A. GIÁO LÝ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Phật Giáo Nguyên Thủy, lẽ ra phải chỉ về các ngôn hạnh của Phật lúc
sinh thời, và các ngôn hạnh của các đệ tử được Phật ấn khả.
Những điều này chúng ta có thể tìm thấy ở trong kinh A Hàm và
các luật bộ, mà A Hàm càng đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên hiện tại,
nội dung Kinh A Hàm so với thời kỳ kết tập lần đầu có thể thêm
bớt ít nhiều, thậm chí có thể nói nội dung của A Hàm hiện tại
không phải là hoàn toàn đung y như hồi Phật Giáo Nguyên
Thủy. Nhưng từ sự ghi chép chất phác của A Hàm ta còn có thể tìm thấy bộ
mặt thật một phần nào của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Về giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy, thật rất chất phác và đơn
giản. Đức Phật không thảo luần vòng vo về hình nhi thượng, tất
cả chỉ nhằm trình bày những kinh nghiệm về lý tính: Đức Phật dạy
người ta con đường giải thoát thực tiễn. Khi các đệ tử hỏi về
cảnh giới Niết Bàn, Ngài lặng thinh không đáp. Vì lẽ người chưa
đạt đến cảnh giới Niết Bàn, dù cho diễn tả ba ngày ba đêm họ
cũng không thể hiểu được cảnh giới thưc tế của Niết Bàn
là gì.
Đức Phật rất khéo về việc đơn giản hoá sự việc lại cũng rất khéo vận
dụng các thí dụ tại chỗ. Mỗi khi Ngài thuyết pháp cho các
đệ tử đều nói ngắn gọn không rườm rà, ít biện luận dài dòng. Nội
dung những điều Ngài khai thị không ngoài Tứ đế, Thập nhị nhân
duyên, Bát chánh đạo, nếu khai triển thật vô cùng.
Nhưng nếu anh mới bắt đầu tiếp cận Phật pháp, chưa biết tu
hành như thế nào thì trước tiên Phật dạy về thân, khẩu, ý; sống
đời trong sạch không tì vết thì khi mạng chung được tái sanh là
người. Còn "bố thí, nhân ái, làm lợi cho người, chia sẻ khó khăn
công việc với người khác" thì khi mạng chung sẽ sinh lên cõi trời
(như trong điều 7 ở phẩm Tăng Thường, Tăng Nhất A Hàm 23
và điều 4 phẩm Thiên Tụ, Tăng Nhất A Hàm 24)
Trước hết Phật dùng pháp nhân thiên, khiến cho anh thực hành theo
cách làm trời, làm người để anh trở thành người đáng kính,
làm cho căn lành của anh thêm lớn. Sau khi anh thọ trì 5 giới
cấm, Phật lại dạy cho pháp môn giải thoát. Pháp lành nhân thiên
là một thứ mọi người cùng tin giữ được, còn pháp môn giải thoát
chỉ có thể đạt đến qua kinh nghiệm chứng ngộ của Phật. Tóm
lại, Đức Phật không những không dùng quyền uy thần giáo bao che
tội lỗi và chuộc tội dùm ai, cũng không chủ trương dùng bất cứ
hình thức tế tự nào để cầu phước và giải thoát; mà là dạy người
tự mình thực hành một phương pháp rất thực tiễn. Cho nên trong
tinh thần Phật Giáo Nguyên Thủy, tất cả những mê tín và thần
thoại đều không có chỗ đứng.
B. THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Nếu lìa bản vị mà khảo sát thế giới quan, đều không phải là
bản ý của Phật. Trong kinh Tiểu Dụ, đệ tử Màlùnkyaputtà đã
hỏi: "Thế giới là thường hay vô thường? Đức Phật tồn tại hay
không tồn tại sau khi chết? Thế giới là có hạn hay vô hạn?...",
tất cả mọi vấn đề khó giải quyết. Với thái độ vô cùng từ
tốn, Đức Phật đã trả lời: "Ta không phải nói hoàn toàn như thế.
Điều đó không phải là nghĩa tương ưng, không phải là pháp tương
ưng, không phải là gốc của Phạm hạnh, không đạt được trí tuệ,
không hướng đến giác ngộ , không đến Niết Bàn". Đó là vì
Đức Phật không muốn anh hiểu biết tất cả trước, mà phải hoàn thành
Niết Bàn giải thoát đã, chừng đó tự nhiên anh sẽ hiểu tường
tận mọi việc như mây tan trăng hiện vằng vặc giữa không.
Nói như thế, không phải trong kinh Phật không đề cập đến thế
giới quan. Kinh Thế Ký thuộc kinh Trường A Hàm quyển 18 đến 22
(Bản dịch khác: Kinh Khởi Thế Nhân bổn, kinh Đại Lâu Thán) đã
giới thiệu rộng rãi các thứ tướng trạng của thế giới quốc
độ và thế giới hữu tình.
Nhân đây, chúng ta không thể nói rằng Đức Phật tuyệt đối không
hề đề cập đến việc ấy. Nhưng khi khảo sát về căn nguyên của nó
thì phát hiện đại thể này là sản phẩm bắt nguồn từ thế giới quan
của Phệ đà của Bà La Môn, hợp với tư tưởng Duy Vật phát sinh.
Khi thuyết pháp giáo hoá, Đức Phật khéo xử dùng tài liệu tại
chỗ và dùng thí dụ thích hợp để nêu rõ vấn đề khi thuyết
pháp cho đồ chúng ngoại đạo. Chắc chắn Ngài có mượn dùng những
truyền thuyết của ngoại đạo để hướng về Phật pháp. Cho nên
những quan niệm về thế giới lúc bấy giờ được Đức Phật lợi dụng để
đưa vào, nhưng những điều đó không phải là những chủ đề
chính mà Đức Phật muốn thuyết minh. Điều rất dễ hiểu là vì
Đức Phật không công kích biểu lộ sự không đồng tình, nên các đệ
tử cho là quan niệm ấy được Đức Phật chấp nhận. Đến kinh
"Tượng Thế Trí" thì quan niệm ấy được trình bày dài dòng và có hệ
thống, điều này chắc chắn là do sự biên tập tỉ mỉ của các
nhà kết tập. Kinh này có sau đời vua A Dục, vì trong Tam tạng
Trường bộ Pàli không thấy có ghi chép. Cho nên nội dung của kinh
này không phải là do pháp phát minh mà là tài sản chung của văn
hoá Ấn Độ đương thời, Đức Phật lợi dụng những quan niệm này là
mượn dùng mà không biểu lộ sự chấp nhận, giống như các vị thần
Phệ Đà, đặc biệt là Phạm Thiên, Đức Phật phủ nhận thực thể
mà khéo dùng sự tín ngưỡng của Phạm Thiên.
Nhưng sau khi Phật diệt độ, hàng đệ tử chấp nhận luôn quan niệm
thực thể của Phạm Thiên. Về quan niệm ấy, lấy núi Tu Di làm
trung tâm theo sự khảo sát của địa lý học và thiên văn học
hiện đại thì quan niệm này không thể chấp nhận được nhưng lại là
thông thường của địa lý và thiên văn học Ấn Độ vào thời
Phật tại thế và sớm hơn. Do đó, hàng đệ tử Phật phải nên
chú ý đến trọng tâm của sự giáo hóa của Đức Phật là chú trọng
đến sự tu hành giải thoát khỏi vô minh của con người. Cũng
không cần phải chấp nhận hết mọi vấn đề khác mà Đức Phật đã
giải đáp cho chúng ta. Nhiệm vụ của Đức Phật là làm lợi ích
theo từng trường hợp một, mỗi thứ mỗi khác, ta không nên bỏ gốc
theo ngọn. Nếu không thì tự mình sẽ tiến vào ngỏ cụt rồi đưa đến
oán hận. Đó là lỗi của chúng ta tự chuốc lấy thôi.
C. TÂM CỦA CHÚNG TA
Đức Phật lấy việc giải thoát con người ra khỏi vô minh làm mục
đích, mà chủ tể của con người lại là "Tâm". Tâm không thể tự chủ
vì tâm ở trong trạng thái niệm niệm liên tục biến đổi luôn. Đó
làvô thường, mà vô thường tức là không chủ thể, lại chính là
nghĩa vô ngã. Nhưng mà muốn nó biết nó là vô thường, vô ngã, rồi
làm cho nó biến đổi thành bất động, làm thánh nhân siêu việt
cả phàm phu, thật không phải dễ.
Ở đây, Đức Phật đặc biệt khảo sát ở tâm phàm phu để hướng dẫn
họ, từ tâm nhiễm ô thành tâm thanh tịnh. Chỉ một danh từ "thanh
tịnh bất động" đã nói lên quá trình biến đổi liên tục của
tâm nhiễm ô. Khảo sát kỹ về trạng thái của tâm, sớ có rất nhiều.
Căn cứ vào tư liệu của Phật giáo Nguyên thủy, ta có thể qui nạp
phân loại thành 12 loại:
1. Năm cái: Tham dục cái, sân khuể cái, thuỳ miên cái, điệu cử cái, nghi cái.
2. Bảy kiết (sử): Dục tham, hữu tham, sân khuể, mạn, nghi, kiến, vô minh.
3. Chín kiết: Lấy 7 kiết trên làm cơ sở, chỉ đổi hữu tham thành thủ, rồi thêm vào tật và xan.
4. Năm hạ phần kiết: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham và sân.
5. Năm thượng phần kiết: Sắc tham, vô sắc tham, điệu cử và vô minh.
6. Bốn bộc lưu: Dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu và vô minh bộc lưu.
7. Bốn lậu: Dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.
8. Bốn thủ: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.
9. Bốn hệ: Tham hệ, sân hệ, giới cấm hệ, thị chân chấp hệ.
10. Ba cầu: Dục cầu, hữu cầu, Phạm hạnh cầu.
11. Mười sáu tâm cấu: Bất pháp dục (ham muốn bậy bạ), sân, phẫn, hận,
phú, não, tật, xan, siểm, cuống, cương phúc, báo phục tâm, mạn,
quá mïan, kiêu, phóng dật.
12. Hai mươi mốt tâm uế: Tà kiến, phi pháp dụcc, ác tham, tà pháp,
tham, khuể, thùy miên, điệu hối, nghi hoặc, sân triền miên,
du siểm, vô tàm, vô quý, mạn, đại mạn, mạn ngạo, phóng dật.
Trong các trường hợp thích đáng, Đức Phật dùng những từ ngữ
thích hợp để nói lên trạng thái của bệnh. Giống như phần liệt kê
này, mười một hạng mục trước lấy từ "Phật giáo sử Ấn độ" của Long
Sơn Trương Chơn, hạng mục thứ 12 lấy từ 93 loại trong kinh Trung
A-hàm quyển 23.
Nếu rút gọn lại, không ngoài ba thứ tham, sân, si mà Đức Phật
gọi là ba độc hay ba bất thiện căn, hoặc ba thứ lửa. Cận
đại có người giải thích ba độc này như sau: "Tâm là một loại đạn
tham dục hành vi và không biết đủ, liên tiếp tiến hành cấu thành
sự tuần hoàn" (Ấn độ Phật giáo sử, quyển 2, chương 3 của
Chu Trước). Lời giải thích này không nhất định là chính xác nhưng
có vẻ dễ hiểu.
Do tham, sân, si mà phân biệt ra rất nhiều tên trạng thái tâm lý; vì
đối trị với tham, sân, si, lại chia ra rất nhiều tên trạng
thái tâm lý, kết quả của sự phân tích đó lại xuất hiện về sau này
những cái gọi là Tâm vương, Tâm sở, Thiện tâm sở và Bất thiện tâm
sở. Nhân đây, chúng ta có thể nói Đức Phật phân tích tâm
lý không giống như sự phân tích của Tâm lý học hiện đại. Đức Phật phân
tích tâm lý là nhằm hướng dẫn con người đối trị tâm phiền
não, còn Tâm lý học hiện đại chỉ là môn khoa học nhằm giới
thiệu sinh lý học và khoa học xã hội. Nếu miễn cưỡng biện biệt thì có
thể nói: Tâm pháp của Đức Phật hướng dẫn đối trị tận cội
rễ phiền não của con người, còn Tâm lý học hiện đại chỉ phân tích
hiện tượng tâm lý bề mặt của con người mà thôi.
Theo: DPNN