Này chư đạo hữu: Tôi thường nghe Hòa thượng Tinh Vân nói, Phật tử ở đây
rất tín ngưỡng Phật giáo và nghe giảng Phật pháp rất nhiệt thành, khác hẳn
với những Phật tử ở những nơi khác, vì cảm thấy rất hiếm có và vô cùng vui
sướng! Cho nên lần này chúng tôi có chủ ý cùng các vị pháp sư đến đây
tham quan cho biết.
Tối nay được Hòa thượng Tinh Vân giới thiệu diện kiến cùng quý vị, đồng
thời nói một ít Phật pháp, tôi cảm thấy rất vinh hạnh!
Lý
luận Phật giáo rất tinh mật thâm áo, pháp môn tu hành cũng rất nhiều,
nhưng vì quý vị thường là niệm Phật, đồng thời ở đây là hội niệm Phật, cho
nên hôm nay tôi không nói những lý luận và pháp môn khác, chỉ nói chuyện
cùng quý vị với đề tài “MẤY ÐIỂM TRỌNG YẾU MÀ NGƯỜI NIỆM PHẬT NÊN BIẾT”,
tôi nghĩ quý vị nhất định sẽ muốn biết vấn đề này.
I.
SỰ THÙ THẮNG CỦA PHÁP MÔN
NIỆM PHẬT
Phật giáo có rất nhiều pháp môn tu hành, tham thiền, tu quán, rồi trì chú
v.v... nhưng trong những pháp môn này, muốn tìm một pháp môn thù thắng
nhất và dễ thực hành nhất thì chỉ có pháp môn niệm Phật mà thôi.
Tại
sao nói pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng nhất và dễ thực hành nhất? Ðây, chúng ta sẽ có hai lý do để chứng minh.
1.- Niệm Phật là con đường dễ đi
Trong Phật giáo pháp môn tu hành tuy rất nhiều, nhưng tổng quát lại chỉ có
hai con đường: con đường dễ đi và con đường khó đi. Nói là đường, chính
là phương pháp tu hành, bởi vì phương pháp này có thể làm cho người ta
giải thoát khỏi phiền não trói buộc và đau đớn bức bách mà đạt đến cảnh
giới an vui tự do, giống như nhờ con đường mà mọi người đi được từ chỗ này
đến chỗ kia vậy, cho nên gọi là con đường. Gọi là con đường dễ đi và con
đường khó đi, chính là phương pháp dễ hành và phương pháp khó hành. Con
đường khó đi như tham thiền và tu quán đã nói ở trên, con đường dễ đi là
niệm Phật. Bởi vì tham thiền và tu quán là hoàn toàn dựa vào sức mạnh của
tự lực, mà sức mạnh tự lực của chính mình thì còn rất yếu, nếu muốn lấy
sức mạnh yếu kém của mình để giải thoát những sự trói buộc của phiền não
và rất nhiều sự bức bách đau đớn của thế gian thô trọng, vậy thì khó lắm!
Khó lắm! Cho nên những pháp môn dựa vào sức tự lực gọi là con đường khó
đi.
Pháp môn niệm Phật là pháp môn dựa vào tha lực, tha lực chính là Phật lực,
Phật lực thì bất khả tư nghì, chúng ta nếu dựa vào Phật lực để cầu giải
thoát thì dễ hơn. Ví như chúng ta muốn đến một nơi rất xa, nếu đi bộ thì
cực mà lại lâu tới nơi; nếu đi thuyền hoặc máy bay thì khỏe lại nhanh đến.
Cầu giải thoát bằng pháp môn niệm Phật thì như đi thuyền hay máy bay vậy,
có thể thu được hiệu quả gấp bội lần. Cho nên pháp môn niệm Phật gọi là
con đường dễ đi.
Bây
giờ, lấy sự thật dưới đây để làm ví dụ chứng minh.
Ngày xưa có một người thợ rèn họ Hoàng, mọi người quen gọi ông ta là Hoàng
thợ rèn. Vì cuộc sống, Hoàng thợ rèn phải vất vả từ sáng sớm đến tối mịt,
vì thế ông chán ngán thân người, làm người khổ, chẳng có ý vị gì.
Một
hôm nọ, có một người xuất gia đi ngang qua lò rèn ông ta, Hoàng thấy như
bắt gặp được vị cứu tinh, vội vàng bỏ búa xuống chạy ra mời vào.
-
“Thưa sư phụ! Con vì ba bữa cơm mà cực khổ quá, cả ngày đứng bên lò lửa,
thật là chịu hết thấu! Xin sư phụ từ bi, dạy con một phương pháp giải
thoát khổ đau!” Hoàng thợ rèn thỉnh cầu một cách khẩn thiết.
Nhưng vị tăng nhân không dạy ông ta phương pháp giải thoát khổ đau nào,
chỉ bảo ông ta niệm Phật. Ngài nói:
-
“Ông muốn tôi dạy cho phương pháp giải
thoát khổ đau, dễ thôi, chỉ cần niệm Phật là được. Chẳng phải ông
cả ngày đứng bên lò lửa đập sắt sao? Thế này nhé, lúc đạâp sắt, giơ búa
lên ông niệm một câu “A Di Ðà Phật”, nện búa
xuống lại niệm một câu “A Di Ðà Phật”,
hôm nay trở đi ông cứ làm không ngừng như vậy cho tôi, chắc chắn
nỗi thống khổ của ông sẽ được giải thoát.”
Hoàng thợ rèn nghe xong vui mừng khôn xiết, y giáo phụng hành ngay. Ông
vừa đập sắt vừa niệm Phật không ngừng nghỉ, cả ngày đều như vậy. Mọi người
thấy thế đều bảo ông ta ngu ngốc, đập sắt cả ngày đã mệt lắm rồi, nay lại
thêm niệm Phật nữa, làm gì thế cho thêm cực, bèn khuyên:
-
“Ông đập sắt chẳng phải là đã quá cực
rồi sao? Sao lại phải niệm Phật để cho cực thêm? Thấy sức khỏe
của ông, tôi nghĩ hay là ông đừng niệm Phật nữa.”
Hoàng thợ rèn cười nói: “Các ông không biết thần diệu của niệm Phật, các
ông biết không, lúc chưa biết niệm Phật, làm việc tôi luôn cảm thấy quá
nhọc nhằn, nhưng sau khi niệm Phật, thì tôi không thấy mệt nhọc nữa, ngược
lại còn cảm thấy sung sướng!”
Vậy thì vì lý do gì? Bởi vì Hoàng thợ rèn lúc chưa biết niệm Phật, khi
đập sắt ông ta luôn nghĩ đến đập sắt, cho nên mới thấy mệt. Hôm nay biết
niệm Phật rồi, tuy vẫn làm công việc cũ, nhưng tận cùng đáy lòng ông luôn
nghĩ đến Phật, đặt hết niềm hy vọng trên cõi Tây phương, vì thế tinh thần
vô cùng phấn khởi, cho nên quên hết nhọc nhằn.
Sau
này Hoàng thợ rèn vãng sinh bên lò lửa! Khi lâm chung ông ta nói
kệ rằng: “Bon bon beng beng, luyện lâu thành thép, bình yên đã tới, tôi
về Tây
phương.” Nói xong nhắm mắt thị tịch.
2.- Pháp môn niệm Phật phổ biến cho cả ba căn
Trong Phật pháp nói chúng sinh có ba loại căn cơ: Thượng căn, trung căn
và hạ căn. Pháp môn tham thiền, tu quán dựa vào tự lực, chỉ thích hợp cho
bậc thượng căn và trung căn, bậc hạ căn thì không cách gì tu trì được; chỉ
có pháp môn niệm Phật mới là pháp môn phổ thông cho tất cả, thượng căn tu
được, trung căn cũng tu được, hạ căn cũng được, tất cả đều tu được hết.
Bậc thượng căn như Bồ tát Ðại Thế Chí mà cũng chứng Viên giác từ pháp môn
niệm Phật; những bậc trung căn như rất nhiều đại đức niệm Phật xưa nay;
hạng hạ căn là những người tầm thường, cho đến những kẻ đại ngu tối đều có
thể niệm Phật vãng sinh, như Hoàng thợ rèn đã nói trên đây là một ví dụ.
Do đó, nên nói pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng nhất. Ðây là điểm
thứ nhất mà người niệm Phật nên biết.
II.
NHÂN DUYÊN CỦA PHẬT A DI ÐÀ VỚI
THẾ GIỚI TA BÀ
Ðây là điểm thứ hai mà người niệm Phật nên biết. Bởi vì danh hiệu Phật mà
chúng ta niệm hiện nay là danh hiệu Phật A Di Ðà, cho nên cần phải biết
nhân duyên tất yếu của Phật A Di Ðà với thế giới Ta bà, nhân duyên này có
thể chứng minh bằng hai điểm sau:
1.- Ðức Phật A Di Ðà vì sự đau khổ của chúng sinh mà phát nguyện thành tựu thế giới Cực lạc
Mục đích mà chúng ta niệm Phật A Di Ðà là
muốn vãng sinh thế giới Cực lạc, mà thế giới
Cực lạc thành tựu là do đại nguyện của
Phật A Di Ðà. Phật A Di Ðà vì sao phải phát nguyện thành tựu
thế giới Cực lạc? Vì Phật A Di Ðà lúc chưa thành Phật, thấy chúng
sinh trong cõi Ta bà ngày đêm bị bức
bách đủ mọi sự thống khổ, như
đau khổ vì bệnh tật, vất vả vì phải làm ăn, cho đến những đau khổ
vì cuộc sống thiếu thốn; rồi đau khổ vì
sự tranh chấp, đau khổ vì nạn nước
cuốn trôi, lửa thiêu đốt... Vì thế,
Ngài bèn phát 48 đại nguyện để
thành tựu thế giới Cực lạc, cho những ai muốn lìa khổ đắc lạc, chỉ
cần nhất tâm niệm danh hiệu Ngài, phát
nguyện vãng sinh thế giới Cực lạc của Ngài, Ngài sẽ lập tức tiếp
dẫn họ vãng sinh thế giới Cực lạc. Ðây giống như ngài Tôn Trung Sơn,
vì thấy sự thối nát của chính phủ Mãn
Thanh, dẫn đến nước nhà bị các nước chủ nghĩa đế quốc sự xâm lược
về kinh tế, chính trị, gây nên sự thống khổ thiếu thốn cho nhân dân Trung
Quốc, bèn lập chí cách mạng, phải lật
đổ chính phủ Mãn Thanh, chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc, xây dựng một đất nước chủ nghĩa Tam Dân (dân tộc, dân quyền, dân
sinh) giàu mạnh yên vui, làm cho toàn dân đạt được mục đích bình đẳng địa
vị quốc tế, bình đẳng địa vị chính trị, bình đẳng địa vị kinh tế, giải
quyết sự thống khổ trong cuộc sống cho nhân dân, đồng thời làm cho nhân
dân được an vui trong cuộc sống.
Sao gọi là thế giới Cực lạc? Ðiều này trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật Thích
Ca đã có nói rõ, Phật nói tất cả chúng sinh sinh lên nước ấy, chỉ hưởng
thọ mọi sự sung sướng, không có các khổ, cho nên gọi là thế giới Cực lạc.
Thế giới Cực lạc này, Ðức Phật A Di Ðà đã vì sự đau khổ của chúng sinh mà
phát nguyện thành tựu, như vậy chỉ cần chúng ta chịu phát nguyện vãng
sinh, nhất tâm niệm Phật, thì nhất định được vãng sinh. Cho nên chư vị
niệm Phật, chỉ cần tâm thành nguyện thiết thì chắc chắc được vãng sinh Cực
lạc, chắc chắc được thấy Phật A Di Ðà.
2.- Phật A Di Ðà luôn nhớ chúng ta.
Trong kinh nói Phật A Di Ðà luôn nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nhưng vì
chúng sinh không nhớ Phật, nên Phật tuy thường nhớ chúng ta, mong chúng ta
cùng đến bên Ngài, mà kết quả chúng ta vẫn mãi chịu khổ nơi thế giới Ta
bà. Giống như người mẹ luôn nhớ đứa con lưu lạc nơi tha hương, mong nó sớm
trở lại bên mình, nhưng vì con không nhớ mẹ, không muốn về nhà, để đến nỗi
của cải nhà đầy không ai hưởng, mà nó vẫn lưu lạc chịu khổ nơi đất khách
quê người. Nếu đứa con một khi nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, thì không lâu
nó sẽ được ở bên mẹ thọ hưởng niềm vui gia đình. Chúng sinh nếu một khi
nhớ Phật, giống lúc Phật nhớ chúng sinh, thì cũng không lâu được ở bên
Phật, thọ hưởng niềm vui Phật pháp. Kinh Lăng Nghiêm, chương Ðại Thế Chí
Bồ Tát Viên Thông nói: “Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tại
tương lai, nhất định thấy Phật”. Cho nên chúng ta nếu muốn thấy Phật, cần
phải thời thời nhớ Phật niệm Phật.
Hơn
nữa, nếu chúng ta chỉ để Phật nhớ chúng ta, còn chúng ta lại không nhớ
Phật, vậy thì không những không thể vãng sinh thế giới Cực lạc, mà ngay cả
Phật có hóa thân đến trước mặt chúng ta, chúng ta cũng không thể biết, rõ
ràng đã thấy Phật, mà cũng như không thấy.
Ngày xưa, ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, có thiền sư
hiệu Phong Can, ngài là hóa thân của Phật A Di Ðà. Thỉnh thoảng ngài
thường cỡi cọp về chùa, mọi người không ai biết ngài là người thế nào. Một
ngày nọ, ngài rủ Hàn Sơn, Thập Ðắc đi triều bái Ngũ Ðài Sơn, ngài nói:
-
“Ai cùng đi với ta, thì mới là bạn ta; còn ai không đi cùng, thì chẳng
phải là bạn”
-
“Hòa thượng triều bái Ngũ Ðài Sơn làm gì?”. Hàn Sơn hỏi.
-
“Lễ Văn Thù!”. Phong Can đáp.
-
“Hòa thượng không phải là bạn tôi, tôi không đi với Hòa thượng”. Hàn Sơn
nói.
Thế là thiền sư
Phong Can đi một mình. Lúc ngài từ Thiên Thai đến Hàng Châu, ngài gặp nhân
sĩ họ Lư, tên Khâu Dận, ông ta đợi làm quan đã mấy năm, của cải trong nhà
đã tiêu pha gần hết, cuộc sống đang đến hồi nguy cấp, thì được tỉnh phủ
phái đến Ðài Châu làm Tri phủ, nhưng không may cho ông, đang lúc chuẩn bị
lên đường nhậm chức thì ông bị bệnh đau đầu, uống bao nhiêu thuốc thang
cũng không hiệu quả. Thiền sư Phong Can có chủ ý muốn đến nhà ông ta thăm
bệnh, nhưng những người canh cửa quyết không cho ngài vào, ngài nói với
họ:
-
“Tôi đến đây là có chủ ý muốn cứu chủ các ông, sao các ông không chịu cho
tôi vào thăm bệnh?”
Những người canh cửa nghe ngài nói đến cứu mạng chủ mình, bèn chạy vào báo
cáo, Lư Khưu Dận bèn ra lịnh thỉnh ngài vào, Phong Can vừa thấy Lư Khưu
Dận hỏi ngay:
-
“Ông bị bệnh gì?”
-
“Ðầu tôi đau như muốn bể!”. Lư Khưu Dận đáp.
-
“Ông cho người mang một ly nước đến, tôi sẽ chữa cho ông.” Thiền sư Phong
Can nói với Lư Khưu Dận.
Sau khi nước được
mang đến, Thiền sư Phong Can bèn trì chú cho ông ta. Trì chú xong, ngài đổ
một ít nước ra lòng bàn tay, thoa nhè nhẹ trên trán Lư Khưu Dận ba lần, kể
cũng kỳ lạ, bệnh đau đầu của Lư Khưu Dận lành như vậy đấy. Thật là cảm tạ
vô cùng!
- “Xin hỏi đại sư pháp hiệu gì, ở chùa nào?”. Lư
Khưu Dận kiền thành hỏi Thiền sư Phong Can.
-
“Tôi tên Phong Can, ở chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai, huyện Ðài Châu.”
-
“Trong chùa có bao nhiêu người đạo hạnh như đại sư?”. Lư Khưu Dận lại
hỏi.
-
“Tôi chẳng có đạo hạnh gì cả, trong chùa có hai vị là hóa thân Bồ tát, như
Hàn Sơn hóa thân của Văn Thù, Thập Ðắc hóa thân của Phổ Hiền. Họ đang ở
trong chùa Quốc Thanh”.
Lư
Khưu Dận nghe xong rất vui, bèn mang
rất nhiều lễ vật lễ tạ Thiền sư Phong Can. Phong Can dứt khoát
không nhận, đứng dậy đi ngay.
Sau khi Lư Khưu Dận
đến Ðài Châu nhậm chức được ba ngày, bèn đến chùa Quốc Thanh tiến hương,
ông hỏi vị thầy tri khách:
-
“Hai vị đại sư Hàn Sơn, Thập Ðắc ở đâu? Phiền pháp sư dẫn chúng tôi đi
bái kiến!”
Thầy tri khách nói: “Hai người ấy là Hòa thượng điên, đại quan có gì phải
dặn dò?”
-
“Tôi muốn lễ bái hai vị đại sĩ!”. Lư Khưu Dận nói một cách trang trọng.
-
“Tôi sẽ cho người gọi họ đến.” Thầy tri khách nói.
-
“Không được! Không được! Tôi phải đích thân đi bái kiến”. Lư Khưu Dận
nói.
Thầy tri khách không còn cách nào khác, đành phải dẫn Lư Khưu Dận đi. Lúc
đến nhà trù (nhà bếp), Hàn Sơn, Thập Ðắc đang ngồi sưởi ấm bên lò lửa, hai
người vừa nói chuyện vừa cười, không ai biết họ đang nói gì. Thầy tri
khách thấy họ bèn gọi lớn:
-
“Hàn Sơn, Thập Ðắc đứng dậy mau, đại quan ở đây có lời muốn nói với hai
ông!”
Hàn Sơn, Thập Ðắc
nghe tiếng gọi bèn đứng lên, Lư Khưu Dận vừa thấy họ lập tức chạy đến đảnh
lễ. Hàn Sơn, Thập Ðắc thấy tình hình không ổn bèn quay đầu bỏ chạy. Lư
Khưu Dận đương nhiên không chịu để cơ hội hiếm có này mất đi một cách dễ
dàng, bèn lập tức chạy đuổi theo, đến động Hàn Sơn thì hai vị đại sĩ chạy
nhanh vào động, Hàn Sơn ngoái đầu lại nói:
-
“Giặc! Giặc! Giặc! Lão Phong Can lắm chuyện! Ông không đi mà lễ bái Di
Ðà, đến đây bái tôi làm gì?”. Nói xong
bèn biến nhanh vào động.
Lư
Khưu Dận chạy vào động, nhưng không thấy tung tích hai vị đại sĩ đâu. Hàn
Sơn, Thập Ðắc từ đó không xuất hiện nữa, và Thiền sư Phong Can cũng từ đó
không trở về lại chùa Quốc Thanh nữa. Ðây chính là Thánh nhân ứng hóa giữa
nhân gian, một lần bị tiết lộ là quý ngài ẩn thân luôn.
Thiền sư Phong Can là hóa thân của Phật A Di Ðà, ngài lúc nào cũng ở bên
mọi người nhưng không một ai biết, đây chẳng phải ngày ngày gặp Phật mà
coi như chẳng thấy sao? Ðây chính là trong lòng không nhớ Phật niệm Phật.
III. NGHĨA RỘNG CỦA A DI ÐÀ
Ðây là điểm thứ ba mà người niệm Phật nên biết. Hiện tại mọi người đã rất
nhiệt thành niệm Phật A Di Ðà, vậy thì đối với ý nghĩa của ba chữ “A Di
Ðà”, chúng ta cần phải biết rõ. Nhưng nghĩa của ba chữ này rất rộng, chúng
ta vì không có nhiều thời gian nên không thể nói tường tận, bây giờ chỉ
khái lược đại khái ba điểm sau.
1.- Vô lượng quang và Vô lượng thọ
A Di Ðà là tiếng Ấn Ðộ, nghĩa chủ yếu của nó là có vô lượng quang
và vô
lượng thọ. Quang, là biểu thị cho trí tuệ, Vô lượng quang, chính
là biểu
thị sự quảng đại của trí tuệ không thể nghĩ bàn, đây là nói về
phương diện
không gian. Thọ, là biểu thị sinh mệnh dài lâu, vô lượng thọ là
biểu thị
sự trường cửu của sinh mệnh không thể nghĩ bàn, đây là nói về
phương diện
thời gian. Bây giờ chúng ta lấy lời Kinh A Di Ðà để chứng minh.
Trong Kinh
A Di Ðà, Phật Thích Ca nói: “Phật ấy vì cớ sao mà có tên là A Di
Ðà? Bởi
vì ánh sáng của Phật ấy chiếu thấu suốt khắp mười phương, cho nên
có tên
là A Di Ðà”. Ðây là lần thứ nhất Ðức Phật Thích Ca tự hỏi tự trả
lời về
nghĩa ba chữ A Di Ðà, tự hỏi tự đáp lần thứ hai là: “Phật ấy vì
duyên cớ
gì có tên là A Di Ðà? Bởi vì tuổi thọ của Phật ấy vô lượng vô biên
bất
khả tư nghì, cho nên có danh hiệu là A Di Ðà”. Do đó chúng ta có
thể biết: gọi là A Di Ðà, chính là nói rõ Ðức Phật này, trí tuệ của Ngài
rộng lớn
không thể nghĩ bàn, thọ mạng cũng bất khả tư nghì.
Ánh sáng chiếu xuyên đêm tối, trí tuệ dứt sạch ngu si, đêm tối sẽ làm cho
chúng ta không thấy được cảnh tượng trước mắt, làm cho người ta va tường
chạm vách, rơi hố sụp hầm, nguy hiểm cho sinh mạng; ngu si làm cho con
người không hiểu rõ chân lý vũ trụ nhân sinh, làm cho người ta suy nghĩ
sai lầm, hành động ngu muội, tạo nên quả báo đau khổ. Cho nên đêm tối và
ngu si, thì ai cũng chán và muốn phá trừ. Ánh sáng sẽ làm cho người ta
thấy rõ ràng ảnh tượng trước mắt, làm cho người ta đi đúng đường, đạt được
mục đích muốn đạt; trí tuệ làm cho người ta thấu rõ được chân lý nhân
sinh, làm cho người ta suy nghĩ đúng đắn, hành động hợp lý, hoàn thành
nhân cách cao nhất, đạt được cảnh giới tự do, an vui, giải thoát tự tại.
Cho nên ánh sáng và trí tuệ là điều mà ai cũng muốn truy cầu. Trong lòng
mỗi người chúng ta đều có đêm tối và ngu si, mục đích đầu tiên của niệm
Phật chính là vì phá trừ đêm tối và ngu si để thu được ánh sáng và trí
tuệ.
Thọ mạng lâu dài, cũng là điều mà ai cũng mong muốn, thế nhưng thọ mạng
của con người đều rất ngắn ngủi, tuổi thọ cao nhất không quá trăm năm, đây
là điều đáng tiếc lớn nhất của đời người! Nhưng nếu chúng ta muốn bù đắp
điều đáng tiếc lớn này, chỉ có thành tâm niệm Phật, bởi vì khi thành tâm
niệm Phật chúng ta được vãng sinh Cực lạc, thọ mạng của chúng ta cũng vô
lượng vô biên bất khả tư nghì như Ðức A Di Ðà vậy.
Nhưng điều mà ở đây chúng ta càng phải biết là: Ðức Phật mà chúng ta đang
niệm đây đương nhiên là ở thế giới Tây Phương Cực lạc, nhưng trong bản
thân của mỗi người chúng ta đây cũng đầy đủ đức tướng A Di Ðà, A Di Ðà này
là gì? Chính là chân tâm của chúng ta. Niệm Phật, là dùng danh hiệu của
Phật để thức tỉnh A Di Ðà Phật của tự tâm chúng ta, A Di Ðà Phật của tự
tâm chúng ta một khi hiện tiền, thì chúng ta tức khắc đồng Phật A Di Ðà
không khác: ánh sáng chiếu thấu suốt khắp mười phương; thọ mạng vô lượng
vô biên không thể nghĩ bàn. Phật pháp chú trọng tất cả do tâm tạo, nói tâm
chính là Phật, tâm làm Phật là lý này vậy.
2.- Ðầy đủ vạn đức.
Chúng ta phải biết: Phàm là danh hiệu của
chư Phật, đều y nơi đức mà lập. Ðức có rất nhiều, nhưng trong Phật
giáo tổng quát có hai loại là: Trí đức và phước đức. Trí đức là do tu mà
được, phước đức nhờ lợi tha mà thành. Vô lượng quang của A Di Ðà, tức đầy
đủ trí đức; vô lượng thọ của A Di Ðà, tức hàm đủ phước đức, cho nên một
câu A Di Ðà tức đầy đủ muôn đức. Niệm A Di Ðà tức bằng với tu hành vạn
đức. Cho nên danh hiệu A Di Ðà Phật này, các bậc đại đức xưa nay đều khen
ngợi là hồng danh vạn đức.
3.- Niệm A Di Ðà Phật tức đồng với niệm tất cả Phật
A Di Ðà Phật cố nhiên là đức hiệu của một vị Phật, nhưng ý nghĩa của A Di
Ðà thì lại thông với tất cả Phật. Bởi vì bản thể của tất cả Phật đều là vô
lượng quang, vô lượng thọ, tất cả Phật đều là từ trong nhân địa tu hành
trang nghiêm vạn đức bằng tự lợi lợi tha, cho nên tất cả Phật đều có thể
gọi là A Di Ðà, và một A Di Ðà Phật cũng có thể đại diện cho tất cả Phật.
Trong pháp quán tướng đẹp sáng ngời của Phật A Di Ðà, pháp quán thứ chín
trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Kiến thị sự giả, tức kiến thập phương
chư Phật.” Lại nói:“Tác thị quán giả, danh quán nhất thiết thân Phật.”
Kiến thị sự giả, chính là thấy Phật A
Di Ðà. Tác thị quán giả, chính là
quán Phật A Di Ðà. Ðây chính là nói:
Thấy Phật A Di Ðà, tức là thấy
mười phương chư Phật, quán Phật A Di Ðà, tức là quán tất cả Phật.
Ðã thấy Phật A Di Ðà, quán Phật A Di Ðà, tức là thấy mười phương chư Phật,
quán mười phương chư Phật, vậy thì niệm Phật A Di Ðà, đương nhiên là cũng
như niệm tất cả Phật. Cho nên công đức niệm Phật A Di Ðà là không thể nghĩ
bàn vậy.
IV. BA MÓN TƯ LƯƠNG CỦA TỊNH ÐỘ
Ðây là điểm thứ tư mà người niệm Phật nên
biết. Chúng ta niệm Phật không phải là
vì để tiêu khiển thời gian, cũng không phải là để cầu bình
an, hay là để cầu phù hộ độ trì ăn nên
làm ra, nếu như vậy, thì đã làm
mất đi ý nghĩa chân chính của
niệm Phật. Chúng ta niệm Phật là để cầu tịnh hóa
thân tâm, vãng sinh Tịnh độ; Tịnh độ là
mục đích lý tưởng của người niệm
Phật chúng ta. Nhưng Tịnh độ mà trong Phật giáo nói có rất nhiều,
nhưng hôm nay chỉ nói Tịnh độ mà mọi
người niệm Phật A Di Ðà phát
nguyện vãng sinh, đó chính là
thế giới Tây phương Cực lạc thành tựu
nhờ đại nguyện của Phật A Di Ðà. Thế
giới Cực lạc vì sao lại gọi là Tịnh độ? Ðộ tức là cõi, Tịnh
độ chính là thế giới thanh tịnh. Bởi vì
bất cứ người nào sinh lên thế giới Cực lạc, thân tâm họ
cũng đều thanh tịnh: Thân, không có những hành
vi sát, đạo, dâm, vọng; Tâm, không có
các ý niệm tham, sân, si, mạn,
nghi... cả ngày đều hành Phật pháp, nghĩ Phật pháp, lìa tất cả
những lỗi tạp nhiễm, đầy đủ tất cả công đức thanh tịnh; không
có sự nhiễu loạn của phiền não, không
có sự lo sợ vì sống chết, đây là tịnh hóa nhân sinh. Thứ hai,
nói về tịnh hóa thế giới: trong thế
giới Cực lạc, không có sự gồ ghề
cao thấp của núi đồi, khe vực;
cũng không có sông dài biển rộng, gió to sóng dữ;
một dãy bình nguyên vô tận, cát vàng
trải làm đất, lầu các bằng bảy
thứ báu kim ngân, lưu ly, pha
lê, xa cừ... từng dãy lan can, từng hàng cây
báu; đáy ao toàn bằng vàng, đầy nước tám công
đức, la võng ánh triệt lẫn nhau, ngày
đêm sáu thời, tiếng chim kêu, tiếng gió thổi đều là những
thời thuyết pháp, thật là một cõi nghiêm tịnh và
mỹ diệu không gì so sánh! Do tịnh hóa
nhân sinh và tịnh hóa thế giới, cho nên gọi là Tịnh độ.
Thế giới Cực lạc quả thật là thế giới lý tưởng nhất, nếu như chúng ta được
sinh về thế giới Cực lạc, thì muốn gì được nấy, không thiếu thứ gì, thật
là cực kỳ sung sướng! Nhưng thế giới Cực lạc và thế giới Ta bà đau khổ
bức bách chúng ta đây cách nhau quá xa, theo trong Kinh A Di Ðà nói, từ
thế giới chúng ta đây đến thế giới Cực lạc, phải trải qua mười vạn ức cõi
Phật (100.000 ức), cho nên chúng ta nếu muốn cầu sinh thế giới Cực lạc,
cần phải trang bị một số tư lương phong phú tương đương mới khả dĩ. Không
thì, đoạn đường dài vô tận như vậy thật không dễ dàng đạt đến. Vậy thì tư
lương phong phú này là gì? Thông thường có ba loại sau:
1.- Tín tâm bền chắc
Tin là mẹ của mọi sự thành công, chúng ta bất luận làm một công việc gì,
cũng không thể thiếu niềm tin, nhất là tu học Phật pháp. Vì sao? Vì Phật pháp là
cảnh giới của Phật, cảnh giới của Phật tâm lượng của chúng ta không thể đo
lường đạt đến, chỉ có dùng niềm tin để tiếp thọ, cho nên nói biển lớn Phật
pháp chỉ có niềm tin mới vào được.
Chúng ta học Phật pháp niệm Phật,
thứ nhất phải có đủ niềm tin, tin là
nguồn của đạo, là mẹ của công
đức, không đủ niềm tin, thì tất không thể thu được lợi ích Phật pháp. Gần đây có
một số người cuồng vọng, cho rằng mình
có đầy một bụng trí tuệ, còn hơn
cả Phật, nói Phật chẳng khác gì
người thường tình, Bồ tát chẳng qua cũng chỉ là phàm phu, nào là
cảnh giới mà trong Phật pháp cho rằng
trí tuệ rơm rạ của những kẻ thường tình không thể trắc lượng là phi
hữu, chẳng có một chút tín tâm, thấy biết tà vạy, những người tự cho rằng
mình có một túi đầy trí tuệ thật ra là những kẻ mít đặc, ngu si vô cùng,
không còn một chút thiện căn, hạt giống tội lỗi gieo khắp, tương lai nhận
lấy tội báo nghiêm trọng là điều không thể tránh khỏi! Tôi vạn phần mong
mỏi các đồng đạo phải xây dựng niềm tin cho chắc chắn, đừng để những tà
thuyết ấy mê hoặc, như vậy mới đạt được mục đích mà quý vị mong cầu.
Nhưng niềm tin vững chắc mà ở đây muốn nói là phải tin những gì? Thứ
nhất, tin lòng mình. Nhưng tâm này hoàn toàn không phải chỉ
cho cái tâm ý thức vọng tưởng tạp loạn
của chúng ta hiện nay, mà là chỉ
cho cái tâm chân như của thật
thể khởi theo sở y. Tâm này tồn tại
ba đời, biến khắp mười phương, không bị
hạn chế bởi thời gian không
gian; núi sông đại địa, chư Phật
chúng sinh, đều là tâm này hiện, tâm
này tạo tác. Trong Kinh Phật đã nói mỗi
chúng ta đều có tâm này, đều có thể nương nơi tâm này mà thành
Phật. Hiện tại chúng ta tuy chưa có trí tuệ để thể hội
nó, nhưng chúng ta phải tuyệt đối tin
tưởng chúng ta có tâm như vậy, y
tâm này mà tu hành nhất định sẽ
thành Phật! Ðây chính là tin chính mình.
Thứ hai, tin lời dạy của chư Phật. Pháp môn niệm Phật chính Ðức Thích Ca
nói ra, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân là Thái tử, Ngài là người nhất
thiết trí thân chứng thật tướng các pháp, chắc chắn Phật không lừa dối
chúng sinh, giáo pháp mà Phật nói tuyệt đối không sai! Chúng ta phải
triệt để tin giáo pháp của Phật, Phật nói có thế giới Cực lạc, niệm Phật
có thể vãng sinh, thì chúng ta tuyệt đối thực hành theo lời Phật dạy. Ðồng
thời tin thế giới Cực lạc thành tựu là do đại nguyện của Phật A Di Ðà, lại
chư Phật sáu phương xuất ra tướng lưỡi dài rộng cùng tán thán, Phật A Di
Ðà tuyệt không có nguyện dối! Chư Phật sáu phương há có hai lời sao?
Phải hạ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sinh như thế: Ðây là tin lời dạy của
chư Phật.
Thứ ba, tin nhân niệm Phật. Ðây là tin niệm Phật chắc chắn vãng sinh. Vào
thời quá khứ xa xưa có một bác tiều phu, một hôm lúc đang kiếm củi trên
núi, bỗng nhiên thấy một mãnh hổ từ xa lao tới, bác ta sợ quá, muốn chạy
mà không dám chạy, muốn trốn mà không có chỗ trốn, đang lúc ngàn cân treo
sợi tóc này, bác bỗng ngoái đầu lại thấy một gốc cây, bèn vội vàng tót lên
tận ngọn. Con hổ cũng không vừa, thấy bác tiều ở tít trên ngọn cây, nó bèn
ra sức gặm gốc cây. Bác tiều ở trên
ngọn thấy gốc cây bị gặm sắp đổ,
thất kinh, tự nhiên buộc miệng
thốt ra ba tiếng “Nam mô
Phật”. Kể cũng kỳ lạ, mãnh hổ nghe tiếng
Nam mô
Phật bỗng nhiên sợ thót giật chạy. Nhờ thiện căn của câu “Nam mô
Phật” vào thời quá khứ, sau bác tiều phu được Phật
Thích Ca độ xuất gia, chứng A la hán. Câu
Nam mô
Phật niệm một cách vô tình mà còn có thể làm nhân duyên đắc đạo,
huống hồ gì là cố ý niệm hay chuyên tâm? Cho nên chúng ta phải triệt để
tin tưởng niệm Phật nhất định được vãng sinh.
Thứ tư, tin quả niệm Phật. Quả niệm Phật là gì?
Chư thượng
thiện nhân vãng sinh Tây phương Cực lạc thế giới, là quả niệm Phật, bởi vì
họ đều nhờ nhân niệm Phật mà được vãng sinh. Gọi là tin quả niệm Phật,
chính là tin sâu chư thượng thiện nhân, đều nhờ nhân niệm Phật mà được
vãng sinh. Hiện tại chúng ta niệm Phật, tương lai nhất định sẽ đạt được
quả vãng sinh.
2.- Thệ nguyện khẩn thiết
Nguyện, chính là chí nguyện. Chúng ta tin pháp môn niệm Phật, phát tâm
niệm Phật, cần phải phát thệ nguyện khẩn thiết để cầu vãng sinh thế giới
Cực lạc. Nếu chỉ tín hoặc niệm, mà không phát nguyện vãng sinh, thì cho dù
tín một cách chân thành, niệm siêng năng cách mấy, khi lâm chung cũng
không thể được Phật tiếp dẫn vãng sinh, đây không phải là Phật không đến
tiếp dẫn, mà là vì chính quý vị không có tâm
nguyện. Ví dụ như tôi rất mong muốn
những người trên đường vào chùa Lôi Âm chúng tôi nghe giảng pháp,
nếu trong đó có người muốn đi thì tôi vừa bảo là họ hoan hỷ đi theo tôi
ngay; còn đối với những người không muốn đi, bảo họ đi họ đã không đi,
thậm chí còn mắng lại là đồ vô duyên nữa. Phật cũng thế, quý vị muốn đi
Phật mới tiếp dẫn quý vị, quý vị không muốn đi Phật không thể miễn cưỡng
tiếp dẫn quý vị đi. Cho nên những người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ thì
không thể không phát thệ nguyện khẩn thiết, người xưa nói “nguyện bất
thiết bất sinh Tịnh Ðộ”, lời nói này quả chân thật không hư dối!
Có người nói với tôi, tôi niệm Phật cũng đã
từng phát nguyện, nhưng nguyện được mấy ngày
rồi quên mất, không thể giữ lâu dài,
lại càng không thể khẩn thiết,
thầy có cách gì giúp tôi giữ tâm nguyện lâu dài và được khẩn thiết
chăng? Lúc ấy tôi nói với họ: Quý
Phật tử muốn giữ tâm nguyện lâu
dài và khẩn thiết, tất nhiên là có cách: thứ nhất, đối với thế giới hiện thực cần phải có tâm lý chán lìa
triệt để; thứ hai, đối với thế giới lý tưởng cần phải có nguyện vọng vui
cầu tích cực. Nhưng phải như thế nào mới có thể đối với thế giới hiện thực
sinh khởi tâm lý chán lìa triệt để? Ðây phải thường phải quan sát đời
người hiện thật vô thường, khổ, bất tịnh; thế giới hiện thực là ác trược,
nguy hiểm, không có chỗ nào đáng lưu luyến. Thường tư duy quán tưởng như
thế, thì đối với tự nhiên giới sẽ sinh tâm lý chán lìa. Lại phải thế nào
mới có thể đối với lý tưởng giới khởi nguyện vọng vui cầu tích cực? Ðây
phải thường quán tưởng thế giới Tây phương Cực lạc, là “Pháp Tạng Bồ tát
(tên của Phật A Di Ðà) nhờ đại nguyện lực mà thành tựu thiện căn xuất
thế”, là “Phật A Di Ðà nhờ lực khéo trụ
trì mà đáng bậc Pháp vương”, đầy
đủ vô lượng trang nghiêm mỹ diệu; Phật A Di Ðà
và thân tướng của các Bồ tát thành tựu
nhờ vô lượng công đức, ánh sáng vô lượng, trang nghiêm
không gì sánh bằng. Thường tác quán như
vậy thì đối với thế giới Tịnh độ
của lý tưởng giới tự nhiên sẽ khởi nguyện vọng tích cực vui cầu.
Triệt để chán lìa thế giới hiện thực,
tích cực vui cầu thế giới lý
tưởng, thì tâm nguyện tự nhiên sẽ khẩn
thiết. Có tâm nguyện khẩn thiết rồi,
thì ngày vãng sinh là chắc chắn!
3.- Thực tiễn thỏa đáng
Chúng ta học Phật, cầu vãng sinh Tịnh độ, trước hết tất nhiên là phải có
tín, thứ đến là nguyện, và cuối cùng càng cần thiết hơn là phải có hạnh,
hạnh chính là thực tiễn. Nếu như không có
hạnh, tuy vẫn có tín có nguyện, nhưng tín ấy nguyện ấy chỉ là hư
nguyện hư tín mà thôi, chẳng giúp ích được gì. Cho nên tín nguyện
hạnh như đỉnh ba chân, thiếu một không thể được. Chúng ta muốn cầu
sinh Tịnh độ, cần phải lấy tín nguyện để dẫn đường cho hạnh, lấy hạnh để
thực hành tín nguyện, như vậy, mới có thể đạt được kết quả như dự tính.
Nhưng, hạnh muốn nói ở đây là hạnh gì? Chính là niệm Phật. Nhưng
niệm
Phật có rất nhiều cách niệm khác nhau, có thật tướng niệm Phật,
quán tưởng
niệm Phật, quán tượng niệm Phật, rồi trì danh niệm Phật... và...
nhưng
trong rất nhiều cách niệm này, chỉ có trì danh niệm Phật là thỏa
đáng nhất! Bởi vì trì danh niệm Phật đã dễ học lại dễ hành, lại đạt được
kết quả
cao, chỉ một câu A Di Ðà Phật niệm rõ ràng, thông suốt là được.
Có người nghi hỏi: Một câu A Di Ðà Phật chỉ có bốn chữ, có thể lìa Ta bà
sinh Tịnh độ được sao? Cứu cánh mấu chốt này ở chỗ nào?
Ðây thật là một vấn đề, nhưng giải đáp lại rất đơn giản.
Thứ nhất, chúng ta sở dĩ cứ chịu khổ mãi ở trong thế giới Ta bà này, là
bởi trong lòng chúng ta có quá nhiều phiền não, phiền não như đêm tối; A
Di Ðà Phật là vạn đức hồng danh, như ánh sáng. Ánh sáng chiếu vào đêm tối,
đêm tối tất bị tiêu diệt; danh hiệu Phật đi vào phiền não, phiền não tất
sẽ không còn.
Thứ hai, chúng ta sở dĩ không thể giải thoát sinh tử là do sự chiêu cảm
của ác nghiệp, ác nghiệp như độc của mũi tên, A Di Ðà Phật là vạn đức hồng
danh, thí như trống trừ độc; trống trừ độc vừa vang lên, độc tức khắc tiêu
trừ, vừa niệm một niệm A Di Ðà Phật, ác nghiệp tiêu ngay lập tức. Ðiều
đang nói đây vẫn còn là phương diện tiêu cực, nếu nói phương diện tích
cực, niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, còn có thể tăng trưởng vô lượng công
đức. Niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, một mặt đã trừ được phiền não, tiêu
nghiệp chướng, thì Ta bà đau khổ tất sẽ được lìa; mặt khác lại có thể tăng
trưởng công đức, được Phật tiếp dẫn, thì Cực lạc an vui chắc chắn được
sinh. Cho nên nói một câu danh hiệu A Di Ðà, tức khắc được lìa Ta bà sinh
Tịnh Ðộ.
Nếu chư vị có thể đem đạo lý vừa nói trên đây, suy nghĩ cho sâu sắc, đồng
thời thiết thực thực hành được đầy đủ ba món tư lương Tín Nguyện Hạnh
thì Tịnh độ Cực lạc chắc chắn sẽ có chỗ cho quý vị.
LƯỢC THUYẾT PHÁP MÔN VÃNG SINH AN LẠC ÐỘ
TÍN
Pháp môn niệm Phật vãng sinh Tịnh Ðộ, không ra ngoài ba điểm trọng yếu
Tín, Nguyện, Hạnh.
Tín, có nghĩa là sau khi dứt hết mọi nghi ngờ, hiểu rõ rốt ráo, chí tâm
quyết đạt đến mục đích. Tín có ba: Tín tự tâm, tín Phật độ, tín pháp môn.
Tín
tự tâm
1.-
Tin bản tâm của chính mình xưa nay không hề sinh diệt, không có khởi đầu
không có kết thúc, liên tục mà hằng hữu, tùy duyên mà chuyển biến. Sinh ra
rồi chết đi, tuy nhiên chết mà không đoạn mất; chết đi rồi lại sinh ra,
tuy sinh ra nhưng chẳng phải thường; chiêu quả mà có nhân, rồi nhân chín
mùi thành quả, chứ chẳng phải tình cờ một đời, cho nên phải cầu niềm vui
chân thật vĩnh viễn. Vì nghiệp mà thọ thân này, rồi thân này lại đi tạo
nghiệp, vì không thể một đời liễu được sinh tử, cho nên cần phải suy nghĩ
cho thấu đáo. Nổi lên chìm xuống trong biển khổ sinh tử, mơ hồ trong sáu
thú, biết rồi trôi nổi về đâu! Mờ mịt trong tam đồ, rồi bị chưng nấu, bị
giam cầm, mổ giết, đáng sợ biết bao! Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay được nghe, hãy nhanh lên: “Một tấc thời gian một
tấc vàng, tấc vàng khó đổi tấc thời gian”. “Con rùa mù gặp được bọng cây,
danh hiệu Phật hãy nhanh trì niệm”. Cho nên nói: “Thân này nếu không đời
này độ, lại đợi đời nào mới độ thân”.
2.-
Tin bản tâm của chính mình vốn là chân tánh, tức Phật tánh, cho nên chính
mình vốn đầy đủ Phật tánh, xưa nay vốn đủ trí tuệ đức tướng Như lai. Nếu
được thiện tri thức dẫn đường, quy y Tam bảo Phật Pháp Tăng, siêng năng tu
tập tất sẽ chứng đắc. Cho nên nói: “Khuyên anh nỗ lực đầu sông vượt, chắc
chắn trên thuyền ngập ánh trăng.”
3.-
Tin chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay, đã từng làm trời, cũng đã từng sinh
làm người. Tất cả chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng trong ba đời
mười phương thế giới, đã từng phân thân hằng hà sa số nhiều như cát bụi để
lợi ích quần sinh, chính mình cũng đã từng nhiều đời gây phước huệ, gieo
trồng thiện căn, cho nên đời nay mới được nghe Phật pháp, lại được phát
khởi tâm tín nguyện. Tuy vì mê muội không tự giác biết, nhưng phải tin
rằng thường được chư Phật hộ niệm, cho nên cần phải phát tâm tinh tấn dõng
mãnh, lập chí kiên xác bền chắc. Chư Phật chư Bồ tát đại từ đại bi, đại
hùng đại lực trong ba đời mười phương, không có chỗ nào là không cảm ứng,
không có căn cơ nào là không nhiếp phục, chính mình quả có tín kính tu
tập, chắc chắn chư Phật Bồ tát sẽ cứu độ tiếp dẫn. Hãy xem những người
vãng sinh Tịnh độ bất luận là nam nữ tăng tục, cũng đều nhờ lực thiện căn
nhiều đời, lực tu tập kính tín hiện kiếp, lực chư Phật Bồ tát cứu độ tiếp
dẫn, tất cả đều được vãng sinh Tịnh độ, thành đại Bồ tát; ta cũng như thế,
có nguyện tất thành tựu. Cho nên nói: “Ai kia trượng phu ta đây cũng thế,
không nên tự khinh khi rồi thoái khuất.”
Tín Phật độ
1.-
Tin Phật A Di Ðà trước kia cũng là phàm phu như ta, từ bỏ vương vị theo
Phật xuất gia, phát tâm đại Bồ đề, bốn mươi tám đại hoằng thệ nguyện,
nhiều đời lập hạnh không thoái chuyển. Nhờ lực hạnh nguyện và lực thiện
căn những chúng sinh được giáo hóa thành thục mà thành tựu cõi Tịnh độ
trang nghiêm, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với những người
cùng nguyện hạnh đồng sinh trong ấy, thọ mạng, quang minh vô lượng, cho
nên gọi là Cực lạc thế giới A Di Ðà Phật.
2.-
Tin từ cõi Ta bà thế giới này, đi thẳng về hướng Tây, qua một trăm ngàn ức
cõi Phật, quả thật có một thế giới An lạc, là cõi Tịnh độ Phật A Di Ðà
giáo hóa, hai đại Bồ tát Quán Âm, Thế Chí, đến vô lượng vô số Bồ Tát Thánh
Hiền Tăng trong biển lớn thanh tịnh thường cùng nhau nhiễu quanh Phật nghe
Phật thuyết pháp, hành theo pháp Phật, từ Phật pháp nhân chứng Phật pháp
quả, vĩnh viễn lìa khỏi khổ nạn, được đại giải thoát, thần thông diệu
dụng, hóa thân khắp mười phương, tu Phật công đức, thu nhiếp những ai hữu
duyên đều về Tịnh độ. Hết thảy đều hoa sen hóa sinh, tùy theo tín tâm sâu
cạn, nguyện lực lớn nhỏ, hành công viên thiên mà có sự khác nhau về phẩm
vị – ba phẩm thượng, ba phẩm trung, ba phẩm hạ: ba phẩm hạ là những phàm
phu mang nghiệp vãng sinh; ba phẩm trung là những Thánh chúng đoạn hoặc
chứng chân; ba phẩm thượng là những Bồ tát hoằng trí đại bi. Phẩm hạ hạ
trở xuống, lại có cấp Nghi Thành (nghi thành là ở trong cõi Tịnh độ Phật A
Di Ðà, hành giả dùng tâm nghi hoặc tu thành tựu các công đức), để rộng
nhiếp những người tội ác sâu nặng hoặc tín nguyện hèn yếu, khiến cho sau
khi được sinh lên nước An lạc, hối ác tu thiện, dứt nghi sinh tín, cũng
được hoa nở thấy Phật. Tuy có sự khác nhau về ba bậc chín phẩm, nhưng một
lần đã thừa nguyện vãng sinh thì tất cả đều được vĩnh viễn ra khỏi khổ
sinh tử, cuối cùng thành tựu quả Phật. Một lần hoa nở thấy Phật đều được y
thực như ý, được vô lượng thọ, thân tâm tự do, đi khắp vô lượng cõi nước.
Chim hót cây reo đều là tiếng pháp nhiệm mầu, Bồ tát Thánh chúng đều là
bạn lành. Hết sức an vui, chí mỹ chí thiện, sạch sẽ trong ngần, chân
thường cùng tột cho nên gọi là Phật vô lượng thọ, vô lượng quang, cực an
lạc Tịnh độ.
Tín pháp môn
1.-
Tin pháp môn niệm A Di Ðà Phật vãng sinh thế giới Cực lạc, chính do kim
khẩu Ðức Thích Ca Mâu Ni, là vị giáo chủ của ba ngàn đại thiên thế giới
nói ra, có Bồ tát Di Lặc, ngài Xá Lợi Phất và hoàng hậu Vi Ðề Hi lắng
nghe; ngài A Nan phụng thừa kết tập lưu truyền; tức nay là Vô Lượng Thọ
Kinh, Phật Thuyết A Di Ðà Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh vậy. Ngoài ra
những Kinh Luận quán niệm Phật A Di Ðà vãng sinh cõi nước An lạc còn nhiều
lắm, nói không thể hết, xin duyệt đọc trong Ðại tạng. Lúc Phật nói Kinh Vô
Lượng Thọ, Xá Lợi Phất cùng các vị đại A La Hán, Di Lặc cùng chư vị Bồ
tát, với vô lượng không cùng tận chư thiên chư tiên, nhân và phi nhân...
đều phát nguyện vãng sinh. Lúc Phật nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ, hoàng hậu
Vi Ðề Hi y pháp tu trì, lập tức vãng sinh nước An lạc. Lúc Phật nói Kinh A
Di Ðà, vô số quốc độ Phật sáu phương Ðông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và
phương dưới, Phật A Súc cùng vô lượng chư Phật đều khen ngợi Ðức Phật Bổn
Sư Thích Ca, ở trong thế giới năm trược này khéo nói pháp môn tối phương
tiện thù thắng này. Lịch đại Tổ sư Thánh hiền thiện tín tán dương tu tập
được vãng sinh, là việc càng hy hữu, cho nên phải tin pháp môn tối chân
tối tôn này.
2.-
Tin pháp môn niệm Phật vãng sinh thế giới An lạc này, dưới từ chúng sinh
cực ác, trên đến Ðẳng giác Bồ tát đều được tu chứng. Những chúng sinh sinh
vào phẩm hạ hạ và hoa sen sắt, tức là những người đã tạo tội ngũ nghịch
(giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng, ác tâm làm thân Phật
chảy máu), làm mười điều ác (sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai
lưỡi, nói lời hoa mỹ, nói lời độc ác,
tham lam, sân hận, si mê) đáng
bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh,
nhưng khi nghe pháp môn này khởi tín, phát
nguyện, tu hành được vãng sinh vậy.
Những chúng sinh sinh vào trung
phẩm, tức là những người siêng
năng trì ngũ giới, làm mười điều thiện, hoặc có tu chút ít thiền
định, đáng lẽ sinh vào đường làm người, làm thần, làm trời dục giới, nhưng
khi nghe pháp môn này khởi tín, phát
nguyện, tu hành được vãng sinh. Xem trong Vãng Sinh Tịnh Ðộ Thánh
Hiền Lục, từ những bậc đại Thánh Hiền, cho đến dâm nữ, những kẻ làm nghề
đồ tể, chim chuột ếnh nhái đều có vãng sinh, thì có thể biết. Những chúng
sinh sinh vào thượng trung phẩm, tức là những Bồ tát từ Hoan hỷ địa cho
đến Viễn hành địa. Những chúng sinh sinh vào thượng thượng phẩm, tức là
những Bồ tát từ Bất động địa đến Ðẳng giác địa. Xem trong Kinh Hoa Nghiêm
Bồ tát Phổ Hiền cũng phát nguyện vãng sinh, thì có thể biết vậy. Cho nên,
nên tin pháp môn này quảng đại nhất tối thắng nhất.
3.-
Tin pháp môn niệm Phật vãng sinh thế giới An lạc này, lý tánh của nó tuy
không thể cùng tận, công đức của nó tuy bất khả tư nghì, nhưng Phật A Di
Ðà lúc trong nhân địa tu hành, đã từng phát đại nguyện nếu có chúng sinh
nào trong mười phương thế giới xưng niệm danh hiệu Ngài, Ngài sẽ tức khắc
hộ trì tiếp dẫn vãng sinh. Cho nên trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật Thích Ca
nói: Niệm danh hiệu Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, tức tự biết được
vãng sinh Tịnh độ. Cho nên hễ đã vãng sinh Tịnh độ, thì tiến thẳng đến
thành Phật, vĩnh viễn không còn quanh co, không còn thoái chuyển. Chỉ cần
niệm niệm nhớ nghĩ sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật” không chút lơi lỏng, tức
được đầy đủ lý tánh vô cùng tận và công đức bất khả tư nghì. Pháp môn Tịnh
độ là con đường dễ đi nhất, chỉ cần mỗi sáng thức dậy xưng niệm danh hiệu
A Di Ðà Phật trọn mười hơi thở, cũng chắc chắn được vãng sinh vào ngôi bất
thoái, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, thẳng đến thành Phật. Cho nên gọi
pháp môn này là pháp môn hoành siêu tam giới, một lần đã siêu là thẳng đến
quả Phật, không như những người tu chứng từ những pháp môn khác, ban đầu
phải từ trì giới hành thiện để ra khỏi ba đường ác, kế đó phải tu tập
thiền định để thoát ra Dục giới, lại tu Bát nhã để vượt ra Sắc, Vô sắc
giới, đến đây vẫn còn chưa được vào quả vị Bồ Tát Chánh Ðịnh Tụ, trong
khoảng thời gian từ sơ hành trì cho đến ra khỏi Vô sắc giới, e rằng còn sợ
phải trồi lên hụp xuống! Sao bằng được pháp môn này chỉ từ quy y Tam bảo
Phật Pháp Tăng thế giới Ta bà mà quy y sang Phật Pháp Tăng thế giới Cực
lạc, tức được đốn siêu tam giới? Cho nên nên tin vào pháp môn này dễ dàng
nhất, diệu dụng nhất.
NGUYỆN
Tín
tâm đã lập rồi, nhưng nếu không phát nguyện thì cũng như người mắc bệnh,
tuy được thuốc hay, biết rằng uống vào sẽ lành bệnh, thân thể cường tráng,
thêm lớn tuổi thọ. Giả sử nếu người bệnh không muốn thân thể khỏe mạnh,
mặc cho bệnh tật hoành hành, hoặc dối bảo tôi chẳng bệnh tật gì cả, cơ thể
tôi hoàn toàn mạnh khỏe, chẳng cần thuốc này, rồi không uống, thì không
thể có một thân thể khỏe mạnh, thọ mạng lâu dài. Nay đây cũng thế, nếu
không muốn lìa Ta bà, không muốn vãng sinh Cực lạc, thì vẫn không quan hệ
gì với pháp môn này. Cho nên lập Tín cần phải có Nguyện trợ giúp. Ðại khái
nguyện có ba:
a/ Luôn nghĩ chán Ta bà dơ nhớp, ham thích vãng sinh Tịnh độ an lạc.
Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ của cõi Ta bà uế trược này thừa nguyện đại
bi cứu khổ, dặn dò khuyên bảo chúng ta nên chán lìa thế giới nhơ uế này,
ham thích vãng sinh thế giới Cực lạc.
Chúng ta chỉ có thuận theo lời Phật dạy, y giáo phụng hành, mới được gọi
là người quy y Phật pháp, không cô phụ ân Phật vậy. 1/ Chán châu Diêm Phù
Ðề này – địa cầu mà chúng ta ở đây tức ở trong châu này – nội, ngoại, cộng
tam y câu khổ, nên muốn thoát ly; ham thích Cực lạc Tịnh độ – nội, ngoại,
cộng tam y câu lạc, nên muốn vãng sinh. Thế nào gọi là nội, ngoại, cộng
tam y câu khổ? Nghĩa là trong thì y vào tự thân mà có đói khát, nóng
lạnh, mệt nhọc, dâm dục, các khổ sinh, già, bệnh, chết...; ngoài thì y vào
cảnh tự nhiên mà có các khổ mưa gió, sấm chớp, gió bão, chướng khí, khói
bụi, cát đá, gai góc, gồ ghề, sóng gió, cọp, sói, rắn rít, muỗi mòng...;
cộng tam y câu khổ thì y vào người và cảnh mà có các khổ kiềm chế, mắng
chửi, tranh đoạt, tổn hại, dâm loạn, hung dữ, gian hiểm, lừa dối, cưỡng
chế, trộm cắp, bắt bớ, đao, tên, gươm, giáo, thuốc độc, lao ngục, cho đến
thương yêu mà phải xa lìa, ghét nhau lại phải sống chung, anh em chém giết
lẫn nhau, cầu sống không được, muốn chết chẳng xong... cho nên cõi này khó
mà nhẫn chịu, thật là biển khổ; con người trong cõi này, lại là mối họa
của biển khổ. Ðã vãng sinh thế giới An lạc thì vĩnh viễn thoát khỏi những
khổ ách này. Hóa thân như ý, nên nội y chỉ có vui mà không có khổ; thọ
cảnh xưng tâm, nên ngoại y chỉ có vui mà không có khổ; thiện hữu câu hội,
nên cộng y chỉ có vui mà không có khổ. 2/ Chán thế giới Ta bà này, địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh, quỷ thần chan chứa, tuy được sinh lên cõi trời đi
nữa, cõi trời cao nhất tuổi thọ cũng không quá chín triệu tuổi, cũng còn
cái khổ tướng suy, tranh đấu. Cho dù có sinh lên đến cõi trời Phi tưởng
phi phi tưởng đi nữa, tuổi thọ cũng không quá tám vạn đại kiếp. Vẫn còn bị
chấp tâm hạn chế, không thể tự tại, khi quả báo hết, cũng bị đọa lại trong
tam đồ. Rồi lại bị quay, nướng, cắt cổ, nhổ lông, hoặc làm quỷ, hoặc làm
thần, lúc làm trời, lúc làm người, luân hồi bất định, vào ra liên tục,
nguy hiểm vô cùng, đáng sợ biết bao! Không chỉ làm người không ham, mà
ngay làm trời cũng chẳng đoái – nếu có ý niệm muốn niệm Phật để sinh
thiên, nên biết đây là ma niệm, phải diệt trừ ngay. Có ai khuyến niệm Phật
cầu đời sau làm người giàu có, hoặc hưởng phước báo cõi trời, nên biết đó
là quỷ niệm, chớ nên nghe theo – nên nguyện thoát khỏi ba cõi, cầu sinh
thế giới Cực lạc. Cõi An lạc ấy, ngay cả cái tên ba đường ác cũng không
có, hễ vãng sinh lên cõi ấy, thì là thiện nhân, hiền nhân, chân Thánh, đại
Thánh, chỉ có tiến lên thêm chứ không có thoái chuyển, chỉ có được chứ
không có mất, cứu cánh thành Phật, cực kỳ an ổn, vĩnh viễn không còn lo
âu. Không chỉ thượng phẩm đáng quý, mà hạ phẩm cũng rất đáng mộ, nên quyết
nguyện vãng sinh. 3/ Chán cõi Ta bà nhơ nhớp này, tối tăm cách trở. Cửu
Ðịa chư thiên cũng còn bị câu ngại bởi tâm cảnh, không thể thông đạt với
nhau; xuống đến dục giới Ngũ Thú Tạp Cư Ðịa, cũng lại chia làm ba cõi,
không thể thấy nghe nhau, không thể qua lại với nhau. Một là, cõi trời qua
lại thấy nghe chỉ có trời với tiên thần; hai là, cõi người qua lại thấy
nghe chỉ có người với súc sinh; ba là, cõi quỷ qua lại thấy nghe chỉ có
quỷ với địa ngục. Lại nữa ít biết túc mệnh, chẳng rõ lòng người, không ai
chẳng tăm tối hôn mê, nên quyết nguyện
vãng sinh; thích thế giới Cực lạc hiển hoát khai thông, mắt Thánh
thấy suốt lẫn nhau, tai Thánh nghe thông lẫn nhau, biết rõ lòng người, túc
mạng thanh tịnh, thân cảnh không chướng ngại nhau, pháp tánh viên dung,
ánh sáng chiếu soi khắp chỗ, nên quyết nguyện vãng sinh.
b/ Nguyện sớm vãng sinh nước An lạc, đoạn tận mọi phiền não thành Vô
thượng Chánh giác
Ở
thế giới Ta bà này, tuy phát tâm thành Phật, nhưng vì ác duyên đầy dẫy,
thiện duyên quá ít, nên tu hành rất khó, phần nhiều đều bị thoái thất, mấy
ai được thành Phật. Vãng sinh thế giới Cực lạc rồi, tức đầy đủ nhân thành
Phật, đầy đủ duyên lành, hoàn toàn không có ác duyên, tu hành rất dễ, nhất
định không thoái thất, hết thảy đều được thành Phật. Vì thành Phật, nên
nguyện vãng sinh Tịnh độ, đó mới chính là tâm đại trí của Bồ tát. Nếu
không nguyện, thì tuy được vãng sinh đi nữa, cũng không sinh vào ngôi
thượng phẩm.
c/ Nguyện sớm vãng sinh Tịnh độ, được học vô lượng pháp môn và độ vô biên
chúng sinh
Ở
thế giới Ta bà này mà muốn một đời thành tựu hạnh Phật Bồ tát, đầy đủ trí
tuệ công đức của chư Phật Bồ tát, thông đạt vô lượng pháp môn phương tiện,
khéo tùy thuận tất cả căn tánh chúng sinh để hóa độ, khó vô cùng tận!
Nhưng nếu hễ vãng sinh Tịnh độ, hoa khai kiến Phật, chứng vô sinh nhẫn,
tức thâm đạt ngay thực tướng, thông khắp pháp tánh, phân thân mười phương
cõi nước, rộng độ vô lượng chúng sinh. Vì độ sinh, nên nguyện vãng sinh
Tịnh độ, đó mới chính là tâm đại bi của Bồ tát. Nếu không nguyện, thì tuy
được vãng sinh đi nữa, cũng không sinh vào ngôi thượng phẩm.
HẠNH
Có tín chân nguyện
thiết, nhưng nếu không thực hành tu tập, thì cũng như người bệnh tuy muốn
uống linh đơn diệu dược để trị bệnh, hòng thân thể khỏe mạnh, kéo dài mạng
sống, nhưng lại không uống theo đơn trị liệu, thì linh đơn diệu dược này
cũng chẳng ích gì, không thể có hiệu quả; đây cũng như vậy. Cho nên tín đã
lập, nguyện đã đủ, cần phải có thêm hạnh trợ giúp. Ðại khái hạnh cũng có
ba:
A/
Thông hạnh
Một
là, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, cứu giúp sinh linh. Hai là, đầy
đủ tướng quy Phật, quy Phật pháp, quy Phật pháp tăng, trì giới tu các
phước lành. Ba là, có tâm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tin nhân
biết quả. Ba hạnh này là hạnh thông thường của người tin Phật, và Kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng hạnh này lấy làm hạnh trọng yếu trên bước
đường vãng sinh Cực lạc.
B/
Chánh hạnh
Chánh hạnh, tức là niệm Phật A Di Ðà. Vì cầu vãng sinh Cực lạc, chỉ chuyên
nhất niệm một danh hiệu A Di Ðà Phật. Niệm Phật A Di Ðà, có:
Giác tánh niệm, Quán tướng niệm, Trì
danh niệm. Theo như chư hiền triết cổ kim chứng nghiệm bản thân
nói, thì đơn giản nhất, diệu dụng nhất là trì danh niệm Phật. Pháp trì
danh niệm Phật lại có ba loại:
Một, niệm định công khóa mỗi ngày
Lại
cũng có hai: 1/ Là mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi tắm rửa xong, đến
trước tượng Phật hoặc kinh Phật, thân trang nghiêm, mặt quay về hướng Tây,
xướng quy y Phật lạy một lạy, quy y Pháp lạy một lạy, quy y Tăng lạy một
lạy, xướng Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật lạy một lạy, Nam mô A Di Ðà
Phật lạy một lạy, Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát lạy một lạy, xướng Nam mô
Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật ba lần, lạy ba lạy;
rồi sau đó hoặc quỳ hoặc ngồi, hoặc vẫn đứng tùy ý; hoặc niệm ra tiếng,
hoặc niệm thầm bốn chữ A Di Ðà Phật tùy hơi thở dài ngắn, niệm trọn mười
hơi. Niệm xong, lại xướng Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi
A Di Ðà Phật lạy một lạy, Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát lạy một lạy, Nam mô
Ðại Thế Chí Bồ tát lạy một lạy, rồi tụng kệ phát nguyện rằng: “Nguyện
sinh Tây phương Tịnh độ trung, chín phẩm hoa sen là cha mẹ, hoa nở thấy
Phật ngộ vô sinh, bất thối Bồ tát là bạn lữ”. Nếu y như đây ngày ngày hành
trì không gián đoạn, mạng chung chắc chắn vãng sinh nước Phật. Nếu như
những ai phải làm việc ngoài đồng, không thể đối trước tượng Phật lễ bái,
thì chắp tay quay mặt về hướng Tây, chỉ niệm A Di Ðà Phật và tụng kệ hồi
hướng cũng đủ phép vậy. 2/ Ðịnh công khóa mỗi ngày mấy lần, niệm bao nhiêu
giờ, lần chuỗi niệm Phật. Mỗi ngày định khóa niệm mấy trăm, mấy ngàn, mấy
vạn tùy ý, nhưng phải tăng dần không để giảm sút. Mỗi thời phải lễ bái
xướng tụng như trên, theo đó mỗi ngày hành trì không gián đoạn, lâm chung
quyết định vãng sinh.
Hai, hằng thời tùy duyên niệm
Trong tất cả thời, tất cả chỗ, tùy tất cả duyên, làm tất cả việc, đi đứng
nằm ngồi, nói nín động tịnh, thấy nghe hiểu biết, sắc thanh vị xúc, tâm
suy nghĩ, ý quán sát, tức nhiếp sáu căn bằng danh hiệu Nam mô A Di Ðà
Phật. Nếu thấy con vật bị giết mà không thể cứu, nên niệm Nam mô A Di Ðà
Phật, độ thần thức nó vãng sinh Tịnh độ. Nếu gặp người bệnh mà không thể
giúp, nên niệm Nam mô A Di Ðà Phật, quên đi đau đớn mà vãng sinh An lạc,
đồng thời nên thuyết cho họ nghe về những niềm vui ở cõi Cực lạc và nguyện
lực của Phật, khuyên họ chuyên niệm cầu sinh Tây phương. Nếu gặp những kẻ
nhàn hạ, nên niệm Nam mô A Di Ðà Phật, mong họ tĩnh lặng không móng khởi
tạp loạn. Nếu gặp người lao động vất vả, nên niệm Nam mô A Di Ðà Phật,
mong họ siêng năng, mùa màng bội thu, khiến được yên nghỉ. Nói tóm lại,
chỉ là một câu Nam mô A Di Ðà Phật tịnh niệm tương tục mà thôi. Nhưng hạnh
này thật không dễ hành, tốt nhất nên kiêm tu niệm định công khóa mỗi ngày
nữa, ngoài công khóa đã định mỗi ngày, chính là tu hằng thời tùy duyên
niệm này. Như vậy thật là trăm ngàn ổn thỏa.
Ba, kỳ hạn thủ chứng niệm
Sau
khi thôi nghỉ việc đời, bỏ hết gia duyên, hoặc một mình, hoặc cùng thiện
hữu tri thức, hoặc ở chùa, hoặc ở tịnh thất, hoặc kỳ hạn một ngày một ngày
cho đến bảy ngày, bảy ngày cho đến bốn mươi chín ngày, năm ba tháng cho
đến một năm, một vài năm cho đến trọn đời lễ kính Phật pháp, sám hối tội
chướng, tụng Kinh Tịnh Ðộ Vãng Sinh và các kinh luật Ðại thừa, lòng lúc
nào cũng phát nguyện cầu sinh Cực lạc, ngày đêm sáu thời đi đứng nằm ngồi,
không rời câu A Di Ðà Phật, kỳ hạn cho mình phải niệm thành nhất tâm bất
loạn, thân chứng niệm Phật Tam muội, hiện tiền tức được thấy rõ ràng Tịnh
độ Tây phương an lạc và chư đại Bồ tát câu hội nhất xứ, vậy thì tuy chưa
xả báo thân ở cõi Ta bà, nhưng đã chứng được quả Cực lạc rồi vậy. Cho nên
những người tu theo hai cách trên, mỗi năm nên tổ chức niệm Phật bảy lần
là tốt nhất.
C/ Trợ hạnh
Tùy
hỷ tùy sức tu hành bố thí tài, như là ấn tống kinh sách, xây chùa tạo
tượng, trai tăng, phóng sinh, xây dựng cầu cống, uỷ lạo giúp người nghèo
khó, nuôi dưỡng trẻ mồ côi người già cô độc... Tùy hỷ tùy sức tu hành bố
thí pháp, như là hiếu dưỡng cha mẹ, dạy người hiếu thảo với cha mẹ, giúp
đỡ nước nhà, dạy người giúp đỡ nước nhà, thọ tam quy, dạy người thọ tam
quy, hành trì năm giới, dạy người hành trì năm giới, tự niệm Phật A Di Ðà,
dạy người niệm Phật A Di Ðà, mình tụng kinh điển đại thừa, dạy người tụng
đọc Kinh điển Ðại thừa, cho đến mở pháp hội lớn, xây dựng đại pháp
tràng... Nói tóm lại, phàm là những điều lành, không điều gì là không tự
nêu gương, và nhất nhất đều hồi hướng vãng sinh Tây phương Cực lạc, không
cầu phước báo trời người thì vạn thiện đồng quy, đồng quy Tịnh độ.
Ngài Thái Hư nói: Là người tu
pháp môn này, như bỏ hết chỉ nắm lấy một vật. Tín như con mắt, cần phải
nhìn thấy cho rõ ràng, đích xác vật ấy, chính xác là vật đáng lấy, chính
xác là vật ta có khả năng lấy, sau đó mới lấy nó. Hành như đôi chân, cho
dù từ xa mắt đã thấy mà chân không bước thì không thể lấy, rồi chân bước
mà không giương tay ra nắm lấy thì cũng không thể được. Như vậy phải vận
hành đồng thời cả mắt, tay, chân mới lấy được vật. Cho nên không chỉ có
Tín, mà phải có cả Hạnh Nguyện; có Nguyện, không thể không có Tín Hạnh; có
Hạnh, cũng không thể thiếu Tín Nguyện; hoặc là có Tín Nguyện không thể
không có Hạnh, có Nguyện Hạnh không thể thiếu Tín, có Tín Hạnh tất phải có
Nguyện vậy. Phật thừa diệu giác, gọi là Tín, Nguyện, Hạnh. Xác thật được
có được ở đó, chính là pháp môn niệm A Di Ðà Phật vãng sinh Tịnh độ. Nắm
chắc điều này, chỉ có ở con người vậy.
--- o0o ---