Kinh Pháp
Cú có câu nói phản ánh sự chứng nghiệm rốt ráo của đức Phật về tâm – sự
diễn biến phức tạp của tâm trước lúc giác ngộ và sự an tịnh tuyệt đối
của tâm thức sau khi Ngài ngộ đạo – nhờ quá trình rèn luyện và điều phục
tự nội: Khó nắm giữ, khinh động, Theo các dục quay cuồng; Lành thay
điều phục tâm, Tâm điều, an lạc đến.(1)
Tâm (citta) hay
đôi khi cũng gọi là ý (mana) hay thức (vinnnàna) là vấn đề khó lãnh hội
nhưng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người. Nó có
thể làm cho con người rơi vào căng thẳng bất an hoặc khiến cho người ấy
trở nên thanh thản an lạc. Sở dĩ như thế là vì tâm là chủ thể tạo tác,
đóng vai trò quan trọng đối với vấn đề khổ đau hay hạnh phúc của con
người(2); nhưng tâm rất khó thấy, tế nhị, luôn hoảng hốt, dao động,
khó nắm giữ, khó phòng hộ, khó nhiếp phục, quay cuồng theo các dục,(3)
thay đổi liên tục, nhảy nhót lăng xăng như vượn chuyền cành(4). Nó
thường xuyên bị kích động bởi tám ngọn gió thế gian là lợi dưỡng và
không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, khen và chê, vui và buồn,
khiến con người phải quay cuồng trong thế giới tham, sân, si đầy phiền
toái khổ đau(5). Tâm quan trọng và khó nắm bắt như vậy nên ai nhiếp phục
được tâm, làm chủ được nó thì người ấy được thanh thản an lạc.
|
|
Nhưng tâm
là gì và làm thế nào để điều phục tâm? Theo lời Phật thì trước hết đó
là các ý tưởng (thuật ngữ đạo Phật gọi là tầm-vitakka) hay lối suy nghĩ
(Phật học gọi là tư duy-sankappa) thiện hoặc bất thiện dấy khởi và vận
hành trong tâm thức; và sự nhận ra tính chất thiện hoặc bất thiện của
các ý tưởng hay suy tư ấy để nỗ lực uốn nắn, làm trong sạch dòng tâm
thức. Trong phương pháp huấn luyện của Ngài, Đức Phật phân biệt rất rõ
về hai hình thái tâm thức, thiện và bất thiện. Những ý tưởng hay suy
nghĩ nào không đi kèm với tham dục, sân hận và não hại thì gọi là tâm
thức thiện. Trái lại, những ý tưởng hay suy tư nào bị kích động và lôi
kéo bởi dục vọng, sân hận và não hại thì gọi là tâm thức bất thiện. Hình
thái tâm thức thứ nhất được gọi bằng các từ ngữ như ly dục
tầm (nekkhammavitakka), vô sân tầm (abyàpàdavitakka), bất hại
tầm (avihimsàvitakka) hay ly dục tư duy (nekkhammasankappa), vô sân tư
duy (abyàpàdasankappa), bất hại tư duy (avihimsàsankappa). Đây là
dòng tâm thức hiền thiện, trong sáng, thanh tịnh, mang lại cho
con người những cảm nghiệm thanh thoát an lạc. Hình thái thứ hai
được gọi là dục tầm (kàmavitakka), sân tầm (byàpàdavitakka), hại
tầm (vihimsavitakka) hay dục tư duy (kàmasankappa), sân tư
duy(byàpàdasankappa), hại tư duy (vihimsàsankappa). Loại tâm thức này
được xem là xấu ác, mê loạn, bất tịnh, đưa đến những cảm giác u uất nặng
nề và nhiều hệ lụy khổ đau(6). Như vậy, tâm có hai dạng thức cơ bản là
thiện và bất thiện; cho nên, vấn đề điều tâm nằm ở chỗ nhận diện các ý
tưởng (tầm) và suy nghĩ (tư duy), xem chúng là thiện hay bất thiện để
chấp nhận hoặc từ bỏ. Nếu các ý tưởng hay suy tư mang tính chất ly dục,
vô sân, bất hại thì đấy là dòng tâm thức thiện đang hoạt động và hành
giả chỉ cần tỉnh giác theo dõi với tâm hoan hỷ mà không cần đến bất kỳ
sự can thiệp nào. Nhưng nếu các ý tưởng hay suy tư mang bóng dáng của
tham dục, sân hận và não hại thì đấy là dòng tâm thức bất thiện đang
hành hoạt và lúc bấy giờ hành giả cần nỗ lực ngăn chặn và loại bỏ dòng
tâm thức ấy. Đây là bước đi căn bản của quá trình điều phục và thanh
lọc tâm, khiến cho tâm dần dần trở nên trong sáng, an trú, an tịnh,
định tĩnh, nhất tâm(7). Trong giáo lý đạo Phật, sự nhận diện và nỗ lực
điều chỉnh tâm thức theo chiều hướng như vậy được gọi là chánh tinh
tấn (sammà-viriya) hay kỷ luật nội tâm (ajjhatta-cetosìla). Ý nghĩa của
pháp môn này được diễn tả như sau:
“Vị Tỷ-kheo
với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không
cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm.
Với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh ra được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm.
Với mục
đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay làm cho sanh khởi,
khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm.
Với mục
đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù
mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi
lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm”(8).
Nhìn
chung, tâm là cả một thế giới rắc rối phức tạp, khó nhận diện, khó nắm
bắt, vận hành tùy tiện, không tuân theo một quy luật nào. Nó như một đại
dương bao la và sâu thẳm vốn chứa đựng nhiều tiềm năng lợi lạc nhưng
với bề mặt thường xuyên nổi sóng bởi tác động của các loại cuồng phong,
Phật học gọi là tám ngọn gió của thế gian: lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
danh vọng, không danh vọng, khen – chê, vui – buồn. Cái biển tâm thức ấy
không ngừng đưa đẩy con người trôi dạt chỗ này chỗ kia trong cái vòng
xoáy mù mịt không lối thoát của nó, cho đến khi người ta nhận ra tính
chất phức tạp đầy phiền lụy của nó và bắt đầu có sự xem xét cân nhắc về
các hướng vận hành của nó. Phải thật sự tỉnh táo và kiên trì xem xét mới
thấy được đường đi lối về rất bất thường của tâm và nhận ra tính chất
sự vận hành của nó.
Đây là công việc đầu tiên khá khó nhọc trong quá trình đào luyện tâm,
tức sự chú tâm nhận diện sự sinh khởi, vận hành và tính chất thiện hay
bất thiện của tâm thức. Nhận diện được tính chất thiện hay bất thiện của
tâm rồi thì việc tiếp theo là nỗ lực làm trong sạch nội tâm, tức tỏ
thái độ chấp nhận hay từ bỏ dòng tâm thức ấy, hoặc như đức Phật đã từng
dạy là “nên hành trì hay không nên hành trì”(9). Những ý tưởng hay tư
duy nào sinh khởi và vận hành gắn liền với tham dục, sân hận hoặc não
hại thì cần phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi mà trừ bỏ. Những ý tưởng hay tư
duy nào sinh khởi và vận hành không đi kèm với tham dục, sân hận hoặc
não hại thì nên hoan hỷ đón nhận và tiếp tục nuôi dưỡng. Một khi tâm đã
được chú ý cân nhắc và uốn nắn nhiều lần theo chiều hướng “giảm thiểu
điều ác, tăng trưởng điều lành” thì bấy giờ tâm trở nên trong sáng vắng
lặng khiến cảm nghiệm an lạc bắt đầu phát sinh và lớn dần theo từng nhịp
điệu vận hành hiền thiện và an tịnh của tâm thức. Những lời dạy sau đây
của Đức Phật nói rõ phương pháp điều tâm hết sức căn bản của Ngài, một
kinh nghiệm thực tập tuyệt đối hữu ích cho những ai bước đầu quan tâm
đến hạnh phúc tâm linh thông qua việc rèn luyện tâm thức(10):
“Chư Tỷ-kheo,
trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và còn là Bồ-tát, Ta
suy nghĩ như sau: ‘Ta sống suy tư và chia hai suy tầm.’ Chư Tỷ-kheo,
phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ
nhất. Phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, bất hại tầm nào, Ta phân
thành phần thứ hai. Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: ‘Dục tầm này khởi lên nơi
Ta, dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai,
diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn.’ Chư
Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: ‘Dục tầm này đưa đến tự hại.’ dục tầm được biến
mất. Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: ‘Dục tầm đưa đến hại người,’ dục tầm
được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: ‘Dục tầm đưa đến hại cả hai,’
dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: ‘Dục tầm diệt trí
tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn,’ dục tầm được biến
mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm.
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
sân tầm khởi lên… hại tầm khởi lên, Ta tuệ tri: ‘Hại tầm này khởi lên
nơi Ta, hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả
hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn.’ Chư
Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: ‘Hại tầm này đưa đến tự hại’… ‘Hại tầm diệt trí
tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn,’ hại tầm biến mất.
Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm. Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh
hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ- kheo suy tư, quán sát nhiều về
dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm
vị ấy có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán
sát nhiều về sân tầm… về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đã đặt
nặng về hại tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm. Chư Tỷ-kheo,
ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một
người mục đồng chăn giữ bò, cầm roi đánh các con bò bên này, đánh bên
kia, chế ngự chúng, ngăn chặn chúng. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì người
mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập
hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ
liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi
ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri:
‘Ly dục
tầm này khởi lên nơi Ta và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không
đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không
dự phần vào phiền não, đưa đến Niết-bàn.’ Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta
suy tư, quán sát về ly dục tầm, không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ
hãi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát về ly dục tầm, không
phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi.
Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát về ly dục tầm,
không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và Ta suy tư, quán sát quá
lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động; khi
tâm bị dao động thì tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội
thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành
định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động. Chư Tỷ-kheo, trong
khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi vô sân tầm
khởi lên… bất hại tầm khởi lên, Ta tuệ tri: ‘Bất hại tầm này khởi lên
nơi Ta và bất hại tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người,
không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền
não, đưa đến Niết-bàn.’ Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm… không phải từ nhân
duyên ấy mà Ta thấy sợ hãi. Và nếu Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân Ta
có thể mệt mỏi; khi thân Ta mệt mỏi thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao
động, tâm rất khó được định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được
nhất tâm, khiến thành định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động.
Chư Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vấn đề gì thời
tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy. Chư Tỷ- kheo, nếu Tỷ-kheo suy
tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm.
Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục
tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm… nếu
Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm. Khi
tâm đã đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về bất
hại tầm. Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng hè, khi tất cả lúa gạo đã
cất vào kho thóc, một người mục đồng chăn giữ các con bò. Khi người mục
đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc
cần phải làm, và người ấy nghĩ: ‘Đây là những con bò’. Chư Tỷ-kheo, cũng
vậy ở đây, có việc cần phải làm, và Ta nghĩ: ‘Đây là những pháp’”.
Chú thích:
Tác giả: Anh Tâm/Nguồn: Tạp chí Văn hóa Phật giáo
1 Pháp Cú, kệ số 35.
2 Pháp Cú, kệ số 1-2.
3 Pháp Cú, kệ số 33, 35, 36.
4 Kinh Hạng người ít nghe, Tương Ưng Bộ.
5 Kinh Tùy chuyển thế giới, Tăng Chi Bộ.
6 Kinh Song tầm, Kinh Nên hành trì, không nên hành trì, Trung Bộ.
7 Kinh An trú tầm, Trung Bộ.
8 Kinh Đạo lộ, Tăng Chi Bộ.
9 Kinh Nên hành trì, không nên hành trì, Trung Bộ.
10 Kinh Song tầm, Trung Bộ.