Tiểu sử Đại lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU (1905 –
1992)
HT Thích Đôn Hậu
Hòa thượng pháp danh Trừng Nguyện, hiệu
Ðôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương
Thuần. Ngài sinh vào ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ (16-2-1905) tại làng
Xuân An, tổng An Ðồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống
Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một
vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có
pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được
pháp hiệu là Phước Ðiền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ
trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm
khi Ngài vừa lên 9 tuổi.
Năm Ngài lên bảy, một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến
nhà thăm, thấy Ngài diện mạo khôi ngô bèn tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho
Ngài con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui mừng khoân xiết, đặc biệt
lưu tâm đến việc học hành của Ngài, liền mời thầy về nhà dạy riêng, để
un đúc tương lai cho Ngài với lòng ước mong được như lời Tổ dạy.
Năm 17 tuổi (1922 - Nhâm Tuất), sau mười năm đèn
sách, Ngài đã laøu thông Nho học. Nhưng tư tưởng về nhơn sanh vũ trụ và
phương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã không làm thỏa mãn được lý
tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc
đời. Phải chăng còn coù một chân lý, một lý tưởng cao siêu hơn các
nguyên lý Khổng Mạnh mà Ngài đã gặp? Cho đến khi được song thân nhắc lại
việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, Ngài mới nghĩ đến con đường xuất
gia học đạo.
Ðiều này khiến cho chí xuất trần của Ngài trưởng
thành. Năm 19 tuổi, ngày 19 tháng 6 năm Quý Hợi (1923) được sự chấp
thuận của phụ thân, Ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin
được xuất gia tại đây.
Một năm sau, cũng đúng vào ngày vía Quan Âm (ngày
19 tháng 6 năm Giáp Tý - 1924), nhờ học hạnh kiêm toàn và chí nguyện
xứng đáng, Ngài được đặc cách cho thọ tam đàn Cụ Túc tại Giới đàn chùa
Từ Hiếu, do chính Bổn sư làm đàn đầu. Thọ giới được hai năm thì Bổn sư
viên tịch (1926), Ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu pháp với sư huynh là
Hòa thượng Giác Tiên.
Năm 1927, Ngài được 22 tuổi, trường Phật Học Thập
Tháp tại tỉnh Bình Ðịnh khai mở, do Tổ Phước Huệ - bậc danh Taêng nổi
tiếng làm Giáo thọ, Ngài cùng một số vị khác như Hòa thượng Chánh Huy,
Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học.
Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, trường Trung
học, Ðại học Phật giáo được mở tại Tây Thiên, Tổ Phước Huệ được cung
thỉnh từ Bình Ðịnh ra làm giáo thọ. Với tinh thần hiếu học cầu tiến
không ngừng, Ngài tiếp tục theo học chương trình Ðại học tại đây và được
bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm Giáo thọ cho Phật học
đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Ðức - Huế.
Ngay từ lúc còn ngồi ghế Ðại học tại Tây Thiên,
Ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật Học. Năm 1936, tốt nghiệp
Ðại học Phật giáo, với tuổi 32, Ngài được mời làm Giáo sư cho Phật học
đường Báo Quốc và Luật sư cho Sơn môn Thừa Thiên, từ đó Ngài đã trở
thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng Phật giáo, và là
giảng sư nòng cốt, tiền phong của Hội Việt Nam Phật Học. Ngài đã đi
giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Ðà Nẵng và Quảng Nam.
Năm 1940 và 1942, Ngài hai lần sang thuyết giảng ở
một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào, đàm đạo với vua Sãi và tham lễ
tại một soá nơi ở Vương quốc Phật giáo này.
Năm 1945, Ngài thay thế Bác sĩ Tâm Minh - Lê Ðình
Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật Học (Thừa Thiên). Cũng
trong năm này, Ngài nhận chức trụ trì Quốc Tự Linh Mụ - một di tích lịch
sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp
Trung bộ.
Năm 1947, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ
sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị Pháp đánh phá và chiếm đóng.
Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự đào huyệt chôn mình và suýt
bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Ðại) can thiệp mới được
thả.
Năm 1948, Ngài làm cố vấn đạo hạnh hội Phật học
Trung phần và Tuyên luật sư Ðại giơùi đàn Báo Quốc - Huế. Năm 1949, Ngài
thay cố Cư sĩ Chơn An Lê Văn Ðịnh giữ chức Chánh hội trưởng Tổng Trị sự
hội Phật học Trung phần.
Năm 1951, Ngài được cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa
thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng
già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo Hội Tăng Già toàn
quốc được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử làm Giám luật.
Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa
văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt
san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm.
Năm 1963, Ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh
đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của
chính quyền Ngô Ðình Diệm. Ðêm pháp nạn 20 tháng 8 năm 1963, Ngài bị bắt
tại chùa Diệu Ðế và bị đưa đi giam giữ.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
được thành lập, Ngài được cử làm Chánh Ðại Diện miền Vaïn Hạnh.
Năm 1965, Ngài được cung thỉnh làm Yết ma A Xà Lê
Ðại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế.
Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài lại
càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Ðạo ích Ðời.
- Tháng 1/1968: Phó Chủ tịch Liên minh các lực
lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng 6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố
vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
- Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên
Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Ðại hội thành lập tổ chức Phật giáo
Châu Á vì Hòa Bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp
hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình.
- Năm 1975, miền Nam được giải phóng, Ngài trở về
chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban chỉ đạo Viện Hóa
Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
- Năm 1976, Ngài đắc cử Ðại biểu Quốc hội khóa VI
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cũng chính trong năm này, Ngài
được mời giữ chức Ủy viên Ðoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
- Từ năm 1976 đến 1986, liên tục trong mười năm
liền, Ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ,
Báo Quốc và Linh Quang.
Năm 1977, Ðại hội kỳ VII Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất tại Ấn Quang. Ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng Lão
của Giáo Hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
Năm 1979, đức Ðệ nhị Tăng Thống - Hòa thượng Thích
Giác Nhiên - viên tịch, Ðại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng
Lưỡng Viện bèn cung thỉnh Ngài kiêm chức vụ Xử lý Viện Tăng Thống.
Năm 1981, Ðại hội Ðại biểu thống nhất Phật giáo
Việt Nam tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội, đã suy cử Ngài vào Hội đồng
Chứng minh với chức vụ Ðệ Nhứt Phó Pháp Chủ kiêm Giám luật Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam.
Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần Ngài được cung thỉnh
làm Ðàn đầu Hòa thượng các Ðại giới đàn tại chùa Báo quốc và Trúc Lâm -
Huế.
Ở tuổi ngoài bát tuần, sức khỏe của Ngài đã giảm
sút rất nhiều, thân ngũ uẩn như chiếc xe cũ, đèn dầu cạn, nhân duyên hội
họp đã mãn. Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng an nhiên thu thần hội nhập
vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày 23/4/1992 (nhằm ngày 21/3 Nhâm
Thân) tại Tổ đình Linh Muï thành phố Huế, trụ thế 88 năm, trải qua 68
mùa An cư kiết hạ...
Dù Phật sự đa đoan và cuộc đời hành đạo gặp nhiều
gian truân, nghịch cảnh, Hòa thượng cũng đã để lại một số tư liệu khiêm
tốn nhưng rất có giá trị do chính Ngài dịch giải, biên soạn như:
- Cách thức sám hối các tội đã phạm.
- Phương pháp tu quán.
- Tứ nhiếp pháp.
- Cảm ứng tự nhiên.
- Ðâu là con đường hạnh phúc.
- Ðồng mông chỉ quán.
- Sinh mệnh vô tận hay là Thuyết luân hồi.
- Luật Tứ Phần Tỳ kheo ni.
Ngoài ra còn có một số bài đăng trên các báo Viên
Âm, Liên Hoa.