Triết
học Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Kinh điển chép rằng ngay sau khi
giác ngộ, trong bài giảng đầu tiên, Đức Phật đã giảng về Tứ diệu đế, mà
trong đó Khổ đế là chân lý được nêu lên trước tiên. Bài viết nhỏ này
không bàn về ý nghĩa chữ khổ trong tư tưởng Phật giáo vì nội hàm rộng
lớn của nó, mà chỉ muốn nói đến một khía cạnh nhỏ: Khổ không chỉ có
nghĩa đơn thuần là khổ đau về vật chất mà nó có một ý nghĩa lớn hơn, đó
là sự đấu tranh giữa cái tất yếu và khát vọng tự do. Cái chết là
một điều tất yếu, nhưng ý chí con người lại khao khát đến sự vĩnh cửu
trường tồn nên muốn kéo sinh mệnh dài đến vô tận, vô biên. Trường sinh
bất tử - một khát vọng gây nên nỗi khổ căn nguyên cho cõi thế - vẫn mãi
mãi là giấc mơ hư ảo của con người, giống như giấc mơ tìm ra một loại
động cơ vĩnh cửu của các nhà vật lý trong những thế kỷ trước.
Con người không ai muốn chấp nhận, thậm chí không muốn nghe nói đến
cái chết; dù chính cái chết là một trong những điều kỳ diệu nhất trong
thế giới tự nhiên của cõi nhân sinh, vì nó đem lại cho cuộc đời toàn bộ
vẻ đẹp bi tráng và ý nghĩa của sự hằng cửu thiên thu. Chỉ có cái chết là
điều duy nhất khiến tất cả con người đều được hoàn toàn bình đẳng trong
cái thế giới đa thù sai biệt này. Từ vô lượng A tăng kỳ kiếp, cuộc đời
sở dĩ vẫn còn đẹp, vẫn còn mang một ý nghĩa là nhờ cái chết. Hãy thử
tưởng tượng cuộc sống trường sinh bất lão của các vị thần tiên trong
truyện Trung Quốc, nếu sống cả mấy ngàn năm mà chỉ cứ quanh quẩn mãi
chuyện cưỡi hạc đến thăm nhau, rồi đánh cờ, ngâm thơ, uống rượu thì đó
quả là cuộc sống đầy cực hình. Một cuộc sống lờ đờ tẻ nhạt đôi khi còn
đáng sợ hơn cả cuộc sống nhọc nhằn. Trong mấy ngàn năm qua, con người
luôn cố công đi tìm cho ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời, chính điều
đó cho thấy dường như cuộc đời tự bản chất đã không có mang một ý nghĩa
nào, ngoài ý nghĩa mà ta cố gán cho nó, để mong thấy được rằng cái
tham vọng muốn kéo dài sinh mệnh của mình trên cõi đời cũng không phải
là điều vô nghĩa.
Cái chết không phải là cái gì đó đến với chúng ta từ bên ngoài, mà là
một thuộc tính nội tại trong ta, ngay khi ta vừa mở mắt chào đời. Cái
chết vẫn luôn tồn tại song đôi với sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Vừa mở
mắt chào đời là ta đã lên đường đi đến với cái chết, với hư không. Song,
con người chỉ muốn tồn tại trong cõi Hữu, luôn mang hoang tưởng rằng đó
là chỗ trú ẩn an toàn duy nhất cho mình, mà không ai dám nghĩ đến sự
tồn tại trong cõi Không. Đối diện với cõi Không xa lạ, con người đâm ra
hoang mang hoảng sợ, nên phải tìm đủ cách để cố gắng kéo dài sự hiện hữu
của mình trên cõi thế. Có người mong được bất tử bằng cách dùng quyền
lực và tiền bạc để khắc thơ đề tên mình trên đá, hoặc tạc tượng chính
mình khi còn sống. Nhưng có lẽ cách đơn giản nhất là sinh con trai để “nối
dõi tông đường”, do đó mà có quan niệm “trọng nam khinh nữ”
nặng nề ở phương Đông, để cố níu kéo sự tồn tại của mình thông qua một
cái tên, cái họ.
Tôi muốn ghi lại đây một lần nữa câu nói cực kỳ minh tuệ của Homer: “Thần
thánh ghen tỵ với chúng ta. Họ ghen tỵ với chúng ta vì chúng ta sẽ phải
chết, bởi vì đối với chúng ta bất kỳ giây phút nào cũng có thể là những
giây phút cuối cùng trong đời. Mọi thứ đều trở nên tươi đẹp hơn bởi vì
chúng ta đều phải chết”. (1)
Trong suốt dòng lịch sử nhân loại, mọi tham vọng kéo dài đế chế đến
ngàn năm, mọi hoài bão xây dựng sự bất tử trường tồn trên bạo quyền để
thực hiện ý chí hùng bá đều sụp đổ nhãn tiền, và trở thành hư không mộng
ảo. Tần Thủy Hoàng, sau khi dùng máu lửa để thống nhất Trung Quốc, liền
có tham vọng muốn xây dựng một đế chế ngàn năm, bắt đầu từ Thủy Hoàng
cho đến Nhị thế rồi Vạn thế. Ông vua tàn bạo này cho bọn phương sĩ ra
khơi để tìm thuốc trường sinh. Rốt cuộc tấm thân vạn thặng phải nằm lẫn
cùng đám cá thối ở Sa Khâu(2), còn nhà Tần chỉ truyền được
hai đời thì mất. Hán Vũ Đế lại muốn luyện thuốc trường sinh bằng cách
dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương
khuya từ mặt trăng rơi xuống. Sương rơi chưa đầy mâm vàng thì vị vua
hùng tài đại lược kia đã qua đời, mang theo cả khối hùng tâm vạn trượng
về bên kia thế giới. Sử chép rằng hàng đêm vẫn nghe tiếng ngựa hí nơi
nấm mộ của ông ở Mậu Lăng, sáng ra không còn dấu vết. Cảnh tượng bi
thương biết bao cho những tham vọng hư huyền của một kẻ từng một thời
đứng trên đỉnh cao chói lọi của quyền lực. Ở phương Tây, đế chế La Mã
hùng cường cũng sụp đổ, rồi đến chế độ Quốc xã của Hitler. Đó là quy
luật vô thường của tự nhiên, tất cả đều sẽ qua đi theo những sóng lớp
phế hưng. Tham vọng, hoài bão càng lớn thì sự sụp đổ càng bi thương và
chóng vánh.
Đời hưng vong bao thành quách lâu đài
Tự thiên cổ đứng buồn soi đáy nước.
(Đinh
Hùng)
Gần như là một điều nghịch lý, trong khi mọi tham vọng cuồng điên của
con người muốn xây dựng một nền bá quyền trường cửu đều bị cơn lốc vô
thường của cuộc sống quét sạch đi tất cả, thì một tôn giáo dạy con người
luôn quán chiếu sự vô thường của cõi thế cùng sự vô ngã của chư pháp,
như Phật giáo, lại thường tồn một cách lặng lẽ tịch nhiên đến hơn mấy
ngàn năm, mà không cần đến bất kỳ một thế lực nào. Không cần đến lửa và
thanh gươm, không cần đến bất kỳ một lực lượng thần quyền hay thế quyền
nào, chỉ với một câu “Nhất thiết giai Không” đã khiến Phật giáo
trường tồn qua bao cảnh dâu bể tang thương một cách an nhiên tự tại.
Chân lý đó cho thấy chính vì buông bỏ tất cả nên nắm bắt được tất cả.
Vạn pháp do tham luyến mà bị hư hoại, nhờ buông xả mà được thường tồn.
Kinh Dịch nói "Sinh sinh chi vị dịch" (sinh rồi sinh
không dứt, đó là đạo dịch). Chúng ta thường chỉ nghĩ đến chữ “sinh”
mà quên mất giữa hai chữ “sinh” đó phải có chữ “diệt”.
Nhờ có diệt mà sinh mới nối tiếp được sinh.
Heidegger có lẽ là triết gia phương Tây đầu tiên suy tư về Không
(Néant) như là căn cơ cho Hữu (Être), khi bàn về Siêu hình học
phương Tây(3). Diệu dụng của chữ Vô cũng được Lão Tử
nói rất nhiều trong Đạo đức kinh. Tột điểm tư tưởng võ học trong
những tác phẩm của Kim Dung là “vô chiêu thắng hữu chiêu”, thông
qua nhân vật Lệnh Hồ Xung với Độc cô cửu kiếm. Theo tinh thần Trung
luận của tổ Long Thọ thì “Dĩ hữu Không nghĩa cố, Nhất thiết pháp
đắc thành” (Do có nghĩa của Không mà các pháp mới được thành tựu).
Người phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay, đại khái như vầy: “Những
gì ta đang có sẽ phải thuộc về kẻ khác, những gì ta tiêu xài sẽ mất đi,
nhưng những gì ta cho đi sẽ còn lại mãi mãi”. Cõi thế vốn vô
thường, không ai có thể nắm giữ mãi những gì mình đang có trong tay. Tôi
muốn hiểu chữ “cho” ở đây có nghĩa là “buông xa” theo
tinh thần Phật giáo. Phải buông xả tất cả thì mới có thể an nhiên tồn
tại trong cõi Không. “Buông xả” vẫn là điệp khúc, tự mấy ngàn năm
qua, vang rền trong tòa lâu đài minh triết của phương Đông. Cố giáo sư
Kim Định, trong tác phẩm “Những dị biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây”
có nhắc đến một câu nói của Thánh Gandhi “Je me réduis à zéro”
(Tôi tự giảm trừ bản thân đến mức thành con số không). Nhà văn Xô-viết
Azhaev, trong tác phẩm “Xa Mạc Tư Khoa”, có viết rằng giá trị của
con người giống như một phân số, trong đó tử số mới là giá trị thực của
mình, còn mẫu số chỉ là giá trị do mình tưởng tượng ra. Kiến thức sơ
đẳng về phân số cho ta biết khi mẫu số càng lớn thì giá trị phân số càng
bé lại, và nếu mẫu số tiến đến vô cực thì giá trị phân số tiến đến
không; ngược lại khi giá trị mẫu số càng bé thì giá trị phân số càng
lớn, nếu mẫu số tiến về không thì giá trị phân số tiến về vô cực. Thánh
Gandhi trở thành một biểu tượng vĩ đại của nền minh triết Á châu do đã
buông bỏ tất cả tư dục để “Je me réduis à zéro”, nghĩa là đưa mẫu
số về giá trị bằng không!
Chỉ khi cảm nhận được cái Không, có được “Je me réduis à zéro”
thì chúng ta mới hiểu thêm về cái Hữu, nói theo Simone Weil thì
phải cảm nhận được hư không, và do đó phải cận kề với cái chết thì mới
thể hội được chân lý. Chỉ khi chúng ta thấy mình không là gì cả, thì
mình mới được là mình theo tinh thần “Ngã thuyết... tức phi...
thị danh” của kinh Kim Cương. Tồn tại trong cõi Không
mới là sự tồn tại vô ngại, giữ được cái Tâm không thì mặt trời trí huệ
sẽ tự nhiên chiếu sáng(4), và mới có thể “viễn ly điên
đảo, mộng tưởng”.
Trong Bát nhã tâm kinh, toàn bộ thế giới vật lý và tâm lý với
lục căn, lục trần, lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đế và Thập nhị nhân
duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - đều bị quét sạch trong cơn lốc
phủ định toàn triệt của hai chữ Bất và Vô.
“Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; sắc tức thị Không, Không tức
thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử! Thị chư
pháp Không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất
giảm. Thị cố Không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn
giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí
vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô
đắc”.
Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Bát nhã là thể cách vi diệu
để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối.
Trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là
khẳng định. Mọi mâu thuẫn đều dung thông vô ngại. Theo kinh điển ghi lại
thì khi vừa mới sinh ra đời, Đức Phật đã bước đi bảy bước trên tòa sen
và cất tiếng như sư tử hống: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”.
(Trên trời dưới đất, chỉ có Ta là tôn quý). Đó có lẽ là ngày đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng nhân loại, cái Tôi được khẳng định một cách minh
triết và hùng hồn nhất. Một tôn giáo khởi đầu bằng cách khẳng định một
cách tuyệt đối cái Tôi, thì chính tôn giáo đó lại xiển dương quan điểm “Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc” và dùng một loạt mười tám loại “Không”,
từ “Nội không” cho đến “Vô pháp hữu pháp không” trong
kinh Bát Nhã, để đẩy toàn bộ cái thế giới hữu sắc này đến chỗ tận
cùng của chân không, của phủ định.
Và hơn ai hết, chính Đức Phật là người đã “Je me réduis à zéro”
đến chỗ toàn triệt, nên khi từ cõi Không bước vào cõi Hữu
để thuyết pháp, thì tư tưởng Ngài mãi mãi chói lọi trong ánh sáng giác
ngộ của Đấng Không Vương! .