Từ
khi có loài người trên trái đất này thì tranh chấp, giận dữ, thù hằn,
đố kỵ, cãi cọ… đã xuất hiện; và vì thế, loài người luôn luôn phải sống
bất an. Cũng kể từ đó, chưa có giây phút nào trên thế giới không có
chiến tranh.
Trong thế
kỷ trước, loài người đã kinh hoàng chứng kiến hai trận chiến tranh thế
giới lớn nhất: Thế chiến I (1914-1919) và Thế chiến II (1939-1945).
Ngoài ra, những xung đột giữa các bộ tộc, các quốc gia, các dân tộc, tín
đồ các tôn giáo… vẫn xảy ra hàng ngày suốt cả trăm ngàn năm qua. Loài
người vẫn truy tìm các giải pháp hòa bình qua thương lượng, kêu gọi, hô
hào, hiệp ước, đình chiến… Các nhà tôn giáo, tư tưởng, đạo đức, chính
trị… vẫn ráo riết hoạt động để mưu cầu hòa bình. Thế nhưng, bạo lực, kỳ
thị, bất an, chiến tranh vẫn xảy ra hàng ngày. Việc truy tìm hòa bình
vẫn chưa có hiệu quả. Như vậy, đâu là ý nghĩa của hòa bình? Đâu là
nguyên nhân của chiến tranh, hận thù, bất an…? Có thể khẳng định rằng
giáo lý nhà Phật hoàn toàn trả lời được các câu hỏi đó và có thể được
thực hiện để mưu cầu hòa bình, an ổn cho từng cá nhân, từng cộng đồng,
và toàn thể nhân loại.
Hòa bình,
tiếng Anh là Peace, tiếng Pháp là Paix, có gốc là Pax từ tiếng Latin hay
Hy Lạp. Ý nghĩa chung là một trạng thái tĩnh lặng, an toàn, không bị áp
lực, bất an trong ý nghĩ, hài hòa trong các liên hệ cá nhân; một hiệp
ước, một giai đoạn có sự đồng ý giữa các chính phủ; một hiệp ước thỏa
thuận chấm dứt sự đối kháng giữa những người đang chiến tranh hay đang
có thái độ thù nghịch; một yêu cầu yên tĩnh, sự chào đón hân hoan (Từ
điển Webster). Ý nghĩa nổi bật nhất của hòa bình ở đây là sự tĩnh lặng,
yên ổn.
Theo từ
điển Wikipedia thì hòa bình là trạng thái hài hòa, được định tính bởi
sự vắng mặt những tranh chấp, thù nghịch. Hòa bình cũng hàm ý sự hiện
hữu của những quan hệ lành mạnh hoặc được chữa cho lành mạnh giữa liên
hệ cá nhân và liên hệ quốc tế; sự thịnh vượng về phúc lợi xã hội hay
kinh tế, sự xây dựng công bằng, công chính; tình trạng chính trị vận
hành phục vụ những lợi ích thực sự của mọi quan hệ quốc tế. Gọi là thời
bình không chỉ là không có tranh chấp hay chiến tranh mà còn là sự bao
dung trong các quan hệ quốc tế để thực hiện hòa bình thực sự.
Wikipedia
còn bảo rằng, Hòa bình, theo tiếng La-Hy là Pax, còn có nghĩa là không
có sự hỗn độn về dân sự, và từ Peace của tiếng Anh dùng để dịch từ
Shalom của tiếng Hebrew, liên hệ với từ Salaam của Ả-rập có rất nhiều
nghĩa: an toàn, an ninh, hạnh phúc, thịnh vượng, vận may, tình huynh đệ,
và là một lối sống bất bạo động diễn tả mối quan hệ giữa những người
có sự tôn trọng, công chính, và thiện chí.
Từ hòa
bình là do người Nhật dịch từ người phương Tây vào khoảng cuối thế kỷ
thứ 19. Từ điển Hán trước đó không có dùng từ này. Từ điển Từ Hải có ghi
Hòa là Thuận; không cương, không nhu là Hòa. Hòa là Bình, ngang bằng,
phẳng, bình đẳng. Hòa là trộn lẫn nhau, âm thanh, thơ kệ tương ứng gọi
là Hòa (còn đọc là Họa). Bình là bằng phẳng, là trị an, là hòa hảo,
ngang bằng nhau.
Các hội
nghị, hội thảo quốc tế về Hòa bình được tổ chức khá nhiều, thường là để
tạm thời ngưng chiến tranh, ngăn chặn xung đột. Thế nhưng ý nghĩa về
hòa bình, nguyên nhân sự phá vỡ hòa bình chưa được phân tích sâu sắc.
Thiếu sót này được bổ sung, được giải quyết qua giáo lý của Đức Phật và
qua sự thực hành, áp dụng giáo lý ấy và Phật giáo được gọi là Phật giáo
ứng dụng.
Cố Thủ
tướng Ấn Độ Jawaharlal Nerhu đã rất đúng khi phát biểu: “Chúng ta theo
những nguyên tắc mà Đức Phật đã nêu. Cuối cùng chúng ta sẽ đạt được hòa
bình, an tịnh cho thế giới”.
Hãy tìm
hiểu những nguyên tắc ấy. Đấy là những nguyên tắc, những phẩm chất,
những nội dung của cái tâm con người. Tìm hiểu tâm, tu sửa tâm, chứng
ngộ tâm chính là nội dung chủ yếu của Phật pháp; cho nên Phật học còn
được gọi là Tâm học. Kinh Luận Phật giáo là một kho tàng trí tuệ về việc
phân tích tâm, nhận biết tâm, tu tập tâm, và chứng ngộ tâm.
Hòa bình
thường được hiểu là trạng thái bình an của thế giới bên ngoài. Phật
giáo quan niệm hòa bình là sự cảm thọ, cảm thọ bởi cái tâm. Do đó, hòa
bình chủ yếu là hòa bình trong cái tâm mỗi con người. Giáo lý Hoa Nghiêm
cho ta thấy “nhất thiết tức nhất, nhất tức nhất thiết”, từ đó, ta hiểu
thế giới là tâm, tâm là thế giới. Muốn xây dựng hòa bình thế giới, hãy
xây dựng cái tâm hòa bình của mỗi người.
Giáo lý về
hòa bình có thể được trình bày qua Tứ vô lượng tâm. Một cách khái quát,
bốn tâm vô lượng là tâm tỏa cùng khắp, là chỗ trú của bậc Thánh (Tứ
phạm trú). Đó là Từ, Bi, Hỷ, và Xả. Từ là vui khi thấy người khác được
vui, nỗ lực làm cho người khác được vui. Bi là buồn khổ khi thấy người
khác buồn khổ, nỗ lực làm cho người khác khỏi buồn khổ. Hỷ là vui mừng
khi nghĩ biết rằng vô lượng chúng sanh được an vui, không còn khổ não.
Xả là xả bỏ, không chấp trước ta, người; xem tất cả đều bình đẳng: Này
Rahula, hãy tu tập sự tu tập về lòng từ. Này Rahula, do sự tu tập về
lòng từ, cái gì thuộc về sân tâm sẽ được trừ diệt. Này Rahula, hãy tu
tập sự tu tập về lòng bi. Này Rahula, do sự tu tập về lòng bi, cái gì
thuộc hại tâm sẽ được trừ diệt. Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về lòng
hỷ. Này Rahula, do sự tu tập về lòng hỷ, cái gì thuộc bất lạc sẽ được
trừ diệt. Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về lòng xả. Này Rahula, do sự
tu tập về lòng xả, cái gì thuộc hận tâm sẽ được trừ diệt. (Kinh Chánh Niệm, Trung bộ kinh).
Phát xuất
từ cái tâm được phát triển, được tu tập, đã trở nên rộng lớn, triển khai
đến khắp nơi, phổ biến, vô ngại, mọi người đều có thể đạt đến cái tâm
đại từ bi thương tưởng đến hết thảy chúng sanh, tinh ròng, chân thật
như tình mẹ đối với đứa con độc nhất, không dấu vết hận thù: Như một
người mẹ suốt đời chăm sóc đứa con, đứa con độc nhất. Đối với mọi chúng
sanh cũng thế, tâm mình phải quảng đại, lòng từ bi với toàn cõi thế
gian quảng đại khởi lên từ tâm mình bên trên, bên dưới và xuyên suốt
không ngăn ngại, không vì thù hận và ác tâm. (Kinh Từ bi)
Hòa bình
là hòa hợp, an bình, an tịnh. Tâm an thì thế giới an. Như mặt nước tĩnh
lặng, không dậy sóng, tâm an bình thì không có nóng giận, chân thật,
nhu hòa. Đức Phật dạy:
Chớ nói lời ác độc
Nói ác, bị nói lại.
Khổ thay lời phẫn nộ
Đao trượng phải chạm người. (Pháp Cú 133) và
Chớ để lòng phẫn nộ nhiếp phục, chi phối ông; Chớ để lòng sân hận đối trị với sân hận. (Tương ưng I, 305)
Sự phẫn
nộ, lời nói ác độc đưa đến hận thù, bạo động, gây hại người và khiến
người hại mình. Nguồn gốc của chiến tranh là tham, sân, si. Loại trừ tam
độc này bằng vô tham, vô sân, vô si, tạo thiện nghiệp về thân, khẩu,
ý, tức là tạo hòa bình, ngăn chiến tranh:
Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy. (Pháp Cú 223)
Đấy là giải pháp kiến tạo hòa bình bao dung nhất, hiền thiện nhất, hữu hiệu nhất, như là một định luật muôn đời:
Hận thù diệt hận thù, đời này không có được. Không hận diệt hận thù là định luật ngàn thu. (Pháp Cú 195)
Như đã
nói, phẫn nộ đưa đến hận thù, bạo hành, chiến tranh. Bạo hành, chiến
tranh đưa đến chết chóc, sát sanh. Sát sanh là giới cấm thứ nhất của
người con Phật và lẽ ra phải là giới cấm của tất cả mọi người. Ai cũng
sợ bị hại, bị giết, từ đó suy ra không nên hại ai, giết ai:
Mọi người sợ hình phạt, mọi người sợ tử vong, lấy mình làm ví dụ. Không giết, không bảo giết. (Pháp Cú 129)
Sát sanh là nghiệp nặng nhất, tạo nhân duyên, tạo quả báo xấu nhất, đó là luật nhân quả, không thể nào tránh được:
Này
các Tỳ-kheo, nếu sát sinh được thực hiện, được luyện tập, được làm cho
sung mãn thì sẽ đưa đến địa ngục, sẽ đưa đến bàng sinh, sẽ đưa đến cõi
ngạ quỷ (Tăng chi III, A.230).
Này
gia chủ, sát sanh, do duyên sát sanh tạo ra sợ hãi, hận thù ngay trong
hiện tại, tạo ra sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ ưu
khổ (Tăng chi III, B176).
Chúng sanh cầu an lạc
Ai dùng trượng hại người
Tìm an lạc cho mình
Đời sau không được lạc. (Pháp Cú 131)
Rõ ràng là, không sát sanh là tạo an lạc cho chúng sanh, nhất là tạo an lạc cho chính mình.
Này các
Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh. Này các Tỳ-kheo,
Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, đem sự không sợ hãi cho vô lượng chúng
sinh, đem sự không hận thù cho vô lượng chúng sinh. Sau khi cho vô lượng
chúng sinh sự không sợ hãi, sự không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được
san sẻ vô lượng sự không sợ hãi, không hận thù, không hại (Tăng chi III,
A.229).
Qua một số
trích dẫn trên, ta thấy bốn tâm vô lượng của Phật giáo đã bao trùm ý
nghĩa kiến tạo hòa bình, trước hết là từ nội tâm của mỗi người. Sự kiến
tạo hòa bình như thế mang các yếu tố: vô ngã, duyên sinh, từ bi, diệt
trừ thù hận, bất hại, bất bạo động, nhu hòa, không tranh đua thắng bại…
Thế giới
vẫn mãi khổ đau vì chiến tranh bạo lực… Nguyên nhân của chiến tranh
chính là tam độc tham, sân, si. Vì tham mà có tranh giành; vì sân mà có
oán hận, vì si mà làm ác, nghĩ ác, không nghĩ đến hậu quả tai hại… Chúng
ta có thể đề nghị một số hoạt động dựa theo giáo lý Phật giáo để duy
trì hòa bình trên thế giới:
1. Truyền
bá tư tưởng Phật học: về vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệ (qua các
trường học, các buổi thuyết pháp, hội nghị, hội thảo quốc tế…).
2. Thực
hiện bố thí, san lấp khoảng cách giàu nghèo, sự khác biệt về màu da, tôn
giáo… (các hoạt động từ thiện cấp hội đoàn địa phương, cấp quốc gia,
cấp quốc tế…). Đây là áp dụng giáo lý bất nhị, bình đẳng trong tinh thần
lục hòa, tứ nhiếp.
3. Phát triển mạnh các phong trào chống chiến tranh, chống kỳ thị, bảo vệ môi trường, xây dựng hòa bình.
4. Tăng
cường hợp tác quốc tế bảo vệ hòa bình. Các nhân vật Phật giáo tích cực
tham gia các phong trào vì hòa bình, an ninh cho toàn thế giới; thậm chí
tham gia chính quyền để chuyên hoạt động vì mục đích hòa bình.
5. Ủng hộ,
tham gia các công trình biểu tượng hòa bình; ví dụ giải Nobel về Hòa
bình, chuông Hòa bình của Nhật Bản tại New York, vườn Hòa bình Thế giới
ở Bắc Dakota, giải Hòa bình Gandhi…
Phật giáo
là tôn giáo hiền thiện. Chưa bao giờ Phật giáo bị lợi dụng danh nghĩa
trong các cuộc chiến tranh xâm lược, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Đạo
Phật sẵn sàng dung nạp các ý nghĩa hiền thiện của các tín ngưỡng, tôn
giáo, triết học không phải Phật giáo (thí dụ: nhiều chùa chấp nhận thờ
Khổng Tử, Tề thiên Đại thánh, Quan Công; không cấm đoán tín đồ lập gia
đình với những người không phải Phật giáo…).
Thiết
tưởng, giáo lý Phật giáo một khi được áp dụng sẽ củng cố, xây dựng một
nền Hòa bình Thế giới lâu dài, mang lại hạnh phúc, an ổn cho loài người.
Thích Giác Toàn(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo)