Đạo Phật và Phật tử trả lời thế nào câu nói thời
danh: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(1)? Theo tôi, Phật
đã từng chỉ dẫn cho chúng ta cách trả lời:
Kinh
Phạm Võng (Brahmajàla) kể lại câu chuyện thầy ngoại đạo Suppiyo công
kích mạnh mẽ Phật, Pháp, Tăng còn học trò của Suppiyo là Brahmadath thì
trái lại, tán dương Phật, Pháp, Tăng hết lời. Tăng chúng đem chuyện này
hỏi Phật, Phật khuyên:
“Khi có ai
hủy báng công kích Phật, Pháp, Tăng mà các người sanh lòng phiền muộn,
công phẫn, tức tối thì sẽ có hại cho chính các người. Bởi vì làm như
vậy, các người sẽ không thể biết được lời nói của kẻ ấy là đúng hay sai.
Trái lại, các người phải bình tĩnh, phải nói rõ những điều không đúng
sự thật là không đúng sự thật. Các người nói: Như thế này, điểm này
không đúng sự thật, như thế này, điểm này không chính xác, việc này
không có giữa chúng tôi, việc này không xảy ra giữa chúng tôi.”
Ngược
lại, Phật nói tiếp
“Nếu
có ai tán thán, ca ngợi Phật, Pháp, Tăng các người cũng không nên khoái
trá thích thú, bởi vì làm như vậy có hại cho các người. Các người phải
bình tĩnh suy xét những điểm nào đúng, những điểm nào không đúng. Đối
với những điểm đúng, các người sẽ nói: như thế này, điểm này đúng sự
thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc
này đã xảy ra giữa chúng tôi.” (2)
Trước
mọi sự khen chê, thái độ của đạo Phật và Phật tử phải đều như vậy: Thản
nhiên và bình tĩnh suy xét. Đối với câu: “Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân.” Phật tử nên nghiên cứu xem: Thứ nhất, Mác nói tôn
giáo ở đây là nói mọi tôn giáo, không phân biệt hay là ám chỉ một tôn
giáo đặc biệt nào. Nếu Mác nói kẻ khác thì việc gì Phật tử ta chạnh
lòng? Thứ hai, nếu thật sự Mác không muốn ám chỉ Phật giáo, thì Phật tử
cũng nên bình tĩnh suy xét xem, lời buộc tội đó có phù hợp hay không với
đạo Phật?
■ Về vấn đề thứ nhất, qua nghiên cứu các tác phẩm
của Mác và Anghen, chúng ta có thể khẳng định các vị đó, khi nói tới
tôn giáo, thì các vị muốn nói tới nhất thần giáo, chủ yếu là Thiên Chúa
giáo. Tuy rằng trong cuốn “Chống During”, Anghen có nói tới
Véda giáo nhưng chỉ là nói qua để so sánh, nhưng mọi người đều biết Phật
giáo bác bỏ dứt khoát “Thánh điển” Véda và đối lập với Bà-la-môn giáo,
tôn thờ “Thánh điển” Véda.
Trong cuốn “Lútvích Fơbách và sự
Cáo chung của nền Triết học Cổ điển Đức” Anghen cũng có đề cập tới
các đa thần giáo Hy Lạp và La Mã, và tới Do Thái giáo nhưng ai cũng thấy
rõ trọng tâm phê phán của Mác và Anghen (cũng như hầu hết các tư tưởng
tiến bộ ở châu Âu thời bấy giờ, trong đó có Fơbách) là Thiên Chúa giáo,
như là trở ngại chính cho mọi cuộc vận động dân chủ hóa bộ máy nhà nước,
như là tấm mộc bao che cho chế độ quân chủ chuyên chế quân phiệt (thí
dụ chế độ quân chủ ở Phổ) như là món ăn tinh thần nguy hiểm đầu độc dân
chúng.(3)
Mác và Anghen từ đó rỏ ra vô cùng hào hứng khi
đọc cuốn “Bản chất Thiên Chúa giáo ” của Fơbách (năm 1841) là
bởi vì trong cuốn sách, Fơbách đã khẳng định người là cha đẻ ra tôn
giáo, ra Thượng Đế, chứ không phải Thượng Đế, tôn giáo sanh ra con
người.
Phát triển quan điểm của Fơbách, Mác viết như
sau: “Phê bình tôn giáo đi tới kết luận rằng con người là vật tối
cao đối với con người, do đó đi tới nhiệm vụ tuyệt đối là lật đổ tất cả
mọi tình trạng, trong đó con người bị coi là hèn hạ, bị nô dịch, bị bỏ
rơi, bị khinh rẻ.” (Mác: “Phê phán triết học Pháp quyền của Hegel”,
Lời mở đầu).
Tất cả những điều Fơbách và Các Mác nói trên đây
đều nhằm vào Thiên Chúa giáo, chứ không phải là tôn giáo nói chung, lại
càng không phải là Phật giáo.
Thí dụ trong cuốn Lútvích Fơbách,
Anghen viết “Tôn giáo phổ biến mới ấy tức là đạo Thiên Chúa, đã im
hơi lặng tiếng mà ra đời, nó là sự hòa hợp của nền thần học phương Đông
đã được phổ biến hóa, nhất là thần học Do Thái, với nền triết học Hy Lạp
đã được dung tục hóa, nhất là triết học khắc kỷ”.
Sau
đó, Anghen nói đến việc đạo Thiên Chúa biến thành một tôn giáo nhà nước
dưới chế độ phong kiến, và khi giai cấp tư sản xuất hiện thì Tin Lành
giáo cũng xuất hiện, đối lập với đạo Thiên Chúa phong kiến (4). Hình như
vào thời Mác và Anghen, các nhà sử học tôn giáo chưa có công trình
nghiên cứu gì đáng kể về ảnh hưởng của Phật giáo tới các hệ tư tưởng Hi
Lạp và La Mã, tới Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo .
Tuy
rằng nước Đức là nước châu Âu phiên dịch và xuất bản sớm nhất các tác
phẩm thần học Ấn Độ, và các triết gia Đức có tên tuổi như Kant,
Nietzche, Schopenhauer, Hegel đều có trích dẫn các tác phẩm đó, nhưng
điều rất lạ là Mác và Anghen không quan tâm tới vấn đề này. Tôi nghĩ
rằng, Mác và Anghen đều là những người rất thực tế. Họ xem trở ngại
chính và lớn nhất cho sự tiến bộ của châu Âu vào cuối thế kỷ XIX (cụ thể
là ở Đức) chính là đạo Thiên Chúa, và đối với đạo Thiên Chúa thì cuốn
“Bản chất Đạo Thiên Chúa” của Fơbách” (1841) đã là một lời phê phán
triệt để và dứt khoát rồi. Mác và Anghen không muốn trở lại vấn đề này
nữa.
Quan niệm của Mác-Anghen về tôn giáo:
Từ
tiền đề nổi tiếng của Fơbách: chính người sáng tạo ra tôn giáo, sáng tạo
ra Thượng Đế, chứ không phải tôn giáo và Thượng Đế sáng tạo ra người,
Mác và Anghen kết luận rằng tôn giáo là “cái ý thức đảo ngược về thế
giới” bởi vì bản thân nhà nước và xã hội (thuộc các chế độ tiền xã
hội chủ nghĩa) cùng là thế giới đảo ngược, một thế giới xây dựng trên
chế độ tư hữu, trên bóc lột và áp bức đối với đại đa số người lao động
nghèo khổ, một thế giới đau khổ, và vì đau khổ cho nên cần tới sự an ủi
của tôn giáo.
Thiên Chúa giáo và cả Tin Lành giáo cũng vậy –
quy tất cả mọi bất hạnh của loài Người vào tội của tổ tiên người là Adam
và Evà đã làm trái ý Chúa, ăn nhằm phải trái cây hiểu biết, phân biệt
Thiện Ác. Cả hai tôn giáo đó đều theo thuyết Định mệnh luận: Một người
có tu chứng hay không sẽ lên Thiên đàng hay sa địa ngục, đều là do định
mệnh và định mệnh là do được Chúa thương xót hay bị Chúa ghét bỏ.
Mác
và Anghen sở dĩ phê phán tôn giáo, xem tôn giáo như là thuốc phiện,
chính là vì tôn giáo khẳng định sự bất lực của con người trước sức mạnh
thiên nhiên và xã hội. Đối với sức mạnh này, đáng lẽ người ta phải đoàn
kết nhau lại, vận dụng mọi trí năng để mà chế ngự thuần phục, bắt chúng
phải ngoan ngoãn phục vụ con người.
Thay vì làm như vậy, tôn
giáo lại an ủi người với thuyết Định mệnh, ru ngủ người bằng ảo ảnh
Thiên đàng hoặc đe dọa người bằng ảo ảnh địa ngục. Chính vì tôn giáo
cống hiến cho người một hạnh phúc hư ảo, cho nên chủ nghĩa Mác
phê phán tôn giáo, để hướng người đi tìm một hạnh phúc thực tại
ngay ở thế giới này, ngay ở trong xã hội này chứ không phải ở đâu xa
lạ.
Và chủ nghĩa Mác khẳng định con người có đầy đủ trí năng để
làm việc đó. Muốn vậy, con người phải hiểu biết, nắm vững, vận dụng các
quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, để một mặt sản xuất ra của cải vật
chất dồi dào; mặt khác, xây dựng một xã hội Cộng sản lý tưởng, trong đó
mọi của cải vật chất và tinh thần, không bị một thiểu số chiếm đoạt mà
sẽ được phân phối theo nguyên tắc “hưởng theo nhu cầu”.
Câu
thời danh của Mác “hiểu biết thế giới, cải tạo thế giới” đã tóm
tắt một cách thiên tài mục đích của cuộc sống con người là: “hiểu biết
thế giới (cả hai mặt tự nhiên và xã hội) và đấu tranh cải tạo thế giới”
để cho thế giới phục vụ đầy đủ nhất nhu cầu hạnh phúc của con người. Đó
là giá trị nhân bản của chủ nghĩa Mác-Lenin. Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin
trong lý tưởng của những người sáng lập. Còn trong thực tế thì tình hình
phức tạp hơn.
■ Bây giờ tôi nói sang vấn đề thứ hai. Tuy Mác và
Anghen, khi nói tới tôn giáo nói chung, các vị không ám chỉ Phật giáo,
nhưng Phật giáo cũng nên tự phản tỉnh xem Phật giáo có làm mê muội, bạc
nhược quần chúng không, Phật giáo có làm giảm giá trị con người hay
không, Phật giáo có đánh lừa quần chúng bằng một hạnh phúc hư ảo hay
không?
Để giải quyết tốt vấn đề này, và giải quyết nó
một cách dứt khoát, tót nhất là bỏ qua phần trung gian của các công
trình nghiên cứu đạo Phật ở Tây Phương, một số công trình này (tôi không
nói tất cả) đã trình bày đạo Phật theo một hình ảnh, khuôn sáo rất méo
mó, tốt nhất là tìm đến những lời Phật dạy, tìm hiểu mục đích cứu cánh
của đạo Phật, tìm hiểu căn nguyên của nỗi khổ ở đời và các phép tu của
đạo Phật nhằm diệt trừ căn nguyên đó. Trên các phương diện ấy của đạo
Phật, chúng ta hãy nghiên cứu, suy xét một cách khách quan và vô tư.
1/ Mục đích của đạo Phật là giác ngộ,
tức là hiểu biết hoàn toàn. Nếu một đạo chỉ là công cụ mê hoặc thì không
đặt cho mình một mục đích như vậy. Như mọi người đều biết, Phật
(Buddha) nghĩa là người giác ngộ (l’éveillé), chứ không phải là Thượng
Đế, và mọi chúng sanh, mọi người vì có sẵn mầm giác ngộ ở trong mình
(Phật tính), cho nên đều sẽ thành Phật, miễn là biết đi theo con đường
mà Phật vạch ra.
2/ Nguồn gốc của mọi đau
khổ ở đời, theo đạo Phật, là mê lầm, vô minh, tức là không hiểu
biết hay hiểu biết sai lầm. Tham, sân, si là ba phiền não cơ
bản, nhưng si (tức là vô minh) là phiền não cơ bản nhất, vì si mê mà
sanh ra tham lam, tham lam mà không được, hoặc gặp điều trái ý, đâm ra
giận dữ (sân). Đạo Phật đặt cho mình mục đích là phá mê, xóa bỏ mọi mê
lầm, cho nên không thể là đạo mê hoặc quần chúng.
3/ Trong số các phép tu của đạo Phật, người ta đề
cao thái độ tỉnh thức, cảnh giác, có ý thức đối với tất cả mọi
hành tướng của thân và tâm. Phép đếm tâm và theo dõi hơi thở trong
Thiền học chính là như vậy. Thở là công việc mọi người làm không ngừng,
một cách tự phát, không có ý thức. Bây giờ, người tu phải tỉnh táo, có ý
thức về từng hơi thở vào, hơi thở ra, về đường hơi vận động ở trong
thân mình. Tư tưởng hoàn toàn tập trung vào hơi thở, không nghĩ một
chuyện khác. Người luyện phải ngồi xép bằng tròn, lưng thẳng, đầu thẳng,
mắt ngó đằng trước. Đó là thái độ ngồi vững chãi nhất, nhờ chân xếp
bằng tròn, nên máu dồn lên đầu, chống tệ buồn ngủ. Phép ngồi Thiền giúp
cho sự định tâm và mở mang trí tuệ.
Nhưng tu Thiền không
phải chỉ là ngồi Thiền. Tu Thiền là có ý thức đầy đủ về tất cả mọi hành
động của thân và tâm: đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, ăn biết mình
ăn v.v... người tu sống hoàn toàn trong thực tại, trong hành động,
trong công việc của mình. Đó là sự bảo đảm tốt nhất cho tính hoàn thiện
và sự thành công của mỗi một cử chỉ và hành vi của chúng ta. Đối với tất
cả những gì xảy ra trong nội tâm, chúng ta cũng phải đều cảnh giác,
tỉnh táo như vậy. Với thái độ tỉnh táo, khách quan, chúng ta phải theo
dõi dòng ý niệm nổi lên trên bình diện ý thức, và “nhận mặt” từng ý niệm
một. Ý niệm tham thì biết là tham, ý niệm giận thì biết là giận, kiêu
thì biết là kiêu, nghi biết là nghi v.v... Ở đây cũng là phân tâm học,
nhưng là tự mình phân tâm mình, chủ thể và khách thể là một, không có
một bác sĩ tâm thần nào đứng cạnh để theo dõi quan sát hộ cho mình.
Một
khi tư tưởng đã khá tập trung rồi, người tu bèn dùng tư tưởng tập trung
đó để “quán chiếu” mọi sự, mọi vật trong thân tâm cũng như ở ngoại giới,
để hiểu biết sự vật đó như nó tồn tại, chứ không phải hiểu biết nó dưới
dạng hư ảo đảo ngược.
Có thể nói, trong các phép tu của đạo
Phật, không có cái gì bí ẩn và mê hoặc cả.
Khi
bàn tới nguyên nhân của sự khổ ở đời, Phật giảng lý mười hai nhân duyên,
tức là giảng lý nhân quả. Vì bản thân mình mê lầm, cho nên bản thân
mình có các hành động bất thiện (nghiệp) và cũng bản thân mình chịu khổ.
Đó là sự phân tích khoa học, không có gì gọi là thần bí khó
hiểu cả. Nói một cách khác, đó là quyết định luận
(déterminisme) tương tự như Anghen viết trong chương bàn về Tự do và Tất
yếu (chống Duhring), nhưng cái mới của đạo Phật là thừa nhận quyết định
luận không những trong phạm vi tự nhiên, xã hội, mà cả trong cuộc sống
cá nhân nữa.
Trong Bát chánh đạo,
tức tám Pháp tu chân chánh, chúng ta cũng không thấy một phép
tu nào mang màu sắc thần bí, tám phép tu đó là:
1.
Chánh tri kiến: Tức có sự thấy biết đúng đắn về mọi vấn đề của
cuộc sống.
2. Chánh tư duy: Tức suy nghĩ đúng đắn.
3.
Chánh ngữ: Tức nói năng đúng đắn.
4. Chánh
nghiệp: Tức hành động đúng đắn.
5. Chánh mạng:
Tức làm ăn sinh sống đúng đắn.
6. Chánh tinh tấn:
Tức siêng năng đúng đắn, bỏ điều ác, làm điều lành.
7. Chánh
niệm: Nghĩ nhớ, chú ý đúng đắn vào điều hay lẽ phải.
8.
Chánh định: Tức tập trung tư tưởng đúng đắn.
Đây
không phải là một bài chuyên giải thích về “Bát chánh đạo” cho nên ở đây
chỉ có thể giới thiệu sơ lược. Nhưng dù sơ lược, chúng ta cũng thấy rõ,
tu theo Bát chánh đạo, không có chút gì là mê tín, thần bí, không có
chuyện lễ bái, cầu trời khấn Phật.
Thất giác chi cũng gọi
là bảy yếu tố của sự giác ngộ. Bảy yếu tố của sự giác ngộ, theo thứ tự
là:
1. Niệm: Tức là nghĩ nhớ đúng đắn.
2.
Trạch pháp: Tức là nghiên cứu khảo sát, suy xét nhận thức đúng
đắn.
3. Tinh tấn: Tức là siêng năng đúng đắn.
4.
Hỷ: Tức là vui vẻ.
5. Khinh an: Tức là
thân tâm nhẹ nhàng, thoải mái.
6. Định: Tức là tập
trung tư tưởng đúng đắn.
7. Xả: Tức là giữ tâm hồn
bình thản, không bị xao xuyến, kích động dù gặp cảnh thuận hay cảnh
nghịch.
Người tu đạo Phật, muốn đạt tới mục đích cứu cánh
là giác ngộ, thì phải bồi dưỡng, phát triển bảy yếu tố nói trên của sự
giác ngộ. Như chúng ta thấy, không một yếu tố nào mang tính chất thần
bí. Ở đây, tôi muốn giải thích thêm về yếu tố thứ hai, tức là yếu tố Trạch
pháp, Phật tử phải luôn luôn rèn luyện trí năng khảo sát, nghiên
cứu, suy xét đối với mọi sự, mọi vật, kể cả đối với kinh Phật và những
lời Phật dạy.
Một lần, Phật nói với các đệ tử:
“Cũng
như người có trí thử vàng, xem có đúng là vàng thật hay giả, bằng cách
đốt lên, cắt ra, lấy đá xát vào, cũng như vậy, các người chỉ nên chấp
nhận lời nói của Ta sau khi xem xét kỹ, chứ không nên vì lý do kính nể
và sùng bái Ta” (Jnàsara Sanmuccaya, trang 31). Đấy, Phật khuyên
Phật tử nên có một thái độ phân tích khoa học như vậy đối với kinh Phật
và lời Phật dạy, vì vậy mà Phật giáo thường được các học giả Tây phương
mệnh danh là đạo giáo của lý trí.
Đối với Phật như vậy,
huống hồ là đối với Tăng. Đạo Phật bác bỏ thần quyền, đồng thời cũng bác
bỏ cả giáo quyền. Khi Phật nhập diệt, Ngài không để lại một giáo chủ
nào thay Ngài. Ngài chỉ dặn lại người đệ tử thân cận nhất là A Nan như
sau:
“Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy
tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì khác. Dùng Chánh Pháp làm
ngọn đèn, dùng chánh Pháp làm nơi nương tựa, chớ nương tựa một gì khác
v.v... (Kinh Đại Bát Niết Bàn–Trường Bộ kinh–Digha Nikaya, bản dịch
của Hòa Thượng Thích Minh Châu, trang 101).
Nên
hiểu rằng, đó là lời dặn chung cho toàn thể Phật giáo đồ lúc bấy giờ và
mãi mãi về sau này nữa. Phật luôn luôn căn dặn rằng: Giải thoát, giác
ngộ là vấn đề cá nhân của mỗi người. Không ai có thể tu chứng cho ai và
giác ngộ thay ai cả. Mỗi người đều nên dựa chủ yếu vào sức mình và Chánh
Pháp của Phật để quyết định đường lối tu hành thích hợp nhất với mình.
Tăng
sĩ chỉ là ông thầy tốt, người bạn tốt. Giá trị nhân bản lớn của đạo
Phật chính là ở chỗ nó xác định tính bình đẳng của mọi người
trước chân lý, khả năng của mọi người tự tu tập và giác ngộ, xác định
thái độ kiên quyết bác bỏ mọi hình thức thần quyền và giáo
quyền, vốn làm cho tinh thần của con người ta bị mê muội, bạc nhược và
nô lệ hóa.
Có người cho rằng, vì đức Phật không xác
lập giáo quyền cho nên sau khi Phật nhập diệt mới sinh ra lắm tông
nhiều phái, không ai chịu nghe ai cả.
Xin trả lời: Có nhiều
tông phái là chuyện tất nhiên, hợp lý đáng mừng. Nó chứng tỏ sức
sống mạnh mẽ của đạo Phật. Nó chứng tỏ khả năng thích
nghi lạ lùng của đạo Phật dưới nhiều thời đại khác nhau và ở
nhiều quốc độ khác nhau. Đạo Phật hiện nay như một cây lớn, thân chắc,
chia ra nhiều cành lá xum xuê, bóng mát phủ rộng khắp nơi. Nếu có sai
lầm đáng tiếc là do đầu óc chấp nê, hẹp hòi của một số tông phái, kích
bác khuynh loát nhau, quên rằng tất cả đều được nuôi dưỡng từ một thân,
một gốc.
Việc thiết lập giáo quyền không những hạn chế tự
do dân chủ trong nội bộ Giáo hội, mà còn làm nghèo nàn, xơ cứng đạo
Phật, một đạo giáo vốn phong phú và đầy sức sống, bám sát cuộc sống,
không tách rời cuộc sống, dù chỉ là một ly, một tấc.
Đạo
Phật không bị cái mặc cảm của các đạo giáo thần khải (religion révélée).
Phật không bao giờ khẳng định kinh Phật là sách chép lời Thánh, sách
chép những chân lý bất di dịch, không lệ thuộc không gian và thời gian.
Phật nói đạo ví như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè qua sông, chỉ
là phương tiện để đạt tới chân lý. Sáng suốt thay, mà cũng vĩ đại thay
một giáo chủ như vậy, khi nói về tôn giáo của mình như vậy.
Phật
là con người rất thực tế, Ngài thường khuyên răn người không nên ham mê
lễ bái, trái lại nên chăm làm điều thiện, tránh điều ác. Nội dung kinh Thiện
Sanh mà tôi giới thiệu sau đây cho thấy điều đó.
Kinh
kể chuyện, Phật gặp một thanh niên tên là Sigala (Hán dịch là Thiện
Sanh) ngày nào cũng lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới.
Phật hỏi nguyên do thì anh ta trả lời là, lúc cha anh mất, cha có lời
nhắn nhủ anh nên lễ bái sáu phương như vậy. Phật bèn giải thích:
“Phương Đông là cha mẹ, lễ
phương Đông tức là làm tròn nhiệm vụ đối với cha mẹ. Phương Nam là thầy
dạy, lễ phương Nam tức là làm tròn nhiệm vụ của trò đối với thầy. Phương
Tây là vợ con. Phương Bắc là bạn bè, quyến thuộc láng giềng. Dưới là
người làm công, người giúp việc. Trên là các vị Tăng sĩ, những người tu
hành. Lễ các phương đó tức là làm tròn nhiệm vụ đối với cha mẹ, vợ con,
bạn bè, quyến thuộc, người làm công, Tăng sĩ v.v...”
Phật
giải thích, lễ phương Đông là con cái làm tròn nhiệm vụ đối với cha mẹ,
con cái phải săn sóc cha mẹ lúc già, phải làm bất cứ việc gì cần làm
cho cha mẹ, phải giữ danh dự cho gia đình, phải bảo vệ truyền thống gia
đình, phải bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, tổ chức tốt lễ tang khi cha mẹ
mất. Đối lại, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái, giữ gìn con cái
không làm điều ác, khuyên con cái làm điều thiện và có lợi, giáo dục con
cái đầy đủ, cưới gả cho con cái vào gia đình tử tế, chia tài sản một
cách công bằng.
Lễ phương Nam là thực hiện tốt quan hệ thầy trò:
Học trò phải kính trọng vâng lời thầy, lo lắng chu đáo cho thầy, trong
mọi điều cần thiết, phải chăm học. Và đối lại, thầy phải tận tâm dạy bảo
học trò, giới thiệu bạn tốt cho học trò, đảm bảo công việc làm cho học
trò, sau khi học xong.
Lễ phương Tây là thực hiện tốt quan hệ
giữa chồng và vợ: Chồng phải luôn luôn tôn trọng vợ, làm vợ vui lòng
bằng cách tặng vợ áo và đồ trang sức. Còn đối lại, người vợ phải chăm
sóc việc nhà, làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân thuộc của chồng,
phải yêu thương, chung thủy với chồng, phải giữ gìn tiền bạc của chồng
kiếm được, phải khôn khéo và có nghị lực trong mọi công việc...
Phật
còn nói tiếp đến mục 4, 5 và 6 về các mối quan hệ khác. Ở đây không
tiện kể lại hết. Điều đáng chú ý là Phật đã đưa chàng thanh niên Sigala
từ địa hạt tôn giáo trở lại thực tại xã hội và gia đình. Một điều đáng
chú ý nữa là tính chất song phương qua lại của nhiệm vụ. Con cái có
nhiệm vụ với cha mẹ, nhưng cha mẹ cũng có nhiệm vụ đối với con cái.
Tôi
muốn nói thêm về mối quan hệ giữa chủ và người giúp việc hay làm công,
để các bạn hiểu rõ hơn nữa tính chất song phương của nhiệm vụ.
Người
giúp việc hay làm công phải siêng năng, lương thiện vâng lời, đừng lừa
gạt chủ, cần mẫn trong mọi công việc làm. Đối lại người chủ phải giao
công việc tùy khả năng và sức lực, phải trả lương thích đáng, phải cung
cấp thuốc men, thỉnh thoảng phải nên cho quà tặng.
Trước
đây hơn 2500 mà nói được lời lẽ như vậy thì thực là đáng thán phục!
Những lời nói của Phật không những thể hiện rõ nét đạo Phật là đạo thực
sự bình đẳng và nhân bản, mà còn chứng minh tính thực tế của đạo Phật,
một đạo giáo luôn luôn khuyên người bỏ việc cầu đảo, lễ bái thần linh,
trở về với thực tại đời sống của chính bản thân mình.
Chúng
ta thích thú ghi nhận rằng, trong vấn đề này, quan điểm tự lực tự
cường của đạo Phật được sự hưởng ứng của nhiều triết gia hiện đại,
kể cả một số tu sĩ đạo giáo khác. Thí dụ, cố Tổng thống Ấn Độ
Radhakrishnan (một tín đồ Ấn Độ giáo) viết: “Cầu nguyện mang tính
chất một sự giao thiệp riêng tư, một sự buôn bán vị kỷ với thần linh. Nó
đeo đuổi những tham vọng thế gian và càng tôn cao thêm ý thức về cái
ta. Ngược lại, phép định tâm lại biến đổi ý thức về cái ta.”
Như
chúng ta biết, đạo Phật giảng thuyết “vô ngã” tưc là không có cái ta và
phép tu định tâm (Thiền định) của đạo Phật giúp mở mang và phát triển
trí tuệ.
Linh mục Thiên Chúa giáo C.Beard cũng viết: “Tôi
không hiểu vì sao người ta vẫn tiếp tục cầu nguyện, trừ phi người ta
tin rằng có những lỗ tai đang nghe họ” (xem cuốn Reformation trang
419). Đừng cầu nguyện van xin ai hết! Hãy tự lực phấn đấu bởi vì chính
con người có đầy đủ ở trong mình mọi khả năng tiềm tàng vô tận đạt tới
hạnh phúc, tự do và hiểu biết.
Đó là lời dạy của Phật đối với các học
trò của người. Trong kinh Trung A Hàm, số 20 (Vitakka Santhana Suttanta)
Phật nói;
“Chính con người phải tự mình quyết
định kiên trì, nỗ lực vươn lên và mở đường đến cánh cổng đưa đến tự do,
và bất luận lúc nào con người cũng luôn luôn có đủ khả năng để làm việc
ấy. Cánh cổng tự do không bao giờ khóa chặt lại, chìa khóa cũng không
nằm trong tay ai mà ta phải van xin cầu nguyện... Cánh cửa tự do không
bao giờ gài, đóng hay khóa, trừ phi chính con người đã gài, đóng và khóa
nó lại.”
Tiếp đó, Phật lại nói: “Mặc dù chỉ còn da,
gân và xương máu đã cạn dần, thịt đã teo và mỗi ngày càng thêm tàn héo,
ta sẽ không bỏ dỡ cuộc chiến đấu và bước ra ngoài con đường ngay thẳng
và giác ngộ.”
Những lời nói như trên, không thể thốt
ra từ một giáo chủ có dụng tâm mê hoặc quần chúng, từ một đạo giáo thực
chất là thuốc phiện và thuốc độc đối với nhân dân.
Vì
vậy, nếu nói tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, thì dứt khoát đạo
Phật không phải là thứ tôn giáo đó. Còn nếu hiểu: “Tôn giáo là giáo
lý về một nhận thức sâu sắc hơn đối với sự sống, là giáo lý không phải
nhìn hời hợt, mà là nhìn sâu vào sự sống, giáo lý dạy người ta hành động
phù hợp với kiểu nhìn theo chiều sâu đó, giúp cho người có được nhận
thức đó, có thể sống lạc quan và chết bình thản” (5) thì
đạo Phật đúng là một tôn giáo, một tôn giáo được hiểu như là “ một
hệ thống biện pháp để diệt trừ mọi nỗi thống khổ ở đời này.” (6)
MINH
CHI
--------------------------------------------------------------------------------
1 - Cả đoạn văn
như sau: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là
trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh
thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân.” C.Mác, lời nói đầu của “Phê phán triết học pháp quyền của
Heghen” 1843-1844, NXB Sự Thật Hà Nội, 1962, trang 5-7.
2 - Trường Bộ
kinh, bản dịch của HT Thích Minh Châu, trang 3, Tu thư Đại học Vạn Hạnh
xuất bản 1973.
3 - Thí dụ, D. F. Strauss (1808-1874) cho rằng nhiều
phép lạ trong sách Phúc Âm là trái với lí trí; Reimarus (1768) cho rằng
đó chỉ là những trò xảo quyệt.
4 - Lutvich Fơ Bách và sự cáo chung
của nền triết học cổ điển, NXB Sự Thật Hà Nội.
5 - Ceylan Daily
news–Vesak số 5/1939. Silacara.
6 - Dahlke–Buddhism and its place in
the metal world, p. 27.