sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.
Tam
mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ý. Tam mật gồm có:
Thân mật, ngữ mật (khẩu mật) và ý mật.
Như
trên đã nói, chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu đại làm thể, bốn pháp Mạn trà
la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể tướng mật. Như
đức Ðại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là
ngữ mật, cái thức lớn bao khắp tất cả là ý mật. Còn chúng sanh, thì tay bắt ấn
là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào tam ma địa (thiền
định) là ý mật.
Nhưng
Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng
buộc. Vậy muốn được như Phật, phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà
tịnh được thân nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trí quán
tưởng đức Ðại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp được thanh tinh. Sự
tu hành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai
đoạn đầu gọi là tam mật gia trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành giả đã làm
chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thủy (tâm vắng lặng như nước đứng yên) cả
mình được ánh sáng mầu nhiệm của Ðịa Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là
"Gia"; Và tâm thùy minh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu
nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì
"Trì", hai bên thừa tiếp nhau nên gọi là Tam mật gia trì.
Giai
đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần
thục, thì ánh sáng của đưc Ðại Nhựt Như Lai là ánh sáng trong tâm thủy của hành
giả hiệp nhau (du già) không sai không khác, thì gọi là "Tam mật du
già". Ðến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu.
IV. Quả Vị Tu Chứng
Hành
giả sau khi đã thành tựu Tam mật hữu tướng, thông suốt được ý nghĩa mầu nhiệm
của bốn mạn Trà La, thì nhất cử, nhất động đều rập khuôn đúng theo oai nghi của
Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi
ích mà như không làm. Ðó tức là vô tướng tam mật.
Ðến
độ vô tướng tam mật thì mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thảy lời nói
đều là chú và chơn ngôn, hết thảy ý nghĩ đều là diệu quán cả. Do đó mà trong
kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng tam mật:
"mở miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động chân, đều thành mật
ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".
Ðó
cũng là ý nghĩa của bốn chữ "tức thân thành Phật"; nghĩa là hiện đời
thành Phật.
V. Kết Luận
Sự
lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tột cũng đồng một mục đích như các
pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thân ngồi trì chú, tay bắt ấn,
nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiệp được thân tịnh (thân
mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội lỗi, vì thế mà khẩu
nghiệp được thanh tịnh (ngữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần
chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi, vì thế nên ý nghiệp được
thanh tịnh (ý mật). Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng
Tây phương", nghĩa là: nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnh thì được về Tây
phương đồng ở với Phật.
Trì
chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sanh sẽ nhổ sạch hết gốc rễ của
nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc
sanh Tịnh độ Ðà la ni); trì chú Lăng nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiêp
chướng và tình ái dục nặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A Nan và bà Ma Ðăng
Già (xin quý vị xem quyển Ðại cương Lăng nghiêm về đoạn nói lợi ích trì chú
Lăng nghiêm); trì chú Phổ am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ
quái trong gia trạch; trì Ngũ bộ chú hay Ðại bi thập chú sẽ được phước huệ tăng
long, tùy tâm hành giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.
(Trích
Phật Học Phổ Thông
Khóa
Thứ Năm
Lịch
Sử Truyền Bá Phật Giáo, 10 Tôn Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh