Trong
bài thơ “Đi chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp được yêu thích trong văn học sử
thời trước 1945, có bà mẹ dậy sớm, sửa soạn khăn gói lên đường đi lễ chùa Hương
cùng với chồng và cô con gái vừa tuổi trăng tròn. Mẹ âu yếm nhìn con trang
điểm; con làm đỏm với giọng thơ ngây:
Nhưng
em chưa lấy ai
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm
Ý đợi người tài trai
Cả
nhà trang trọng lên đường, qua sông, vượt suối, leo dốc, trèo non. Một dốc rồi
lại một dốc, có khi mỏi chân, bà mẹ khích lệ chồng con:
Mẹ
bảo đường còn lâu
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm Bồ tát
Là tha hồ đi mau
Thật
là dễ thương! Cầu gì? Cầu đi mau. Đi mau mà cũng cầu Quan Thế Âm Bồ tát. Dân
gian Việt Nam có Quán Thế Âm thân thương ở trong lòng để thốt ra nơi miệng
trong mọi hoàn cảnh. Và trong mọi hoàn cảnh, Ngài đến. Ngài đến với bất cứ ai
có Ngài ở trong lòng. Bà mẹ chùa Hương gọi Ngài, chắc Ngài đến ngay với đôi
chân của bà vì bà đi chùa với tất cả lòng thành, từ sớm đến chiều, từ sông đến
suối. Trong toàn bài thơ, không thấy bà cầu gì nữa, nhưng bỗng nhiên cô con gái
gặp ý trung nhân, “yêu nhau yêu nhau mãi”, mới một quãng đường, em đã hết “còn
bé lắm”.
Tôi
không ganh với bà mẹ chùa Hương vì tôi biết tôi thua bà: miệng bà niệm, tâm bà
nghĩ đến Bồ tát, Bồ tát nằm ngay trong lòng bà, nằm ngay trên miệng bà, cho nên
chân bà bước nhanh, cho nên cô con gái hưởng phước. Tôi, tạm gọi là trí thức,
quen làm việc với cái đầu, tôi phải dùng cái đầu để nghĩ đến Ngài, tôi không
gọi Ngài trực chỉ từ tâm mà kinh qua cái đầu, nếu Ngài đến với tôi chậm, chính
vì tại tôi.
Có
thể tôi giảng vanh vách về Ngài, vì tôi là trí thức. Có thể tôi có cái giật
mình triết lý khi đọc hai chữ “Quán Âm”. Quán là nhìn; Âm là tiếng: có ai nhìn
cái tiếng bao giờ đâu? Thường tình chúng ta nghe tiếng. Khác ta, Bồ tát thấy
tiếng. Tại sao? Tại vì Bồ tát không nhìn sự vật với con mắt thường mà với con
mắt tuệ; con mắt tuệ rọi sáng bản chất của sự vật, và bản chất ấy chỉ có một
thôi, đâu có phân biệt thấy, nghe, nếm, ngửi.
Trong
thế giới hiện tượng bao quanh, người thường chúng ta phải phân biệt để nhận ra
sự vật, cho nên mới có mắt, tai, mũi, lưỡi; màu sắc là lĩnh vực của mắt, âm
thanh của tai, ngọt mặn của lưỡi, thơm hôi của mũi, tất không lẫn lộn với nhau.
Vượt lên trên thế giới của hiện tượng, cái biết của con mắt tụê không phân biệt
như thế, cho nên âm thanh là màu sắc, màu sắc của vị, thơm hôi là âm thanh.
Bồ
tát có con mắt tuệ, không phân biệt, nên Quán Thế Âm Bồ tát thấy tiếng gọi của
thế gian. Ngài thấy tiếng gọi đó, vì Ngài thấy bản chất của cuộc đời là khổ.
Khổ bao la như biển, cho nên lòng Ngài cũng như biển bao la: Ngài không ở đâu
khác hơn là trong tiếng khổ. Cho nên ở đâu có khổ, ở đấy có Ngài. Ngài đến với
mọi tiếng gọi khổ, không phân biệt tốt xấu, thiện ác, như mưa rơi không phân
biệt cây lớn cỏ hèn, như mặt trời soi ánh nắng, không phân biệt, đến tận hang
sâu ngõ khuất.
Tôi
biết về Quán Thế Âm như thế, và nhiều hơn thế nữa, và tôi có thể viết hàng
trang về Ngài. Nhưng tôi biết chắc Ngài đến với tôi sau bà mẹ chùa Hương, bởi
vì tâm tôi không thành như tâm bà. Bà chỉ cần dậy sớm, “hôm nay đi chùa Hương”,
và suốt ngày bà đi chùa Hương với chùa Hương đã ở sẵn trong lòng. Bà đi chùa
Hương với tâm bình dị, trong sáng ấy, bà với đến thiêng liêng dễ hơn tôi với
tay ngắt một trái cây. Bà đi với thiêng liêng trong lòng, hồn nhiên, không suy
nghĩ, thiêng liêng với bà là một; còn tôi, cái đầu cứ loay hoay bận bịu nghĩ về
thiêng liêng, thiêng liêng với tôi là hai, làm sao gặp nhau được?
Nhưng
ít nhất, tôi biết: linh ứng là có thật, là luôn luôn có, đối với bất cứ ai tâm
sáng cùng một lần với miệng thơm. Niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì miệng phải
thơm đạo vị. Quán Thế Âm thấy mùi thơm.
(Viết
nhân đọc “Sự tích Đức Quán Thế Âm trong kinh điển và kho tàng văn học Việt Nam”
của Lệ Như- tựa của VHPG).
Cao Huy Thuần (Theo VHPG)