MỤC LỤC
Lời nói đầu
Đôi lời trong lần tái bản
Niềm Tin Trong Đạo Phật
Thế Giới Cực Lạc
Trong Sự Thật Hiện Hữu
Chọn Pháp Môn Trong
Thời Đại Văn Minh
Niệm Phật Với Tuổi Trẻ
Niệm Phật Để Tìm Lại Chính
Mình
Niệm Phật Trong Tạp Niệm
Ba Điều Quan Trọng
Cho Việc Vãng Sanh
Hương Thơm Niệm Phật
Nhân Duyên Lớn
Niệm Phật Hiểu Theo 37
Phẩm Trợ Đạo
Lời nói đầu
Đường về
bến giác có muôn nẻo
đường, pháp tu niệm
Phật chỉ
là một trong muôn nẻo.
Nhưng theo lời
dạy của
chư Phật,
chư Bồ
Tát, chư Tổ
thì pháp tu niệm Phật
xứng hợp
với thời
đại ngày nay. Thời
đại mà con người
dễ bị
trần cảnh
làm lu mờ tánh giác.
Quyển
sách nhỏ này chỉ
là những lời
thiết tha, thô thiển
ca ngợi pháp tu quý báu này. Và
cũng vì lòng tha thiết
muốn chia xẻ
đến những
ai có nhân duyên với pháp tu niệm
Phật, nên đã không nghĩ
đến sự
hiểu biết
nông cạn của
mình, do đó những điều
sơ suất
chắc chắn
không tránh khỏi. Vậy
kính mong chư vị
độc giả,
thiện hữu
tri thức niệm
tình chỉ dạy.
Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A
Di Đà Phật
Chùa Pháp Bảo, 1998
T.K Thích Phổ Huân
Đôi lời trong lần tái bản
Quyển
sách này được in lần
đầu chỉ
dưới 500 quyển.
Lý do người viết
đã không mời gọi
quý thân hữu, Phật
tử đóng góp ấn
tống; thậm
chí giấu luôn cả
người thân trong gia đình mà chắc
chắn sẽ
đóng góp. Điều này vì muốn
trọn đem công đức
hồi hướng
đến song thân quá vãng được
siêu thoát về Phật
cảnh.
Nay thì số
ấn tống
nhỏ nhoi đã hết,
và nhân duyên được quý Phật
tử đọc
qua rồi phát tâm muốn
ấn tống
lại. Cũng
nhân tiện này một
vài lỗi trong sách được
sửa như:
chính tả và chữ
sai.
Vậy
xin hồi hướng
công đức ấn
tống này đến
tất cả
chúng sanh trong pháp giới đồng
trọn thành Phật
đạo.
Nam Mô
A Di Đà Phật
Sydney, ngày
18/5/1998
TK. Thích Phổ Huân
Niềm Tin Trong Đạo Phật
Ngày
xưa con người
vì quá lạc hậu,
yếu đuối
nên tự khuôn ép tư
tưởng vào những
mê tín kỳ quặc;
phó thác đời mình trong nghi thức
sùng bái thần linh, ủy
mị, để
tự trấn
an, xoa dịu, cầu
khẩn đủ
mọi thế
lực bên ngoài. Từ
đó không biết bao nhiêu hình thức
tôn giáo, tín ngưỡng ra đời.
Sự
phát sinh nhiều tín ngưỡng
như vậy
cho thấy con người
của thời
đại xưa
luôn luôn sợ hãi, hằng
mong cầu tìm kiếm
cho mình một nơi
nương tựa
che chở, lắng
dịu tâm hồn.
Quan niệm
tư tưởng
như thế
mãi kéo dài cho đến khi đạo
Phật ra đời.
Bằng sự
giác ngộ rốt
ráo siêu việt. Đức
Phật đã chỉ
rõ đâu là mê đâu là tỉnh, cũng
như cả
thế giới,
vũ trụ
này đều do sự
chuyển động
tâm thức mà ra. Một
số người
bấy giờ
bắt đầu
học được
chánh tín. Nhận ra ngay chính bản
thân mình là nơi nương
tựa, là nơi
quyết định
xa lìa vô minh phiền não đạt
đến giác ngộ
vô sanh.
Cho đến
ngày nay hơn hai ngàn năm trăm
năm, giáo pháp giác ngộ vẫn
tồn tại,
phát triển, và luôn luôn thích
ứng với
mọi hoàn cảnh,
thời đại.
Lại có thể
nói nhờ vào chánh tín mà lời
Phật dạy
mới tồn
tại, việc
tu học của
chúng ta mới được
kết quả.
Nếu
việc thực
hành giáo pháp không gây cho ta niềm
tin xác đáng, hay lệch lạc
với lẽ
phải đời
sống thì kết
quả hành trì sẽ
không mang đến an lạc,
hạnh phúc.
Niềm
tin trong đạo Phật
hẳn nhiên không phải
là niềm tin mù quáng, chấp
nhận, phó thác không suy xét.
Trong lần nói chuyện
với dân xứ
Kesaputta đức Phật
đã dạy như
sau: "Hảy đến
đây: người Kalama, không nên chấp
nhận điều
gì chỉ vì nghe nói lại
(tỷ như
nghĩ rằng
ta đã nghe điều này từ
lâu). Không nên chấp nhận
điều gì chỉ
vì tập tục
cổ phong truyền
lại như
thế (tỷ
như nghĩ
rằng điều
này đã được truyền
lại từ
bao nhiêu thế hệ).
Không nên chấp nhận
điều gì chỉ
vì lời đồn
đãi như vậy
(tỷ như
tin lời người
khác mà không suy xét). Không nên chấp
nhận điều
gì chỉ vì điều
ấy đã được
ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp
nhận điều
gì chỉ vì mình đã ức
đoán như vậy.
Không nên chấp nhận
điều gì chỉ
vì mình suy diễn như
vậy. Không chấp
nhận điều
gì theo bề ngoài. Không nên chấp
nhận điều
gì chỉ vì điều
ấy hợp
với thành kiến
mình. Không nên chấp nhận
điều gì chỉ
vì điều ấy
hình như có thể
chấp nhận
được (tỷ
như nghĩ
rằng điều
này phải được
chấp nhận).
Không nên chấp nhận
điều gì chỉ
vì vị tu sĩ
thốt ra điều
này đã được ta kính trọng
từ trước
(và như vậy
lời nói phải
được chấp
nhận).
Tuy
nhiên khi tự các con hiểu
rõ rằng - những
điều này không hợp
luân lý; những điều
nầy đáng được
khiển trách, những
điều này bị
các bực thiện
trí thức cấm
đoán, nếu thực
hiện những
điều này sẽ
bị phá sản
và phiền muộn
- thì hẳn các con phải
từ bỏ,
không làm điều ấy.
Khi tự
các con hiểu rõ rằng
- những điều
này hợp luân ý; những
điều này không bị
khiển trách, những
điều này được
các bậc thiện
trí thức tán dương,
nếu thực
hiện những
điều này sẽ
được an vui hạnh
phúc - thì hẳn các con phải
hành động đúng như
vậy (1)."
Những
lời dạy
này cho chúng ta thấy sự
xác tín rất quan trọng;
đòi hỏi sự
cân nhắc kỹ
càng trước khi tin để
thực hành. Việc
thực hành với
niềm tin như
thế sẽ
mang đến kết
quả mỹ
mãn, trái lại thực
hành không mang lấy một
niềm tin gì, điều
này chẳng có lợi
ích chi. Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Tin
là nguồn gốc
mẹ công đức,
nuôi lớn tất
cả các pháp lành, đoạn
trừ lưới
nghi ra khỏi dòng ái, mở
bày đạo vô thượng
Niết-Bàn...(2)."
Để
có được niềm
tin sáng suốt, chân thật
sau đây chúng ta tìm hiểu sơ
lược một
vài đức tin căn bản
mà người Phật
tử cần
nên có.
1)
Tin đức Phật
Như
một con người,
thái tử Tất
Đạt Đa (Siddhartha) họ
là Cồ Đàm (Gotama) ra đời
năm 624 trước tây lịch
cách đây 2622 năm ở Ấn
Độ. Vương
quốc Ngài, tên Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavastu) cách thành
phố Ba La Nại
(Benares) 100 dặm về
hướng đông bắc
và khoảng 40 dặm
gần núi Hy Mã Lạp
Sơn (Himalaya).
Lịch
sử này được
ghi lại do các nhà khảo
cổ Ấn
Độ và Tây Phương
khám phá ra, cộng với
chứng tích lịch
sử của
trụ đá vua A Dục
(Asoka) để lại
(thế kỷ
thứ 3 trước
Tây lịch).
Truyền
thuyết ghi rằng,
tuy thái tử sanh ra và lớn
lên trong nhung vàng nệm
ấm, trong yêu thương,
tôn kính. Nhưng Ngài vẫn
nhận ra mầm
móng đau khổ, lụy
phiền của
kiếp nhân sinh, mầm
móng của sự
đổ vỡ,
bất toàn trong cảnh
màu vàng tráng lệ. Cho đến
dịp chứng
kiến cảnh
thật trong cuộc
sống. Nhận
thấy con người
phải vất
vả, lăn lóc, đấu
tranh để mưu
sinh. Loài cầm thú giành giựt
giết hại
lẫn nhau vì sự
sống. Cảnh
đau khổ của
Già, Bệnh, Chết
và đặc biệt
nhất là mục
kích hình ảnh vị
đạo sĩ
mang phong thái đoan nghiêm trầm
tĩnh... bao yếu
tố đó đã nảy
sanh trong tâm thái tử niềm
băn khuăn, thao thức cho bản
chất đời
sống con người,
từ đó đưa
đến quyết
định cho con đường
xuất trần,
thoát tục.
Thái tử
vượt thành tầm
đạo, trải
qua sáu năm khổ hạnh.
Học đạo
và chứng được
mọi pháp tu của
các đạo sĩ
nổi danh nhất
thời bấy
giờ. Tuy vậy
thái tử vẫn
chưa tìm được
ánh sáng giác ngộ mà Ngài mong
đợi. Cuối
cùng bằng sự
vận dụng
trí lực kiên trì Ngài đã tự
mình giác ngộ qua con đường
Trung đạo (lìa hai cực
đoan: buông lung khoái lạc và
ép xác khổ hạnh),
để trở
thành bậc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ
đó Ngài được tôn xưng
là Phật nghĩa
là một người
hoàn toàn thức tỉnh,
giác ngộ, gột
sạch hết
mọi phiền
não khổ đau...
Sơ
lược dòng đời
của Ngài chúng ta thấy,
sự giác ngộ
không đến từ
bên ngoài; không phải lìa sự
nỗ lực
tự thân mà tìm cầu
được chân lý. Do vậy
tất cả
là một thực
tế sáng tỏ,
cho thấy đức
Phật là một
con người bình thường
như bao người.Và
sự kiện
Ngài trở thành Phật
là kết quả
của một
cuộc chiến
thắng vĩ
đại to lớn
nhất ở
nội tâm. Truyện
truyền kỳ
trong kinh văn đã kể lại
cuộc chiến
đấu giữa
Phật và Ma Vương
vị chúa tể
của sắc
ái, tham lam, dục vọng
ở thế
gian. Kết quả
Ma Vương phải
thất bại
lẩn vào trong bóng tối,
để nhuờng
lại ánh sáng huy hoàng giải
thoát.
2)
Tin giáo pháp của Phật
là chân lý
Giáo lý
kinh điển của
Phật cao rộng
muôn trùng, sâu xa thăm thẳm.
Pháp môn lại có đến
tám mươi bốn
ngàn. Tùy mọi căn cơ
của chúng sanh mà khai ngộ.
Người học
Phật dù trình độ
cao thấp ra sao nếu
muốn nghiên cứu,
hành trì vẫn được
như ý.
Tuy rằng
theo truyền thống,
tập quán, phong tục
hình thái, tín ngưỡng mỗi
nơi có phần
sai biệt; điều
này cũng do thích nghi với
hoàn cảnh. Tuy nhiên tất
cả vẫn
mang một sức
sống thực
và luôn luôn khai phóng luồng
ánh sáng trí huệ vào tâm thức
con người. Luồng
ánh sáng đó là chân lý bất-di bất
dịch của
vạn pháp. Để
xác tín cho niềm tin giáo pháp
của Phật
là chân lý, xin đưa ra giáo
pháp căn bản nhất
là Tứ Diệu
Đế.
Tứ
Diệu Đế
được xem là phần
giáo lý cội gốc
của đạo
Phật và cũng
là tinh ba quan trọng cho mọi
người con Phật
không phân biệt Tiểu
thừa hay Đại
thừa, Thiền
tông, Tịnh độ.v.v...
Hầu
hết người
Phật tử
ít nhiều đều
biết qua Tứ
Diệu Đế.
Tứ Diệu
Đế là bài thuyết
pháp đầu tiên của
đức Phật.
Ngài giảng dạy
cho năm anh em tôn giả Kiều
Trần Như
tại vườn
Lộc Uyển
(Deer park) gần Ba La Nại
(Benares).
Tứ
Diệu Đế
là bốn sự
thật vi diệu,
hay gọi là bốn
chân lý vi diệu, đó là: Khổ
đế, Tập
đế, Diệt
đế, Đạo
đế.
Khổ
đế
Khổ
là một sự
thật. Một
sự thật
hiển nhiên rõ ràng, ai ai cũng
thấy biết.
Một đứa
bé mới sanh cũng
đã tiết lộ
cho mọi người
thấy đó là tiếng
khóc "Thoạt sinh ra
thì đà khóc chóe, Trần có vui
sao chẳng cười
khì..." (Nguyễn
Công Trứ) hay là "Thảo
nào khi mới chôn nhau, Đã mang
tiếng khóc ban đầu
mà ra" (Ôn Như
Hầu). Tiếng
khóc ấy kéo dài đăng đẳng
đến lúc nhắm
mắt lìa đời
trong hình dáng một người
già đau bệnh. Sự
thật của
khổ được
thấy qua một
cách cụ thể
khi đức Phật
dạy "Nầy
các Tỳ Kheo, đây là chân lý về
sự đau khổ:
Sinh là khổ, già, đau, chết
là khổ, gần
người thù, xa người
thân hoặc không đạt
được nguyện
vọng đều
là khổ. Tóm lại
những yếu
tố vật
lý và tâm lý cấu tạo
nên con người đều
đau khổ (3)."
Nhìn nhận
đời là khổ
không phải là bi quan, yếm
thế mà là sự
thành thật, sáng suốt
thừa nhận.
Nếu người
ta có thể vui vẻ,
phớt lờ
được cái khổ
nói trên, thì mới dám nói đây
là quan niệm bi quan, yếm
thế.
Thế
gian vô thường, hoàn cảnh
vật chất
luôn thay đổi, hư
hoại; con người
lại nằm
trong cái hư hoại
đó thử hỏi
làm sao tránh được khổ;
cho nên khổ là chân lý. Và đã
là chân lý thì dù ta có bi quan hay lạc
quan khổ vẫn
là khổ.
Tập
đế: nguyên nhân của
khổ
Nguyên
nhân của khổ
là do tham ái, dục tình. Chính
sự luyến
ái tham vọng này mà kéo đưa
con người mãi trong vòng sanh tử.
Việc khát khao ôm giữ
tham dục không biết
nhàm chán, từ đây sinh ra cái
khổ triền
miên không dứt.
Con người
đã lầm tưởng,
một ước
ao ham muốn nào đó sẽ
dừng nghỉ
khi được thỏa
lòng chiếm hữu.
Nhưng sự
thật lại
không bao giờ hài lòng thỏa
mãn. Một gia tài kết
xù lại quá nhỏ
bé với một
con người đầy
tham vọng. Một
mối tình đẹp
của đôi tình nhân tưởng
là hoa mộng thiên thu, nhưng
rồi thỏa
mãn hoa mộng đó cũng
nguội lịm
đi, và ước vọng
dục tình khác lại
nảy nở.
Điều hạnh
phúc của người
này nhưng là việc
đau khổ của
người kia, và điều
hạnh phúc của
người kia thì họ
chẳng bao giờ
thấy đủ.
Cái nghịch đảo
bất thuận
này nào đâu phải là nguyên nhân
xa xôi huyền bí, tất
cả chỉ
do lòng tham dục mà ra. Chẳng
hạn kẻ
ăn xin bỗng dưng
may mắn trở
thành người đầy
đủ tiền
bạc, vậy
mà một thời
gian trôi qua, người ăn xin này
bây giờ đã đầy
đủ lại
thấy mình còn thiếu
kém khi nhìn người bên cạnh
đầy đủ
hơn. Thậm
chí đến ngay kẻ
đầy đủ
nhất vẫn
còn thấy cái đầy
đủ đó không đủ
như ước
muốn; và vậy
vẫn có cái khổ
ở mức
độ nào đó mà nhiều
người tưởng
rằng phi lý! Ước
muốn kia chính là lòng tham muốn
dục vọng
không đáy. Do đây Phật dạy
"Này các Tỳ Kheo, đây
là chân lý nguyên nhân sự đau
khổ: Chính vì dục
vọng mà ta phải
luân hồi và cứ
chạy theo lạc
thú ở đời
mãi (4)."
Diệt
đế:
diệt trừ
tham ái, phiền não
Biết
được nguyên nhân tham dục,
luyến ái là khổ.
Vậy muốn
diệt khổ
thì phải chấm
dứt mầm
mống nguyên nhân này. Cũng
như kẻ
đau bệnh biết
được bệnh
phải chữa
trị ngay, nếu
không dù có rành mạch phân tích
biết rõ lý bệnh
cũng chẳng
ích chi, rồi phải
chết trong đau tiếc.
Khi khổ
đã không còn hay nói cho đúng là tham dục,
luyến ái, vọng
tình, sân giận, si mê, vô minh,
phiền não đều
chấm dứt
thì ở đây sự
an tịnh, giải
thoát có mặt và trạng
thái an lạc này còn gọi
là Niết Bàn. Do đó kết
luận rằng
khổ chỉ
có thể tiêu mất
khi Diệt đã được
thực hành, đó là chân lý.
Đạo
đế:
con đường đưa
đến sự
diệt khổ
Là con đường
hướng dẫn
hành giả làm thế
nào đi trọn cuộc
hành trình dứt lìa tham dục
phiền não. Phương
pháp thực hành tu tập
được đức
Phật dạy
qua pháp Trung đạo, xa lìa hai
cực đoan sai lầm:
hành xác khổ hạnh
và tham đắm khoái lạc.
Hai lối sai lầm
này được Phật
ví như dây đàn căng quá và
chùng quá. Đàn có thể nghe được
khi mức độ
căng dây vừa phải.
Con đường
trung đạo được
biết qua tám pháp gồm
có:
1.
Chánh kiến (hiểu
biết chân chánh)
2.
Chánh tư duy (suy nghĩ
chân chánh)
3.
Chánh ngữ (lời
nói chân chánh)
4.
Chánh nghiệp (hành động
chân chánh)
5.
Chánh mạng (sinh hoạt
chân chánh)
6.
Chánh tinh tấn (cố
gắng siêng năng
chân
chánh)
7.
Chánh niệm (ký ức
chân chánh)
8.
Chánh định (định
tâm, tập trung chân chánh)
Trong tám
pháp đây được chia ra làm Tam
Vô Lậu học
(mà người tu Phật
phải xem là điều
tối cần
không thể lìa bỏ,
đó là: Giới, Định,
Huệ.
Các phần
Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng thuộc
về Giới.
Các phần
Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định thuộc
về Định.
Và phần Chánh kiến,
Chánh tư duy thuộc
về Huệ.
Nền
tảng của
Giới, Định,
Huệ là căn bản
cho con đường giải
thoát. Bởi Giới
là điều kiện
ngăn chặn nghiệp
ác, tăng trưởng nghiệp
lành của ba nghiệp
Thân Khẩu Ý. Định
là định lực
tập trung thanh lọc
tư tưởng,
và Huệ là trí huệ
thanh tịnh sáng suốt
phát sinh ngay khi đó, sau khi Giới
và Định lưu
thông. Như thế
đạo đế
là chân lý rốt ráo trong việc
giải quyết
sinh tử.
Trên đây
chỉ tóm lược
ý chính, nội dung của
Tứ Diệu
Đế để
thấy rõ giáo Pháp của
Phật là chân lý. Nếu
muốn rõ hơn
xin tra cứu ở
những sách khác sẽ
được khai triển
rộng thêm.
3)
Tin vào khả năng giác ngộ
Trong
kinh Phạm Võng Phật
dạy "Đại
chúng lòng nên tin chắc: Các người
là Phật sẽ
thành. Ta đây là Phật đã thành.(5)."
Lời Phật
dạy nói lên giáo pháp giải
thoát không là của riêng ai. Điều
giác ngộ giải
thoát này sẵn có trong tâm của
mọi người.
Xưa kia khi Phật
còn là Thái tử, Ngài cũng
đã trăn trở, dằn
vặt với
bao tham mê, giác tỉnh luôn
hoành hành trong tâm tư. Nếu
sự giác ngộ
tự nhiên mà đến
thì Ngài chẳng lìa cung điện
tìm đạo làm gì. Phải
chăng điều này cho thấy
Ngài đã vất vả
mới tìm ra đạo
giải thoát.
Con người
ngày nay nếu muốn
tìm hưởng an lạc
thì cũng phải
dừng lại
mọi phiền
não lăng xăng. Phải nỗ
lực lướt
thắng những
đam mê sa đọa và điều
cần yếu
nhất là phải
tin vào khả năng của
chính mình.
Giáo lý đức
Phật đã đưa
ra phương cách nhận
diện khổ
và diệt khổ
một cách rõ ràng. Sự
thật đó được
thấy và được
trực nghiệm
ở ngay hoàn cảnh
môi trường chúng ta. Bằng
niềm tin chánh tín và tư
duy sáng suốt chúng ta có thể
hành động đúng theo nguyên lý sự
thật ngay trong cuộc
sống hiện
tại mà không phải
tìm vào sự ban ơn
giáng phước của
thế lực
thần linh. Trong kinh Pháp Cú
có dạy như
sau:
"- Con
người kinh hãi đi tìm nương
tựa ở
nhiều nơi
đồi núi, rừng,
vườn, cây cối,
và đền miếu.
-
Không, đó không phải là nương
tựa an toàn, không phải
nương tựa
tối thượng
ẩn náo như
vậy không thể
thoát ra khỏi phiền
não.
Người
đi tìm nương tựa
nơi đức
Phật, Giáo Pháp và Tăng Già, có
tri kiến chơn
chánh để nhận
thức Tứ
Đế - Khổ,
Nguồn khổ,
Vượt khỏi
khổ, và Bát Chánh Đạo,
dẫn đến
sự Diệt
khổ.
Đó quả
thật là nương
tựa an toàn. Đó quả
thật là nương
tựa tối
thượng. Tìm đến
các nương tựa
ấy ắt
thoát ra khỏi mọi
phiền não
(6)."
Với
niềm tin vào ba ngôi Tam Bảo
và khả năng của
chính con người để
phá trừ mê tín như
vậy. Con người
sẽ có được
nghị lực
tin cậy ở
ngay chính bản thân mình trên
con đường thoát ly sinh tử,
và như thế
là niềm tin trong đạo
Phật.
Thế Giới Cực Lạc Trong
Sự Thật Hiện Hữu
Sự
hiểu biết
con người có hạn,
và đối tượng
của sự
hiểu biết
thì vô hạn. Khoa học
của thời
đại ở
thế kỷ
hai mươi này xem như
vượt bực.
Người ta đang nghĩ
đến việc
hoạch định
chương trình du lịch
lên cung trăng, giống như
du lịch giải
trí qua lại các nước
với nhau. Chuyện
này nghe qua hẳn như
đùa nhưng tương
lai chắc sẽ
có, bởi con người
đã dẫm chân lên mặt
trăng cách đây gần ba mươi
năm (20 July, 1969). Và mới đây
nhất (4 July, 1997) phi thuyền
Pathfinder đã chinh phục được
sao hỏa (Mars), mang theo chiếc
xe rôbô (robot) dọ thám của
con người, lần
đầu tiên lăn bánh trên mặt
hành tinh này. Sự kiện
đây là bước kỳ
công của khoa học
đánh dấu một
ngày lịch sử
ở cuối
thế kỷ
hai mươi. Tuy nhiên khoa học
càng đeo đuổi việc
khám phá không gian thì lại
càng thấy vũ
trụ mênh mông vô cùng tận.
Cũng như
sự hiểu
biết của
con người chỉ
là một lóe sáng nhỏ
nhoi của con đom đóm khi đem so
với ánh sáng mặt
trời tượng
trưng cho muôn ngàn bí ẩn
của vũ
trụ.
Qua những
kết quả
mà khoa học đã mang lại,
con người bây giờ
đã thật sự
tin rằng hành tinh (quả
địa cầu)
chúng ta đang ở chỉ
là một trong những
muôn tỉ hành tinh có sự
sống. Rồi
từ đây con người
đã và đang cố gắng
gióng lên tiếng nói liên lạc
với thế
giới bên ngoài trong khả
năng có hạn của
mình. Việc làm này đã gián tiếp
chấp nhận
lên tiếng một
sự thật
là có sự sống
ở ngoài thế
giới chúng ta.
Đi lùi lại
quá khứ cách đây hơn
hai ngàn năm trăm năm tại
Ấn Độ
qua kinh văn. Nơi đó xuất
hiện một
bậc siêu phàm, đại
trí mà người đời
tôn xưng là Phật
có nghĩa là một
con người đạt
được sự
toàn thiện chân tánh; thấy
và hiểu rõ tất
cả vạn
pháp. Với tự
thân, tâm đã gột sạch
mọi phiền
não nhiễm ô. Vào thời
kỳ này đức
Phật đã tuyên bố
rõ ràng là thế giới
có hằng hà sa số
không thể tính được,
cũng như
số lượng
chúng sanh cũng vô cùng. Sự
việc mà đức
Phật thấy
như vậy
mãi đến hơn
hai ngàn năm sau khoa học mới
tìm ra.
Đức
Phật thường
dạy các đệ
tử nên cẩn
thận, nếu
có thể tránh được,
để khỏi
vô tình giết hại
những loài chúng sanh nhỏ
nhít khó nhìn thấy, như
các loài trong đất hay trong nước.
Để rải
lòng từ bi cho trọn,
Phật dạy
phải thường
chú nguyện khi di động
hay ăn uống.
Phật
quán nhất bát thủy
Bát vạn
tứ thiên trùng
Nhược
bất trì thử
chú
Như
thực chúng sanh nhục
(Phật
quán trong một bát nước
Có tám
vạn bốn
ngàn vi trùng
Nếu
như không trì chú (lúc uống)
Chẳng
khác gì ăn thịt chúng sanh vậy)
Nói về
thế giới
trong vũ trụ
đức Phật
dạy "...Tùng thị
Tây Phương, quá thập
vạn ức
Phật độ,
hữu thế
giới danh viết
Cực Lạc,
kỳ độ
hữu Phật
hiệu A Di Đà kim hiện
tại thuyết
pháp...” (...từ
đây hướng về
Tây Phương kia trải
qua hết mười
muôn ức Phật
độ, có một
thế giới
gọi là Cực
Lạc cõi ấy
có Phật hiệu
A Di Đà hiện đang thuyết
pháp ...)
Lời
dạy này của
đức Phật
sẽ khó mà tin được
ở khoảng
cách đây một ngàn năm, vì nền
văn minh lúc bấy giờ
còn quá thấp. Thiên văn học
chưa ra đời,
người ta chỉ
biết có trái đất
là duy nhất kế
đó là mặt trời.
Bây giờ con người
đã văn minh, tiến bộ,
khoa học đã vượt
đến mức
thật cao. Thiên văn học
đã hé mở phần
nào bức màn vũ
trụ, tiết
lộ rõ ràng trái đất
và mặt trời
không phải là hành tinh duy nhất
có mặt trong vũ
trụ, mà trong vũ
trụ có đến
vô cùng số lượng
hành tinh thế giới
không thể nói đếm
được.
Riêng nói
về vị
thế của
trái đất được
nằm trong thái dương
hệ bao gồm
chín hành tinh là:
Thủy
Tinh (Mercury), Kim Tinh (Venus), Quả
Đất, Hỏa
Tinh (Mars), Mộc Tinh
(Jupiter), Thổ Tinh (Saturn),
Thiên Vương Tinh (Uranus), Hải
Vương Tinh (Neptune) và Diêm Vương
Tinh (Pluto) quay quanh mặt trời.
Thái Dương Hệ
này lại có đến
hàng tỉ, nằm
rải rác trong vũ
trụ tạo
thành những dạng
thể riêng biệt
như hình tròn, vuông, xoáy
ốc, chong chóng v.v...lại
gọi là Ngân Hà. Và vĩ
đại hơn
nữa là Thiên hà, trong đó có vô
số Ngân Hà gọp
lại. Nhưng
trong vũ trụ
lại có đến
hàng tỉ Thiên Hà. Vậy
thì từ Thiên Hà nếu
quay về tìm vị
trí của trái đất
cõi Ta Bà nơi chúng ta đang
ở thì giống
như tìm một
hạt cát nào đó trong sa mạc
cát vậy.
Từ
đây ta thấy lời
dạy của
đức Phật
trong kinh xưa hoàn toàn phù hợp
với kiến
thức khoa học
ngày nay. Và câu nói "hằng hà
sa số thế
giới" thường
được thấy
trong kinh sẽ không còn xa lạ
nữa với
người còn hoài nghi đây là thật
hay giả.
Việc
rõ ràng hơn là sự
công nhận xác tín của
nhiều học
giả, trí thức
Tây phương đối
với đạo
Phật. Tiêu biểu
hơn hết
là lời tuyên bố
của nhà Vật
lý học lừng
danh Albert Einstein:
"The
religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a
personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and
the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the
experience of all things, natural amd spiritual, as a meaningful unity.
Buddhism answers this description ."
(Tôn
giáo tương lai sẽ
là một tôn giáo chung cho cả
vũ trụ.
Tôn giáo này vượt mức
tin về một
Đấng Thiêng Liêng nào đó có cá
tánh và tránh hết các tín điều
và lý thuyết. Bao trùm cả
về thiên nhiên lẫn
tinh thần, tôn giáo này phải
căn cứ vào ý niệm
đạo giáo phát sanh từ
những thực
nghiệm của
mọi vật,
thiên nhiên và tinh thần như
một sự
thuần nhất
đầy đủ
ý nghĩa. Thì đạo
Phật đáp ứng
được các điều
đó (7)."
Trở
lại lời
dạy của
đức Phật
về thế
giới Tịnh
Độ A Di Đà, ta cũng
hiểu rằng
vũ trụ
vẫn có vô số
Tịnh Độ
và cũng không phải
chỉ có ở
phương Tây mà cả
khắp mười
phương thế
giới. Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Phương Đông cõi Ta Bà
này, có thế giới
tên là Mật Huấn.
Phương Nam có thế
giới tên là Phong-Dật.
Phương Tây có thế
giới tên là Ly Cấu.
Phương Bắc
có thế giới
tên là Phong Lạc. Phương
đông-bắc có thế
giới tên là Nhiếp-Thủ.
Phương đông nam có thế
giới tên là Nhiêu- Ích. Phương
Tây Nam có thế giới
tên là Tiên Thiểu. Phương
Tây bắc có thế
giới tên là Hoan Hỷ.
Hạ phương
có thế giới
tên là Quan-Thược. Thượng
phương có thế
giới tên là Chấn
Âm. Các đấng Như
Lai trong mười phương
thế giới
này, mỗi vị
có nhiều danh hiệu,
cho đến vô lượng
chư Phật
ở vô số
thế giới
cũng đều
như thế”
(8).
Về
Y báo và Chánh báo ở cõi Cực
Lạc nghĩa
là hoàn cảnh môi trường
và con người thì được
Phật tả
là vi diệu, nên con người
ở cõi Ta Bà khó mà tin theo. Nếu
có thể tin thì người
ta chỉ tin có thế
giới Cực
Lạc nào đó, nhưng
việc nhà cửa
cung điện do ngọc
báu trang nghiêm hoá thành; các loại
cây lá bằng vàng bạc,
lưu ly, pha lê, san hô, mã
não... thân người lại
thanh tịnh, đủ
các thứ diệu
âm, thần thông công đức;
đồ ăn thức
uống tự
do ý muốn mà hiện
ra; khi ăn chỉ cần
ngửi hương
thì no đủ, nhẹ
nhàng không nhơ bợn
v.v... mà được đức
Phật nói trong kinh Vô Lượng
Thọ, thì xem ra khó thể
tin được. Điều
không tin này cũng hợp
lý, vì lấy việc
đây so với việc
kia làm sao chẳng thấy
khác biệt. Giống
như một
người ở
xứ văn minh điện
tử, đi vào bộ
lạc thiểu
số rồi
kể về
sự sinh hoạt
cơ khí, điện
tử ở
công xưởng, ngân hàng, phi trường,
siêu thị... thì làm sao người
bộ lạc
kia có thể hiểu
và tin! Nếu nói phải
giải thích cho ra việc
nhiệm mầu
kia thì người ta mới
tin, thì xin thưa, ngay tại
thế gian này cũng
có nhiều việc
nhiệm mầu
xảy ra mà con người
vẫn không biết
làm sao giải thích. Sự
kiện Hòa Thượng
Thích Quảng Đức
ngồi ngay trong lửa
đỏ mà vẫn
an nhiên, tự tại
trong tư thế
thiền tọa
vững vàng. Và việc
lạ lùng hơn
là trái tim của Ngài lửa
đốt vô hiệu
quả.
Vấn
đề nghi ngờ
về thế
giới mầu
nhiệm ở
Cực Lạc
Tây phương, nếu
đem ra giải thích thế
nào cũng không dứt
được hoài nghi. Bởi
vì sự huyền
diệu, nhiệm
mầu của
Phật pháp vượt
ra ngoài hiểu biết
của con người,
do vậy kiến
thức phàm phu khó thể
suy tưởng nổi
cảnh Phật,
Thánh. Lấy thêm vấn
đề nữa
là xá lợi (xương
cốt sau khi đốt
hiện ra màu sắc
như đá ngọc)
của bậc
chân tu xưa nay đã làm nhiều
người thắc
mắc, vì không thể
xảy ra ở
một người
thường (người
không có thực hành công phu tu
học). Việc
khó hiểu nữa
là nhục thân bất
hoại (thân chết
mà không bị hư
thối) của
các vị tổ,
như tổ
Huệ Năng ở
Trung Hoa (638-713), ở miền
Bắc Việt
Nam có Thiền sư
Nguyễn Khắc
Trường khoảng
thế kỷ
17 cũng đã để
lại nhục
thân không hư hoại
...
Đó là một
vài sự kiện
trước mắt
ngay thế giới
này mà chúng ta cũng không hiểu
nổi, nói chi ở
một thế
giới xa xôi kia. Huống
chi dân chúng ở thế
giới đó toàn là các bậc
thanh tịnh, dứt
sạch mọi
ô nhiễm, thì sự
mầu nhiệm
đương nhiên là sự
thường tình, cũng
như chuyện
ăn uống ở
thế gian vậy.
Như
muốn lần
nữa xác nhận
cõi Cực Lạc
A Di Đà có thật thì chúng ta
nên nhớ ngay lời
miêu tả cõi Tịnh
Độ chính do đức
Phật Thích Ca nói ra; mà lời
nói của đức
Phật như
đã trình bày ở phần
trước luôn hợp
với khoa học
và muôn đời vẫn
là thật ngữ.
Tóm lại
vũ trụ
vô cùng vô biên, thế giới
lại hằng
hà sa số, thì cõi Cực
Lạc A Di Đà cũng
chỉ là một
cõi Phật hiện
hữu thật
có như bao cõi thế
giới khác mà trong kinh Hoa
Nghiêm đã dạy.
Chọn Pháp Môn Trong Thời
Đại Văn Minh
Đời
người ngắn
ngủi chập
chờn như
giấc chiêm bao không thật
có. Bao toan tính xây dựng hoa
mộng trong đời
là việc nửa
chừng bỏ
dở, rồi
theo nghiệp mà đi để
quay về mang kiếp
hình khác, lại tiếp
tục xây mộng
giả. Nhưng
nghiệt ngã thay cho nghiệp
thức kia không chỉ
chọn cảnh
người mà tránh cảnh
thú, hay ngạ quỷ,
địa ngục...
Vì vô minh vọng ác chẳng
kể gì đêm tối
hố thẳm,
nghiệp thức
đã tạo phải
trầm luân mãi sáu nẻo
luân hồi.
Thương
cho chúng sanh cứ lao theo trần
cảnh chẳng
muốn quay về.
Đức Phật
từ bi giảng
dạy đủ
mọi phương
tiện pháp môn, hầu
tùy tâm tự thích chọn
lựa. Người
tâm tưởng sáng suốt,
tư duy nhạy
bén căn tánh lưu thông thì chọn
pháp môn đốn giáo nhận
thẳng chân tâm, thấy
tánh là Phật như
pháp tu Thiền định.
Người muốn
đi sâu vào lý pháp chân như của
vạn pháp Phật
mầu thì chọn
pháp tu Viên giáo theo Hoa Nghiêm tông v.v... Và người
muốn nương
vào Phật lực
cùng với tâm lực
cầu sanh về
cảnh Phật
để hoàn tất
con đường tu thì chọn
pháp môn Tịnh Độ
chẳng hạn.
Tất
cả những
phương tiện
như vậy
đều đưa
chúng sanh về đến
mục tiêu giải
thoát. Tuy nhiên dù con đường
đã sẵn có, mục
tiêu quá rõ ràng vậy mà vẫn
còn xa tít mờ mịt
với chúng ta. Có phải
chăng đời nay đúng là đời
mạt pháp. Trong quyển
"Phật Học
Tinh Yếu" của
cố Hoà Thượng
Thích Thiền Tâm phần
nói về Phật
Pháp Trong Ba Thời có tóm lược
bốn thuyết
về thời
kỳ Phật
pháp "...Các bậc danh
đức bên Trung Hoa đều
thể dụng
thuyết chánh pháp 500 năm, tượng
pháp 1,000 năm, và y-cứ theo
kinh Đại Bi thêm vào phần
mạt pháp 10,000 năm (9)."
Và “Nhơn
Vương Kinh Sớ”
nói: "có giáo lý, có hành trì, có quả
chứng gọi
là chánh pháp. Có giáo lý, có hành trì không quả
chứng, gọi
là tượng pháp. Có giáo lý không
hành trì, không quả chứng,
gọi là mạt
pháp (10)".
Có thể
nghĩ rằng
thời tượng
pháp không phải không có người
chứng đạo,
nhưng vì khó gặp
khó thấy nên ví là không. Riêng
thời mạt
pháp cũng vậy,
kẻ hành trì đúng pháp khó thấy
khó gặp, chớ
không phải không có. Từ
đây lại thấy,
thời mạt
pháp người hành trì mà còn khó
thấy, nói chi người
chứng quả.
Xét lại điều
nói trên không phải cho là hoài
công vô ích ở việc
tu hành đời nay; mà đây là lời
cảnh tỉnh
để thức
ngộ tánh giác cho việc
giải quyết
sinh tử. Vậy
thì suy ra con đường tu tập
của chúng ta phải
thế nào để
gọi là có hành trì và chỉ
cần có hành trì thôi cũng
là quý lắm rồi.
Vì ngay thời tượng
pháp có hành trì mà còn không quả
chứng huống
chi thời mạt
pháp kinh nói không có hành trì, nghĩa
là hành trì không đúng theo chánh pháp vậy,
hay rõ hơn hành trì không đem đến
sự thoát ly sinh tử.
Thế thì làm sao giải
quyết xa lìa sinh tử
luân hồi ?
Trong đường
nan giải mịt
mù này ta hãy quan sát tìm lại
con đường nào khả
dĩ giúp ta không hoài công phí
sức có được
một chút hành trì cho đúng nghĩa
của hành trì mà Phật
dạy trong đời
mạt pháp. Xem lại
pháp môn tu của Phật,
được biết
đến hiện
nay gồm có mười
pháp môn tu theo mười tông
phái: 1) Câu Xá Tông, 2) Thành Thật
Tông, 3) Tam Luận Tông còn gọi
là Tánh Không Tông,4) Duy Thức
Tông còn gọi là Pháp Tướng
Tông, 5) Pháp Hoa Tông còn gọi
là Thiên Thai Tông 6) Hoa Nghiêm Tông còn gọi
là Hiền Thủ
Tông 7) Luật Tông, 8) Thiền
Tông, 9) Tịnh Độ
Tông 10) Mật Tông còn gọi
là Chơn Ngôn Tông.
Trong các
pháp môn của những
tông này hẳn nhiên là những
con đường chắc
chắn tiến
tới giải
thoát. Tuy thế trong các môn
đây chỉ có pháp môn Tịnh
Độ là có tha lực
của đức
Phật hộ
trì tiếp dẫn.
Còn lại các môn khác đều
hầu như
do tự lực
hành đạo. Việc
tự lực
này không nói ai cũng rõ là phải
khó hơn là nhờ
tha lực. Lại
hiểu đơn
giản của
tự lực
là tự mình quyết
định, tự
mình tầm kiếm,
tự mình đến
nơi, và nếu
có nhờ tha lực
thì cũng nhờ
rất ít, chớ
thâm tâm tư tưởng
vẫn hằng
nuôi ý chí độc lập
vào nghị lực
của cá nhân mình.
Với
ý nghĩ như
vậy, thì người
tu các pháp môn khác không phải
là Tịnh Độ
mà được quả
chứng, phải
là người có đầy
đủ nghị
lực, hay nói cho đúng phải
là bậc thượng
căn, thượng trí ...
Thời
Phật còn tại
thế Ngài đã không nói là phương
pháp này khó, phương pháp kia dễ,
phương pháp này các ông nên tu,
phương pháp kia các ông nên bỏ
v.v...mà Ngài chỉ nói ra những
điều chân lý, tùy hợp
với căn cơ
của mỗi
người. Trong Phật
pháp do đó nghe nói đến khế
kinh có nghĩa kinh hợp
với chân lý và căn cơ,
thời đại
hiểu biết
của chúng sanh.
Vậy
thì xét lại trí lực,
căn cơ của
con người bây giờ
và hoàn cảnh thời
đại ngày nay cách Phật
quá xa, có thể cho ta một
quyết định
chọn lựa
pháp môn sao cho thích hợp để
hành trì mà không uổng tiếc.
Ôi thật
may thay con đường thẳng
tắp lối
đi sáng tỏ đã được
đức Phật
chỉ bày rõ ràng dễ
hiểu đó là con đường
Tịnh Độ.
Đường đi Tịnh
Độ không phải
gian nan hiểm trở,
không phải đơn
độc hành trì, và lại
càng không phải đòi hỏi
hành giả trí lực
cao thâm, căn cơ trung, thượng
hoàn cảnh nhất
định nào đó v.v...
Đường
đi Tịnh Độ
chỉ là lối
đi êm ái nhẹ nhàng trong niềm
tin mãnh liệt của
chánh pháp. Bất cứ
người nào, không phân biệt
nhỏ lớn,
giàu nghèo, si mê, trí tuệ nếu
sống đúng nhân cách thương
người, mến
vật rồi
thực hành pháp môn này không kể
ít hay nhiều chỉ
thành tâm tha thiết thì nhất
định sẽ
được Phật
gia hộ, khi lâm chung chắc
chắn sanh về
thế giới
Phật A Di Đà.
Đặt
trọn niềm
tin với tịnh
độ không có nghĩa
là phó thác, ký nhờ. Người
thực hành pháp môn này cũng
phải gia công gắng
sức nhớ
ghi, quán tưởng, nhất
tâm trì danh hiệu Phật,
và với sự
dụng công này, cũng
được xem phải
có tự lực.
Cho nên pháp môn Tịnh Độ
không hoàn toàn có nghĩa nhờ
tha lực. Pháp tu Tịnh
Độ lại
có điều huyền
diệu là không bị
lệ thuộc
vào chướng duyên nào trong việc
hành trì. Hành giả niệm
Phật có thể
niệm Phật
bất cứ
nơi đâu mà không lo ngại
nơi đây thanh tịnh
nơi kia ô nhiễm.
Do không hạn cuộc
nên mới thích hợp
với thời
đại văn minh ngày nay.
Có người
nghĩ rằng
lao đầu vào công việc
sinh nhai hẳn phải
tạo nhiều
nghiệp ác, nhưng
lẽ nào khi ngã bệnh
lại nhớ
niệm Phật
vài câu mà được vãng sanh?
Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo, nhà
vua khi thưa hỏi
với tỳ
kheo Na Tiên cũng có nghi vấn
như vậy.
“Vua hỏi:
- Nói
rằng người
ở thế
gian làm điều ác đến
trăm năm khi chết nếu
biết niệm
Phật, sau khi chết
được sanh lên cõi trời,
lời nói như
vậy, tôi không tin. Lại
nói một khi sát sanh chết
liền đọa
vào địa ngục
Ni Lê, tôi cũng không tin.
Tỳ
kheo Na Tiên đáp:
- Có
người cầm
viên đá nhỏ để
trên mặt nước,
đá đó nổi hay chìm? Vua trả
lời chìm vậy.
Na Tiên Tỳ-Kheo nói, như
bưng trăm tảng
đá lớn để
trên chiếc thuyền,
thuyền kia chìm hay nổi?
Vua
đáp: - không chìm vậy.
Tỳ
kheo Na Tiên nói rằng:
- Trăm
tảng đá lớn
để trong thuyền,
thuyền vẫn
không chìm. Người tuy có đại
ác, nếu một
khi biết niệm
Phật, nhờ
đó mà không đọa vào địa
ngục Ni Lê, liền
sanh lên cõi trời sao lại
không tin? Viên đá nhỏ kia chìm
như người
làm ác không biết có Phật,
không biết niệm
Phật, sau khi chết
đọa vào địa
ngục Ni Lê, chuyện
đương nhiên như
thế, vì sao lại
không tin?
Nhà
vua nói: - Hay thay! hay thay!”
(11)
Thế
thì chúng ta thấy, xét cho cùng
ở hoàn cảnh,
tình huống mà con người
phải bị
lôi kéo vào dòng thác lũ của
vật chất,
văn minh dục lạc,
thì lối thoát trở
về với
chân tâm khó có thể tìm ra được
bằng con đường
tự thân, tự
lực. Trong quyển
"Các tông phái đạo Phật"(12)
của Đoàn Trung Còn, phần
nói về tông Tịnh
Độ có nhắc
đến Ngài Pháp Nhiên bên Nhựt.
Trong thời gian tu hành thiền
niệm Ngài đã đọc
hết năm ngàn quyển
kinh trong ba tạng kinh bằng
chữ Hán, lại
xem hết các kinh dẫn
giải về
đức Phật
A Di Đà của tổ
sư Viễn
Công bên Tàu. Xét thấy hoàn cảnh,
căn cơ thích hợp
với pháp môn Tịnh
Độ nên Ngài quyết
định hành trì, chọn
lựa pháp môn Tịnh
Độ làm con đường
hoằng hóa. Cuộc
đời tu hành của
Ngài được rất
nhiều người
kính mộ. Ngài được
tôn là vị Giáo tổ
kể từ
đó. Trước khi nhắm
mắt Ngài có viết
tờ chúc truyền
lại cho môn đệ
như sau: “Đời
nay không phải tham thiền
thẩm xét về
trí như mấy
bậc hiền
xưa. Đời
nay ta phải thành tâm mà tưởng
Phật, niệm
Phật. Ta sẽ
được về
nơi Phật
quốc, ta sẽ
được giải
thoát chớ chẳng
không. Vậy ta cứ
niệm Phật
một cách vững
vàng...” Lúc Ngài thọ
bệnh mà tịch,
cặp môi vẫn
không ngớt niệm
A Di Đà. Ngài hưởng thọ
bảy mươi
chín tuổi, mất
năm 1212 cách đây hơn bảy
trăm năm.
Qua lời
dạy của
Ngài chúng ta thấy một
điều chắc
chắn pháp môn Tịnh
Độ hẳn
phải là con đường
dễ nhất
làm ngọn đuốc
dẫn chúng sanh ra khỏi
đêm tối luân hồi.
Bởi cách đây hơn
bảy thế
kỷ mà Ngài dạy
là đời nay không phải
tham thiền, thẩm
xét, tư tưởng
học hỏi
trí tuệ như
bậc hiền
xưa, thì thử
hỏi sau bảy
trăm năm nền văn minh vật
chất đã quá tiến
bộ, phức
tạp, con người
lại phải
chạy theo đà văn minh rầm
rộ này thì nghĩ
lại lời
Ngài dạy ta phải
giựt mình. Tuy nhiên ta cũng
nên hiểu thêm, điều
Ngài nhấn mạnh
ở việc
niệm Phật
cầu vãng sanh là then chốt
chớ không phải
bác bỏ học
hỏi, tư
tưởng v.v... Như
thế việc
nhận ra khả
năng và hoàn cảnh để
chọn cho mình một
lối tu là một
điều thực
tiễn mà mỗi
người chúng ta phải
tự lo liệu.
Kết
lại đời
nay đã rõ ràng không phải là thời
chánh pháp hay tượng pháp, thế
nên chúng ta hãy nhìn lại những
bước đi của
người trước
mà thực hành theo pháp môn huyền
diệu này như
trong Đại Tập
Kinh đã dạy: “Mạt
thế ức
ức người
tu không có một người
giải thoát; chỉ
nương pháp môn niệm
Phật mà ra khỏi
luân hồi
(13).”
Niệm Phật Với Tuổi Trẻ
Xưa
nay pháp tu niệm Phật
hay bị hiểu
lầm, chỉ
dành cho những người
già, căn cơ thấp
kém. Chính việc hiểu
lầm này khiến
cho một số
người trẻ
vốn đã không muốn
vào cổng chùa lại
càng lùi xa hơn nữa
.
Bản
chất của
người trẻ
thường là hăng say, vượt
tiến ít khi chịu
quy phục van xin. Tư
tưởng quan niệm
của người
trẻ lại
cần thực
tế, nhất
là phải khoa học
mới thích ứng
họ. Từ
vấn đề
này đa số người
trẻ thường
hay xem thường pháp môn niệm
Phật. Họ
có thể cho pháp môn niệm
Phật là pháp tu cầu
khẩn mơ
hồ. Dù là họ
không nói ra nhưng việc
họ không bao giờ
để ý, tìm hiểu
đến việc
niệm Phật
vãng sanh, đã nói lên thành kiến
đó.
Thật
ra pháp môn niệm Phật
dung hợp mọi
căn cơ, ứng
hợp mọi
thời đại,
và vậy trong đó đã gồm
luôn cả người
trẻ. Nhưng
vì sao người trẻ
vẫn khó tin? Điều
này cũng dễ
hiểu, vì họ
thấy pháp môn niệm
Phật chẳng
có dụng công chi, chỉ
có niệm Phật
rồi cầu
nguyện vãng sanh, dể
quá ai mà tin! Phần thì tánh chất
của người
trẻ phải
là vượt lên chiến
thắng; mà không có chiến
đấu lấy
đâu có chiến thắng,
hấp dẫn
được. Chiến
đấu đây phải
là công phu nội lực,
tập trung định
thần v.v...
Ít ra thì
họ cũng
đúng vì theo truyền sử
của Phật,
họ thấy
trước khi thành Phật
Ngài đã chiến đấu
với Ma Vương
bằng nội
tâm, chiến đấu
với thể
xác qua khổ cảnh
và sự chiến
đấu kia đã mang lại
chiến thắng
huy hoàng, đắc đạo
của Bồ
Tát Tất Đạt
Đa, để trở
thành bậc Chánh Đẳng
Chánh Giác; chớ có đâu chỉ
lâm râm niệm Phật
mãi mà vượt thoát sinh tử
sao! Vì nghĩ như
vậy người
trẻ đã không tìm thấy
vẻ hấp
dẫn nào trong pháp tu niệm
Phật. Nhưng
thật tiếc
thay ước vọng
của người
trẻ, trong việc
tìm kiếm một
sự chiến
thắng tương
tự như
thế, sẽ
không thể nào được
như ý. Sự
chiến thắng
nội tâm, chiến
thắng dục
vọng chỉ
có thể đến
từ con người
thượng căn, thượng
trí... Với chiến
thắng vật
chất, kiến
thức xã hội
không thể so sánh được.
Người trẻ
vì cảm thấy
không khó khăn gì để thắng
trận vật
chất, thu thập
kiến thức,
nên họ nghĩ
bước vào đạo
giáo cũng phải
như vậy.
Tư tưởng
như thế
thật quý, đức
Phật cũng
đã dạy hãy tự
thắp đuốc
mà đi, hãy tự lấy
mình làm nơi nương
tựa và kinh Pháp Cú đã dạy
"Hãy tự mình chiến
thắng lấy
mình hơn là chiến
thắng kẻ
khác, không ai có thể thắng
người đã tự
thắng mình
(14)."
Nhưng
hoàn cảnh ngày nay, khác ngày xưa
nhiều lắm.
Thời đại
xa xưa con người
với sinh hoạt
thô sơ, hoàn cảnh
giản đơn,
nếp sống
an bình thành ra tâm người và
ngoại cảnh
dễ hòa hợp
nhau. Người ta có thể
hòa nhập với
thiên nhiên dễ dàng. Tu sĩ
đạo giáo thì an hưởng
nhẹ nhàng với
đạo, do đó giây phút định
tâm giác tỉnh không khó khăn,
có thể nhiếp
tâm, chánh niệm lúc nào cũng
được. Ngày nay thì vật
chất cực
thịnh, sinh hoạt
quá văn minh đến nổi
thành rối bù phức
tạp. Hoàn cảnh
lại xung đột
bất an, con người
do vậy biến
thành gắt gao xung khích. Với
nghịch cảnh
đảo điên ngày nay như
thế, liệu
con người có thể
định tâm, nhập
định như
xưa? và việc
chiến thắng
nào đó có còn là việc dễ
?
Nếu
người trẻ
hiểu rằng
chiến thắng
những ham muốn
bất chánh, những
dục vọng
đam mê dẫn đến
phiền não là sự
chiến thắng
mang ý nghĩa cao đẹp,
thì pháp môn niệm Phật
là phương pháp lập
được chiến
công đó. Nếu người
trẻ lại
nghĩ phải
có một kết
quả an lạc
thực tế
ngay trong đời chớ
không phải đợi
đến một
đời xa xôi sau khi chết,
thì pháp niệm Phật
vẫn là phương
pháp thực tế
có kết quả
ngay trong đời hiện
tại .
Để
nhận xét quan điểm
trên chúng ta thử nghĩ
như vầy,
cốt yếu
của đạo
Phật là đưa
người về
bản tâm giác thiện
bằng mọi
cách. Dù phương tiện
hành động ra sao miễn
hợp với
chân lý, chặn đứng
phiền não khơi
dậy tánh giác là đạt
được an lạc,
hạnh phúc. Hành động
theo căn bản học
Phật là nhận
biết ba nghiệp
là đầu mối
tạo ra nguyên nhân khổ
đọa. Ba nghiệp
này là Thân, Khẩu, Ý chính ba
nghiệp đó đã tạo
ra mười nghiệp
ác như: Thân thì sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, Khẩu
thì nói dối, nói thêu dệt,
nói đôi chiều (nói hai bên),
nói độc ác ,Ý thì tham, giận,
si mê. Ngược lại
hoán chuyển được
ba nghiệp, mười
nghiệp ác sẽ
trở thành mười
nghiệp lành: không sát sanh,
không trộm cắp,
không tà dâm v.v...
Người
kiểm soát được
ba nghiệp là người
đã thắng được
cuộc chiến
thắng vẻ
vang. Thực hành pháp tu niệm
Phật là vũ
khí tốt nhất
ngăn chặn đánh đuổi
kẻ thù tham vọng,
si mê, độc ác ...
Khi ý nghĩ
về danh hiệu
Phật thì phiền
não tham lam, sân hận, si mê
không có cơ hội
nổi lên; do ý tưởng
niệm Phật
đó, miệng liền
thầm đọc
lên danh hiệu Phật
và vậy những
lời dối
gạt, xấu
ác cũng không còn trên miệng.
Vì ý và miệng đã hợp
nhất nên thân không gây ra việc
sát sanh, trộm cắp,
tà dâm. Thế thì đây là giây
phút chiến thắng
hoàn toàn vậy. Đã chiến
thắng thì bao niềm
an lạc, định
tâm, trí tuệ là chiến
lợi phẩm
mà người niệm
Phật vẻ
vang chiếm được,
do đó là kết quả
an vui thực tế
không phải hẹn
đến tương
lai gì cả .
Qua phần
nhận xét trên, chúng ta thấy
sự thật
của việc
niệm Phật
không phải là sự
cầu khẩn,
quy lụy sợ
sệt, van xin, mà là sự
chiến đấu,
dùng câu niệm Phật
để diệt
trừ phiền
não. Hiểu như
thế mới
thấy niệm
Phật là hành động
đích thực có trí tuệ.
Trong kinh Thập Nhị
Phật Danh có dạy
"Nếu người
trì danh hiệu Phật
thì không sanh lòng yếu đuối
sợ sệt,
có được trí tuệ
không quanh co dua nịnh, thường
ở trước
đức Phật
(15)."
Khi đã rõ
như vậy
thiết nghĩ
cuộc chiến
đấu (niệm
Phật) diệt
trừ phiền
não đây nếu không nói là người
trẻ thích hợp
hơn !
Lại
nghĩ thêm một
việc, tuổi
trẻ hãy nên cẩn
trọng, không nên nhìn đời
luôn là màu xanh, tuổi thanh
xuân sẽ trẻ
hoài với năm tháng. Hãy nhìn
xem thời tiết
đổi thay bốn
mùa luân chuyển. Hoa trái mới
kết nở
đây rồi liền
rụng đó, và con người
cũng chẳng
chạy khỏi
định luật
vô thường này. Nếu
biết lợi
dụng thân thể
còn khỏe mạnh,
trí tuệ còn minh mẫn,
bỏ ra ít thời
giờ gây trồng
chủng tử
niệm Phật
thì sau này có về già định
lực niệm
Phật sẽ
kiên cố vững
vàng chừng đó việc
nhắm mắt
siêu thoát nắm chắc
trong tay. Bằng để
uổng phí luống
qua thời trung trẻ,
chạy theo trần
cảnh giả
mộng khi vô thường
bất chợt
cướp đi đời
sống, chừng
ấy thần
thức bơ
vơ lạc
loài vô định hướng,
phải chịu
nghiệp tội
dẫn đi vào cảnh
tối tăm mịt
mờ. Như
may mắn trở
lại cảnh
người, lại
có gì bảo đảm
là mình khỏe mạnh,
lành lặn, hiểu
biết như
hôm nay, còn gặp được
Phật pháp thì có lẽ
rất hiếm,
bởi không gieo trồng
nhân đời nầy
thì đời sau có duyên đâu gặp
được, cho dù sanh ra nhà
ở sát cạnh
chùa, đêm ngày nghe kinh kệ cũng
chẳng hiểu
chi.
Xét lại
niệm Phật
pháp môn không phải chỉ
dành cho người già mà đúng lý của
niệm Phật
là phải niệm
cho đến già cho đến
mất mới
thành tựu vãng sanh được.
Đợi đến
già niệm Phật,
việc thành tựu
hẳn phải
khó khăn hơn. Lý do vì cả
cuộc đời
trong quá khứ đã tích trữ
chứa đựng
những điên đảo
nghiệp thức
nên công phu bây giờ luôn bị
khuấy trộn
với hình ảnh
xưa, tìm được
một giây phút nhất
tâm lắng động
nào trong câu niệm Phật
giống như
đãi vàng được vàng vậy.
Tuy nhiên nói thế để
biết niệm
Phật cũng
ra công tự lực,
và điều quan trọng
hơn hết,
khi nhận thức
niệm Phật
là tạo chủng
tử lành, diệt
chủng tử
xấu ác thì phải
thực hành ngay mới
có lợi ích. Với
tuổi trẻ,
niệm Phật
dự trù trước
cho tương lai là điều
hợp lý, như
người vừa
được việc
làm liền đầu
tư vào trương
mục tiết
kiệm đến
khi không còn làm việc được
nữa cũng
chẳng lo chi. Bằng
đợi đến
lúc sức kiệt,
sắp về
hưu mới
đầu tư
tiết kiệm
thì có được mấy
đồng. Cuối
cùng để gợi
ý cho người trẻ
sớm quay về
xin nhắc lại
lời người
xưa đã dạy:
Đừng
hẹn tuổi
già mà tu đạo.
Mồ
hoang lắm kẻ
tuổi xuân xanh
Niệm Phật
Để Tìm Lại Chính Mình
Con
người được
sanh ra lớn lên, theo dòng đời
nổi trôi chìm hụp.
Mỗi mỗi
người ôm mang một
duyên nghiệp, tạo
thành sự khắn
khít day dưa trả
vay, vay trả. Dòng đời
vẫn vô tình cứ
trôi mãi chẳng đoái hoài, còn
nghiệp thức
vì xao động vô minh nên chạy
theo từ lực
của dòng đời
đến hằng
kiếp.
Trong
dòng nghiệp lực
đó, không ai biết đến
mình đã bao lần sanh tử,
tử sanh. Cũng
vì muôn lần như
vậy mà Phật
có nhắc qua kiếp
sống chết
của chúng sanh như
sau. "Nếu có thể
gom lại xương
của một
người
trong vòng luân hồi, và nếu
xương ấy
còn nguyên vẹn, thì nó sẽ
như một
thạch trụ,
một chồng,
một đống
khổng lồ
bằng quả
núi Vepulla (16)." Còn nước
mắt chúng sanh từ
vô thỉ đến
nay thì Phật ví nhiều
như nước
biển.
Cuộc
tuần hoàn cứ
vậy mà thiên thu bất
tận càng tìm hiểu
lại càng thương
tủi cho thân phận
của mình. Vì sao, thế
nào lại phải
vương mang khổ
lụy luân hồi
mãi! Và con đường sinh tử
vậy không thể
chấm dứt
sao ?
Điều
thắc mắc,
nghi vấn đã được
đức Phật
giảng dạy
rõ ràng cách đây hơn hai mươi
lăm thế kỷ.
Một khoảng
thời gian khá lâu đủ
để giựt
mình nhìn lại ta mới
vừa tỉnh
thức. Phật
dạy thế
nào, ra sao đã được ghi lại
trên hàng trăm ngàn trang giấy.
Lời Phật
tuy xa xưa nhưng
vẫn mồn
một rõ ràng như
mới ngày hôm qua, như
cách đây một giờ
vài phút. Tâm thức chúng ta nếu
sống dậy
tức khắc
sẽ không thấy
đâu là thời gian của
hơn hai ngàn năm trăm năm trước,
hay không gian tịt mù bên xứ
Ấn Độ.
Nhưng vì mê mờ
vô minh, xuôi thuận dòng đời,
bám víu thế gian, tắm
biển luân hồi,
từ chối
chân lý, nuôi dưỡng bản
ngã, say ngủ vô thường...
mà không gian đối với
ta là vô tận, thời
gian lại vô cùng. Gương
ảnh tổ
trước mặt
nhưng trọn
đời ta vẫn
không thấy. Lời
Phật tụng
đọc hằng
ngày mà chẳng lọt
vào tâm. Chắc có lẽ,
bụi nghiệp
vô minh quá dày khiến ta không
còn nhìn thấy, nhận
ra con người của
ta nữa, nên cứ
mãi nhảy múa theo hình sắc,
âm thinh vọng tình, tham ái. Đến
khi kiệt sức
lả người
mới thấy
cuộc đời
là giả, con người
là mộng nhưng
đã muộn rồi,
vì mộng giả
đã dệt thành nghiệp
thức phải
mang. Nay muốn quay về
lau bụi vô minh, tìm ra hình
giác, không biết có còn đủ
sáng suốt nhận
ra hình ảnh (tánh giác) ngày xưa
của mình hay không? Hay lại
không tin ảnh mình trong gương
là ảnh thật,
cũng như
kẻ cùng tử
trong kinh Pháp Hoa (phẩm Tín
Giải), không biết
rằng chính mình là con của
trưởng giả
giàu có, mà cứ trốn
chạy lánh xa chịu
sống đời
khốn khổ
lang thang.
Ôi vô
minh là đầu mối,
ôi tham ái tạo ra vô minh là
nguyên nhân ngăn cản con đường
tìm lại chính ta. Tìm lại
chính mình là tìm về chân tâm vốn
thanh tịnh của
pháp thân Phật tánh của
vẻ đẹp
trang nghiêm thanh tịnh Như
Lai, như trong kinh Quán Vô Lượng
Thọ, Phật
bảo tôn giả
A-Nan và Hoàng Hậu Vi Đề
Hy rằng. "Các đức
Như Lai thân là pháp giới,
nhập vào tâm tưởng
của chúng sanh, thế
nên các ông khi tâm tưởng Phật
thì tâm tức là đầy
đủ 32 tướng
tốt, 80 vẽ
đẹp, tâm này là Phật,
các Phật là chánh kiến
tri hải, từ
tâm tưởng sanh ra..."
(17)
Theo lời
Phật dạy,
chúng ta thấy rằng
tâm Phật đã sẵn
có trong tâm chúng sanh, và khi tâm ta nghĩ
niệm Phật
thì tâm ta là Phật, mà tâm Phật
là tâm vắng lặng
sáng suốt không có nhiễm
ô trần cảnh,
ngược lại
tâm chúng sanh đầy trần
lao bụi cảnh.
Nhưng bản
lai chân tánh của ta trước
khi bị nhiễm
trần cũng
đã thanh tịnh không khác. Như
thế niệm
Phật là tìm lại
mình, tìm lại cái bản
lai chân tánh hay cái nguyên thủy
của Phật
tánh vốn bị
lu mờ do sự
phân biệt vọng
động của
vọng tâm duyên trần,
để phải
nổi trôi mãi trong biển
kiếp tuần
hoàn của vô minh. Và giờ
đây chúng ta đã thấy mỗi
mỗi tâm niệm
nhớ nghĩ
về danh hiệu
Phật là mỗi
giờ phút sống
với con nguời
thật của
chính chúng ta, mà một khi đã sống
được như
vậy, thì chúng ta đã thấy
được ngọn
hải đăng trong đêm tăm tối
của biển
đời chìm hụp.
Niệm Phật Trong Tạp Niệm
Người
niệm Phật
là người cất
bước trên con đường
về Cực
Lạc. Không luận
là niệm nhiều
hay ít, tán tâm hay nhất tâm. Hễ
có niệm Phật
là có chủng tử
Phật, không sớm
thì muộn cũng
về đất
Phật. Tuy nhiên điều
quan trọng nhất
của niệm
Phật là có lòng tin. Tin Phật
Thích Ca không bao giờ nói dối.
Tin Phật A Di Đà sẽ
tiếp dẫn
và tin mình sẽ được
vãng sanh. Chỉ cần
đủ niềm
tin như vậy
một cách vững
vàng kiên cố thì bước
đi đến Cực
Lạc chắc
chắn phải
tới.
Niệm
là cất bước
đi, tin là phương tiện
giúp cho việc đi mau tới.
Riêng về tán tâm niệm
Phật cũng
đừng lo ngại
chi cả, vì có ai lại
biết được
là mình nhất tâm, nếu
biết mình đang nhất
tâm niệm Phật
thì cái biết này đã là tán tâm
rồi. Cho nên có thể
hiểu nhất
tâm niệm Phật
là giờ phút chót của
đoạn đường
đến Cực
Lạc. Nhưng
nói vậy không có nghĩa
là ta không có được giây phút
nhất tâm nào lúc đang niệm
Phật. Dĩ
nhiên là phải có, mà có đây cũng
được xem như
không, vì đã nói khi biết được
nhất tâm là đã có sự
động (biết)
trong khi niệm Phật
rồi. Thành ra có nhất
tâm hay không điều này ta đừng
lo ngại .
Cái lo ngại
nhất của
người niệm
Phật là quên niệm
Phật. Khi ta quên niệm
Phật thì ngay lúc đó ta đã dừng
lại bước
đi tới hướng
về Cực
Lạc, mà đứng
lại cũng
còn may mắn chỉ
sợ ta bị
đẩy lùi nữa
là khác. Người ta thường
nói không tiến ắt
phải lùi nghĩa
là vậy. Những
hình ảnh tư
tưởng tham vọng,
sân hận là sức
đẩy xô ta lùi lại
sau. Sức đẩy
của chúng có thể
mạnh hơn
câu niệm Phật
nếu ta niệm
lơ là biếng
trễ.
Chúng ta
cũng đừng
lo ngại rằng
niệm Phật
xen vào công việc giao tế
sinh hoạt, ăn uống,
vệ sinh là bất
kính. Trong hoàn cảnh vậy,
đây mới là sự
niệm Phật
chí thành tinh tấn, bởi
đó chứng tỏ
định lực
nhớ ghi của
ta đã vững vàng. Hơn
nữa niệm
Phật là niệm
cái tánh giác Phật tánh của
mình thì việc khắc
ghi mãi tánh giác ấy vẫn
hợp với
Phật pháp. Và hẳn
nhiên trong tình huống như
thế không thể
nào niệm ra tiếng
được, mà chỉ
nhớ ghi thôi. Nhớ
rằng ta đang biết
câu niệm Phật
trong đầu đang tuôn chảy.
Do vậy nếu
có lo ngại là lo ta có thường
nhớ câu niệm
Phật hay không?
Với
công việc lao động
bằng tay chân thì còn dễ
niệm, chớ
việc làm tính toán nghĩ
suy bằng trí óc hay vào những
lúc hầu chuyện
với người
làm sao niệm được!
Trường hợp
như thế
ta phải giải
quyết hoàn tất
công việc đó, nhưng
cố gắng
làm sao trở về
với câu niệm
Phật được
lúc nào hay lúc đó. Đây không phải
là điều gượng
gạo phân tâm, khó xử
mà là phương tiện
luyện tâm niệm
Phật vậy.
Trong cuộc
sống hằng
ngày tâm niệm của
ta thường lăng xăng chạy
theo muôn chuyện, đầu
óc chẳng bao giờ
muốn ngừng
nghỉ, bởi
vậy mỗi
câu niệm Phật
hay bị xen vào những
tạp niệm.
Nhưng thử
nghĩ nếu
ta không niệm ngay lúc này mà đợi
đúng giờ đúng khắc
trì kinh mới niệm
thì làm sao định lực
niệm Phật
có đủ sức
để trừ
khử tạp
niệm ngày càng dung dưỡng
trong ta. Chẳng nói gì ngoài giờ
tụng kinh lễ
Phật mà ngay luôn giờ
phút trang nghiêm thanh tịnh trước
bàn Phật tạp
niệm vẫn
tấn công vào. Việc
này cho ta thấy, là ta đã quá
xem thường tạp
niệm, nên dễ
duôi, tự do cho nó vào ra thoải
mái. Hay đúng hơn là ta đã
không thực tập
niệm Phật
ngay trong tạp niệm.
Nếu ta thực
sự không ngại
gì niệm Phật
trong lúc bận bịu,
rộn ràng, lúc đi, đứng,
nằm, ngồi,
ăn uống, làm việc,
tiếp chuyện
v.v...mỗi mỗi
giây phút niệm Phật,
có mặt trong giờ
phút vừa thức
dậy đi vào cuộc
sống, cho đến
đặt lưng
xuống ngủ,
kể cả
đến lúc nhắm
mắt ngủ
quên mới thôi, thì ta có lo gì
tạp niệm
nổi lên trong giờ
phút trì kinh trước điện
Phật.
Hay dù
cho tạp niệm
có móng lên trong lúc trang nghiêm đó, thì cũng
chỉ tồn
tại trong khoảnh
khắc rồi
sẽ biến
mất đi. Bởi
đó là do ta có thực tập,
sẵn sàng ứng
phó với tạp
niệm, và vậy
không còn lo lắng. Thế
là ta trở về
với lời
kinh tiếng kệ
một cách dễ
dàng.
Chúng ta
có thể đồng
ý rằng còn sống
là còn có tạp niệm.
Vì tạp niệm
là do duyên căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý) tiếp
xúc với cảnh
trần (sắc,
thanh, hương, vị,
xúc, pháp) tạo ra bao hành động
của thân và tâm. Bằng
hình thức này, mức
độ kia bất
cứ người
nào trong xã hội vẫn
không trốn chạy
được tạp
niệm, tuy vậy
chúng ta cũng thấy
có tạp niệm
con người mới
có phân biệt điều
tốt việc
xấu, và như
không có phân biệt, thì làm sao
con người phát triển
được những
tư duy. Các vị
Thánh, Tổ ban sơ
cũng từ
tạp niệm
mà cuối cùng đi dần
đến nhất
niệm, cũng
như mượn
phương tiện
trở về
cứu cánh. Vậy
thì niệm Phật
trong tạp niệm
vẫn là một
việc rất
quý, khó hành, huống chi muốn
có nhất niệm
phải từ
tạp niệm
mà ra, chỉ sợ
là, ta có niệm được
trong lúc tạp niệm
hay không! Hay suốt đời
sống chìm trong tạp
niệm.
Nói rõ lại
con đường đi đến
Cực Lạc
trước sau gì cũng
hiển lộ
rõ ràng trước mắt
người niệm
Phật. Và phương
tiện để
đưa hành giả
niệm Phật
đến đích mau hay chậm,
chắc chắn
hay không là do sức niệm
Phật của
hành giả. Cuối
cùng thì niệm Phật
muốn được
nhất tâm thì phải
niệm ngay trong tạp
niệm.
Ba Điều Quan Trọng
Cho Việc Vãng Sanh
Con
đường thành tựu
của người
tu pháp môn Tinh Độ là được
vãng sanh về thế
giới Cực
Lạc A Di Đà. Phương
tiện để
được vãng sanh là công phu tu
niệm chí thành, tha thiết.
Nhưng có được
ý chí phấn đấu
thực hành phương
tiện đó, phải
nhờ vào ba điều
kiện tối
quan trọng, đó là: Tín, Nguyện,
Hạnh,
thiếu vắng
một trong ba điều
này hành giả chỉ
loay hoay trong vòng nhơn quả
phước báo thế
gian và cảnh Tây phương
Cực Lạc
vẫn còn hẹn
lần mãi. Vậy
đã tu niệm Phật
thì phải gắn
liền ba điều
kiện trên. Trước
tiên hành giả phải
đặt lòng tin, rồi
lập nguyện,
sau cùng là thực hành.
Tín:
niềm tin đầu
tiên căn bản nhất
là tin đức Phật
Thích Ca nói ra pháp tu niệm Phật
là một sự
thật. Một
sự thật
như trăm ngàn sự
thật khác. Nếu
ở đời
sống thường
nhựt, chúng ta đã tin bao nhiêu
việc có thật
do những tiền
nhân đi trước nói lại,
để lại
thì việc tin lời
Phật dạy
còn phải mạnh
mẽ hơn
gấp trăm ngàn lần.
Trong kinh Tiểu Địa
Quán nói "Như người
không tay tuy đến bảo
sơn (núi ngọc
báu), trọn vẹn
không lấy được
gì. Kẻ không có niềm
tin, tuy gặp Tam Bảo
cũng không được
chi (18)." Đó là lợi
ích của niềm
tin khi bước vào đạo,
huống chi người
tu Tịnh độ
lấy niềm
tin làm gốc để
được vãng sanh. Tuy vậy
Phật cũng
không dạy chúng ta chỉ
có niềm tin suông, mà thiếu
suy xét, "Tin ta mà không hiểu
ta, là phỉ báng ta".
Chúng ta
lại có thể
suy cứu tìm hiểu,
qua giáo lý của Phật
để lại,
là một chứng
minh điều Phật
dạy bao giờ
cũng là chân lý. Chẳng
hạn Tứ
Diệu Đế,
Bát Chánh Đạo, Pháp Nhân Duyên,
Nhân Quả Nghiệp
Báo.v.v...và chẳng những
giáo pháp ấy được
xiển dương
ca tụng bởi
các hàng Phật tử
con Phật như
chúng ta mà ngay cả các vị
ngoại đạo
tôn giáo khác cũng thầm
khen ngợi đây là một
chân lý muôn thuở. Xin trích ra
lời của
giáo sư Rhys Davids (1842
-1922) người Anh, chuyên về
Đông phương học
.Nguyên văn như sau: "Buddhist
or not Buddhist, I have examined every one of the great religious systems
of the world, and in none of them have I found anything to surpass, in
beauty and comprehensiveness, the Noble Eightfold Path and the Four Noble
Truths of the Buddha. I am content to shape my life according to the path
."
"Phật
tử hay không Phật
tử, tôi đã nghiên cứu
đủ mọi
hệ thống
tư tưởng
của mọi
giáo phái vĩ đại
trên thế giới
và đã tìm thấy không một
hệ thống
nào, trên phương diện
toàn mỹ cũng
như về
mạch lạc
hiểu thấu
có thể hơn
được lời
dạy của
đức Phật
về Bát Chánh Đạo
và Tứ Diệu
Đế. Tôi thật
hài lòng sống đời
mình trong khuôn khổ đường
lối dạy
này (19)."
Hơn
thế nữa
cho dù nhân loại có tin hay
không tin thì giáo pháp của Phật
vẫn muôn đời
là chân lý xảy ra trước
mặt chúng ta. Thí dụ
bốn điều
khổ: Sanh, Lảo,
Bệnh, Tử.
Định luật
giả lập
của mọi
vật: Thành, Trụ,
Hoại, Không (sanh ra có mặt,
tồn tại
khoảng thời
gian nào đó, thời kỳ
hư hoại,
tan nát biến mất
đi ).
Khi đã
tin lời Phật
dạy là muôn thuở
sự thật,
thì pháp tu niệm Phật
do Phật nói ra hoàn toàn cũng
sự thật.
Cũng như
cõi nước Cực
Lạc Tây Phương,
nơi đó đức
Phật A Di Đà làm giáo chủ
vẫn là điều
thật có như
bao nhiêu cõi Phật khác.
Tiếp
theo niềm tin là tin lời
nguyện của
Phật A Di Đà; lời
nguyện này cũng
do đức Phật
Thích Ca lập lại,
và trong phần tin này lời
nguyện của
Phật A Di Đà trở
nên vô cùng quan trọng mà chúng
ta nhất định
phải tin. Điều
này quyết định
việc nhất
tâm niệm Phật
hướng về
sự tiếp
dẫn của
Phật A Di Đà. Chẳng
hạn lời
nguyện thứ
mười chín của
Ngài trong kiếp là Tỳ
Kheo Pháp Tạng:
"Ví
con được thành Phật,
mười phương
chúng-sinh, phát Bồ-đề
tâm, tu các công đức, dốc
lòng phát-nguyện, muốn
sinh về cõi nước
con, đến lúc mệnh
chung, ví con chẳng cùng Đại-chúng
vây quanh, hiện thân trước
người đó, thời
con không thành bậc chánh giác
(20)."
Niềm
tin tới đây đã là quyết
chí rồi, tuy nhiên còn lại
là tin vào bản thân ta có được
tiếp độ
hay không. Vì có một số
người vẫn
còn nghi ngờ khó được
vãng sanh mặc dù có tín tâm đầy
đủ. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật
dạy "Ta quan sát tất
cả chúng sanh ở
trong các phiền não tham dục,
sân hận, ngu si, đều
có Phật trí, Phật
nhãn, Phật thân nghiễm
nhiên bất động.
Này thiện nam tử,
tất cả
chúng sanh ở trong phiền
não, có Như Lai tạng
thường lành không ô nhiễm
đức tướng
đầy đủ
cùng với ta không khác...(21)"
Qua lời dạy
trên chúng ta đã hiểu, tâm
chúng sanh là tâm Phật, nhưng
vì bị vô minh che lấp,
khó lắng động
trở về
với Phật
tánh chân như. Nếu
như thành tâm tín niệm
thì Phật tánh sẽ
hiển lộ
nơi tâm liền
đó cảm ứng
với tâm Phật,
và như thế
lo gì đức Phật
A Di Đà không cảm ứng
được ta chăng!
Nguyện
: người tu Tịnh
Độ khi đã có tín tâm kiên cố
rồi, thì phải
phát nguyện. Nguyện
là động lực
duy trì niềm tin vững
chắc hơn.
Không có nguyện, niềm
tin không đưa đến
việc thành tựu
công đức, cũng
như trong sinh hoạt
đời sống,
người nào có chí nguyện
với nghề
nghiệp tương
lai thì người đó trước
sau gì nhất định
phải thành công. Nguyện
của người
tu niệm Phật
là được Phật
A Di Đà cùng chư Thánh chúng tiếp
dẫn về
thế giới
Cực Lạc
vừa sau khi bỏ
thân mạng này. Tâm nguyện
như thế
phải luôn luôn khắc
ghi bên mình. Mỗi khi niệm
Phật hay trì kinh, hoặc
làm công việc gì công đức,
liền hồi
hướng nguyện
lấy công đức
đó mà sanh về Cực
Lạc. Khi phát nguyện
lại phải
thành kính tha thiết. Nguyện
lực có được
cảm ứng
và thành tựu phần
lớn do sự
chí tâm mà ra.
Để
tạo nguyện
lực kiên cố
hơn mãi, chúng ta nên nghĩ
về cái khổ
ở cõi Ta Bà và cái vui nơi
Cực Lạc.
Rồi lại
nghĩ vì muốn
cứu độ
mọi người
ra khỏi biển
khổ nên cầu
sanh Cực Lạc
đắc pháp vô sanh để
trở lại
Ta Bà cứu độ
chúng sanh. Nguyện được
như vậy
mãi mãi thì chắc chắn
ngày về Cực
Lạc sẽ
không còn xa với người
tu Tịnh Độ.
Hạnh:
Đã có niềm tin, đã phát lời
nguyện phần
còn lại là phải
thực hành. Hành trì niệm
Phật là phần
tối yếu
không thể thiếu
của người
tu Tịnh Độ.
Bởi vì dù có tin mức
nào, nguyện thế
chi mà không hành trì thì hóa ra lời
tin suông nguyện
rỗng.
Giống như
kẻ đi thuyền
gặp nạn
nước vào thuyền
sắp đắm,
kẻ ấy
tin rõ như vậy,
rồi chỉ
cầu nguyện
mà không ra công tát nước, cứu
chữa, trong khi dụng
cụ cứu
chữa sẵn
có trong thuyền.
Hành trì
niệm Phật
lại phải
gia công chuyên cần tinh tấn,
hễ tín, nguyện
thế nào thì hành trì tha thiết
theo thế đó. Cũng
không chỉ nhất
thời dũng
mãnh phát tâm niệm Phật
vài tuần, đôi tháng cho đến
vài năm rồi có thể
nghĩ rằng
đủ công đức
vãng sanh Cực Lạc,
mà phải thực
hành niệm Phật
luôn luôn, phải nên xem như
món ăn tinh thần trong đời
sống. Trong kinh A Di Đà có dạy
"không thể dùng nhân
duyên thiện căn phước
đức ít mà có thể
vãng sanh về nước
Tịnh Độ
kia ..." Thế
nên phải niệm
cho đến trọn
đời may ra mới
có đủ thiện
căn phước đức.
Tuy nhiên người niệm
Phật cũng
cần vun bồi
thêm công đức như
bố thí, trì giới
để trợ
lực phần
niệm Phật
được đầy
đủ thiện
căn cho việc vãng sanh được
chắc chắn
.
Nói tóm lại
ba điều kiện
là ba tư lương
với người
niệm Phật,
thiếu một
trong ba điều này việc
vãng sanh hẳn khó thành. Do đó
người tu pháp môn Tịnh
Độ nên nắm
vững, như
thế kết
quả vãng sanh sẽ
đến một
cách tốt đẹp.
Hương Thơm Niệm Phật
Đạo
Phật ví như
đóa hoa ngát thơm, ai ai cũng
có thể ngửi
được mùi thơm
đó. Không phải vì là tu sĩ
mà mùi hương đó tăng hay là cư
sĩ Phật
tử mùi hương
đó giảm. Hễ
bất cứ
người nào thực
hành được giáo pháp của
Phật thì người
đó hưởng trọn
được hương
thơm. Ngược
lại cho dù là tu sĩ,
nếu không sống
và thực hành theo giáo pháp, vẫn
không được chi cả
.
Hương
thơm ở
đây là sự giải
thoát mọi ràng buộc
là hạnh phúc an lạc
trong tâm hồn... Muốn
được thọ
nhận hương
thơm ấy,
người ta phải
tự vun trồng,
tạo dựng.
Nhưng trong cuộc
sống rộn
ràng, náo nhiệt của
phố thị
xa hoa, làm sao tìm được an lạc
thảnh thơi
trong tâm hồn? Nghĩa
là làm sao nhận được
mùi hương?
Bản
chất của
hương vô tư,
tự tại
không phân biệt không gian,
hoàn cảnh. Có vun trồng
được thân cây thì hoa sẽ
nở, mà hoa nở
thì hương có .
Nơi
đời sống
ồn ào, náo nhiệt,
tâm tư an lành của
chúng ta vẫn có, nhưng
có rất ít, chớ
không phải không có. Nếu
nói hoàn toàn không có an lạc
thì làm sao ta sống nổi
khi phải luôn luôn đối
diện với
mọi trần
lao nghịch cảnh;
và làm sao mọi người
chung quanh ta chịu đựng
được khi tâm tư,
đầu óc ta toàn chứa
những phiền
não giận thù.
Tâm tư
con người không khác mặt
đại dương,
lúc thì im lặng như
mặt hồ,
lúc thì ầm ầm
nổi sóng. Tuy thế
không phải là không có nguyên
nhân. Gió đứng thì nước
yên, gió thổi thì nước
động. Hiểu
được nguyên nhân, nhận
ra hậu quả
ta sẽ có được
phương pháp giảm
trừ, hóa giải.
Ta vẫn sống
và sinh hoạt bình thường,
nhưng tâm hồn,
tư tưởng
ta nên đặt vào một
định hướng.
Hướng ấy
là cách sống phù hợp
với lẽ
sống, không hại
người hại
vật. Không gây chia rẽ
mọi người
không buông lung phóng đảng và
luôn luôn yêu thương tất
cả.
Để
hướng đi tạo
dựng bông hoa tươi
đẹp, trở
nên bất diệt,
ta cần tìm hiểu
vun trồng thêm bông hoa tuệ
giác của vườn
hoa giác ngộ Phật
Đà.Vườn hoa giác ngộ
kia không phải mất
công tìm kiếm ở
nơi nào xa xôi, mà ngay
ở đây, ở
chính nơi ta, ở
chỗ gần
nhất của
tâm hồn, của
con tim từ bi, của
tấm lòng mẫn
tiệp.
Ta sống
ở cõi Ta Bà này tuy là cõi trược
mà vẫn tạo
được cho chính mình một
nụ hoa thơm,
đó là do biết áp dụng
đúng vào giáo lý Phật Đà. Tuy vậy
chúng ta cũng cần
bồi đắp
mãi nụ hoa thơm
đó, để làm nhân cho đóa hoa tuyệt
diệu và bất
diệt trong tương
lai.
Phương
pháp gieo trồng nhân duyên cho
đóa hoa bất diệt
có rất nhiều,
mà pháp dễ hành nhất
trong thế giới
ngày nay Phật dạy
là pháp niệm lại
tánh giác của mình. Niệm
lại tánh giác nghĩa
là niệm Phật.
Niệm
Phật là tạo
thêm vườn hoa đẹp
trong vườn hoa đã sẵn
có của mình. Nếu
ai đó trong đời chưa
từng tạo
cho mình một hương
hoa thơm nào, thì ngay bây giờ
hãy nên niệm tánh giác của
mình để kịp
làm nhân cho vườn hoa hiện
tại và tương
lai. Và nếu có ai đã lỡ
tạo nhân hoa không lành, hương
hoa không tịnh thì lại
càng nên sớm mau khơi
dậy tánh giác, trồng
niệm hoa thơm
để hương
hoa tinh khiết phủ
trùm hương bất
tịnh và biến
tất cả
hương hoa trong vườn
thành hương hoa thanh tịnh
giải thoát, như
trong kinh Quán Phật Tam Muội,
Phật dạy
về công đức
và công năng của niệm
Phật như
sau: Vua Tịnh Phạn
bạch Phật,
người gắng
công niệm Phật
thì trạng thái như
thế nào? Phật
đáp phụ vương
rằng "Như
rừng Y - Lan vuông bốn
mươi do tuần,
có một cây Ngưu-Đầu-
Chiên Đàn, tuy có rễ mầm,
nhưng chưa
mọc ra khỏi
mặt đất,
rừng Y- Lan kia chỉ
có mùi thúi mà không có mùi thơm.
Nếu có người
nhai nuốt hoa trái của
cây kia thì phát điên cuồng mà
chết. Sau đó mầm
rễ cây Chiên- Đàn từ
từ sanh trưởng
rồi thành cây, hương
thơm bát ngát, biến
cãi được không khí rừng
Y- Lan này trở nên hương
sắc thơm
đẹp, mọi
người thấy
đó liền sanh tâm hoan hỷ
hy hữu..."
Phật
lại nói với
phụ vương
rằng: "Tất
cả chúng sanh ở
trong sanh tử, có lòng niệm
Phật cũng
lại như
vậy. Chỉ
khéo hay gìn giữ tâm không dừng
nghĩ, nhất
định sanh trước
Phật; quyết
được vãng sanh, tức
là có thể cải
biến tất
cả điều
ác, sanh đại từ
bi. Như cây thơm
kia có thể cải
biến cả
vườn Y- Lan vậy
(22)."
Phật
dạy như
thế chúng ta rõ thêm rằng,
mỗi người
chúng ta ai ai cũng sẵn
có một vườn
hoa và cũng có thể
biến tạo
cho mình một vườn
hoa thuần mùi hương
giải thoát. Và sự
bồi đắp
cho vườn hoa thanh tịnh
đó không gì dễ hơn
là niệm lại
tánh giác gieo trồng hương
niệm Phật
vậy.
Nhân Duyên Lớn
Pháp
môn niệm Phật
được mọi
người cho là pháp môn bình dân,
dễ dãi. Vì pháp tu không đòi hỏi
hành giả một
điều kiện
gì khó khăn so với nhiều
pháp tu khác như Thiền,
Luật, Mật
tông ...hành giả phải
tối thiểu
có sự hiểu
biết căn bản
về giáo lý và căn cơ
sáng suốt. Nhưng
kỳ thật
pháp tu niệm Phật
lại có công năng thu nạp
tất cả
mọi hạng
người để
giúp họ đạt
đến mục
tiêu giải thoát mau nhất
mà không một pháp tu bác học
nào có thể làm được.
Với một
pháp tu có tánh cách phổ cập
rộng rãi chắc
chắn như
vậy, có lẽ
phải gọi
là pháp tu lạ lùng hiếm
có nhất. Cũng
vì thế mà đức
Phật Thích Ca mới
dạy, đây là pháp tu khó tin
(nan tín chi pháp).
Nhân
duyên Phật nói ra pháp tu này cũng
chẳng ai biết,
cũng chẳng
ai hiểu nổi,
mặc dù hàng đệ
tử của
Phật đa số
đắc quả
A La Hán một trong quả
chứng cao nhất
của bốn
thánh quả (Tu Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán).
Kinh kể
rằng trước
khi nói ra pháp tu này, dung mạo
của Phật
bỗng nhiên đổi
lạ, vô cùng trang nghiêm, thanh
thoát. Cùng lúc đó A Nan vị thị
giả của
Phật mới
thưa hỏi
nguyên nhân, thế là Phật
bắt đầu
nói về Pháp môn Tịnh
Độ .
Lại
khi nói về thế
giới Cực
Lạc, đức
Phật đã chọn
Ngài Xá Lợi Phất
làm đối tượng
người nghe để
Phật trình bày lược
kể, việc
làm này có thể đức
Phật muốn
phá vỡ sự
nghi ngờ không tin của
hàng đệ tử
sau này. Bởi vì Ngài Xá Lợi
Phất nổi
tiếng là trí tuệ
bậc nhất
mà còn tin nhận, thì điều
Phật nói ra phải
là như thật.
Pháp tu Tịnh
Độ Phật
dạy theo phương
pháp giản dị
nhất, chỉ
cần niệm
danh hiệu đức
Phật A Di Đà, cộng
với niềm
tín, nguyện được
vãng sanh, thì sẽ được
sanh về thế
giới Cực
Lạc. Tuy nhiên cũng
vì quá dễ như
vậy nên nhiều
người đã xem thường
và từ việc
xem thường đã bỏ
lỡ một
pháp môn hiếm có.
Người
ta đã quên rằng mục
đích của Phật
ra đời là đưa
con người về
bến giác, thoát ly sinh tử
luân hồi. Phật
sở dĩ
thuyết giảng
đủ mọi
phương tiện
pháp môn không ngoài mục đích
đó, và pháp môn khó dễ gì cũng
chỉ giải
quyết vấn
đề sinh tử
mà thôi. Vậy thì việc
Phật nói ra pháp tu niệm
Phật khó tin này hẳn
phải là một
lòng từ bi vô lượng,
muốn cho chúng sanh mau được
giải thoát, vì dù biết
nói ra khó được người
tin mà Ngài vẫn nói. Cho nên
trong kinh A Di Đà có đoạn nói
về chư
Phật sáu phương
khen ngợi công đức
không thể nghĩ
bàn của Phật
Thích Ca, " Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni hay làm những
việc hiếm
có và rất khó, Ngài ở
trong cõi nước Ta Bà thuộc
về đời
có năm thứ ác trược
như kiếp
trược, kiến
trược, phiền
não trược, chúng sanh trược,
mệnh trược,
mà Ngài chứng được
ngôi Vô Thượng Chánh
Đẳng
Chánh Giác. Được
đạo quả
rồi, Ngài vì các chúng sanh nói
ra giáo pháp mà hết thảy
thế gian khó tin này."
Chúng ta
cũng nên biết
rằng mọi
việc làm của
Phật đều
hợp với
căn cơ, hoàn cảnh
chúng sanh, và Phật nói pháp
môn khó tin, chắc chắn
phải là việc
nhìn xa cho chúng sanh trong thời
mạt pháp. Trong kinh Vô Lượng
Thọ Phật
có dạy "...kịp
đến mai sau, kinh đạo
tiêu diệt hết,
ta đem lòng thương xót, chỉ
để lưu
kinh này (kinh nói về niệm
Phật vãng sanh Cực
Lạc) ở
lại đời
trăm năm. Nếu có chúng sanh
nào, mà gặp được
kinh này, tùy theo chỗ ý muốn
đều có thể
được độ
(23)." Do đây ta có thể
thấy cái nhìn lo xa của
đức Phật.
Khi biết
thật sự
là một pháp môn khó tin, thì cũng
nên biết người
tin được, rồi
thực hành theo phải
là người có nhân duyên lớn.
Nếu có người
e ngại nói rằng,
chỉ có tin và hành theo thì dễ
quá đâu đáng gì phải nói là
nhân duyên lớn ! Vậy
xin hãy xem chính các bậc đại
Bồ Tát như
Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền,
Thế Chí ... còn tin và hành
theo; như lời
nguyện của
Ngài Phổ Hiền:
"Nguyện
tôi lúc mạng sắp
lâm chung
Trừ
hết tất
cả các chướng
ngại
Tận
mặt gặp
Phật A Di Đà
Liền
được vãng sanh cõi Cực
Lạc
(24)"
Đó là các
vị Bồ
Tát, riêng nói về các vị
Tổ sau này gần
gũi hơn,
trong quyển "Pháp Môn Giải
Thoát" Hoà Thượng Thiện
Hoa có viết trong phần
"Con đường tu thứ
hai (Tịnh độ
tôn) trong mười tôn". "Các vị
Tổ ở
các tôn khác, mặc dù hoằng
truyền tôn mình, nhưng
vẫn tu Tịnh
độ. Như
Ngài Thiên Thân, tổ của
Duy thức tôn; Ngài Trí Giả
đại sư,
tổ của
Thiên Thai tôn; Ngài Hiền Thủ,
tổ của
Hoa Nghiêm tôn; Ngài Nguyên Chiếu
luật sư,
tổ của
Luật tôn; Ngài Mã Minh, Long Thọ,
tổ của
Thiền tôn.v.v... cũng
đều
thực hành pháp môn Tịnh
độ...(25)"
Như
thế chúng ta thấy
các vị Bồ
Tát các vị Tổ
mà còn cầu vãng sanh, thì huống
gì chúng ta, những phàm nhân đầy
vô minh phiền não!
Đã nhận
ra mình có nhân duyên lớn, việc
tiếp theo là sống
và thực hành theo pháp tu đó.
Vì dù tin và khen ngợi thế
nào, mà không thực hành theo
thì vẫn chưa
được gọi
là có nhân duyên. Điều này đơn
giản là tu theo Phật
phải thực
hành chớ không nói suông. Thế
thì ta có thể nói rằng
pháp tu có cao thấp, bình dân
hay bác học chỉ
thành lợi ích khi ta thật
sự thực
hành tu học .
Niệm Phật Hiểu Theo 37 Phẩm
Trợ Đạo
Trong
giáo lý đạo
Phật,
37 phẩm
trợ
đạo
là thành phần
rốt
ráo nhất
giúp hành giả
đoạn
diệt
mọi
tham chấp
phiền
não, vô minh. Thành phần
này là con đường
chính trong Tứ
Diệu
Đế
mà được
biết
là đạo
đế;
37 phẩm
trợ
đạo
được
chia ra như:
·
Tứ
Niệm
Xứ
·
Tứ
Chánh Cần
·
Tứ
Như
Ý Túc
·
Ngũ
Căn
·
Ngũ
Lực
·
Thất
Bồ
Đề
Phần
·
Bát Chánh Đạo
Đối
với
pháp môn Tịnh
Độ,
37 phẩm
trợ
đạo
lại
được
xem là phương
tiện
trợ
duyên tác động
thêm năng lực
cho người
niệm
Phật.
Vì tu niệm
Phật
phải
có đủ
ba tư
lương
là Tín, Nguyện,
Hạnh
và để
có được
tín tâm vững
chắc
làm nền
tảng
cho Nguyện
và Hạnh
hẳn
phải
thông hiểu
phần
nào thành phần
37 phẩm
trợ
đạo
làm căn bản
trên đường
tu niệm.
Sau đây xin đi vào từng
thành phần
một,
trong cái hiểu
đại
cương
của
người
niệm
Phật.
1) Niệm
Phật
với
Tứ
Niệm
Xứ
Tứ
Niệm
Xứ
được
đức
Phật
dạy
là pháp môn quan trọng,
giúp hành giả
quán xét được
tính chất
của
kiếp
sống
con người
về
thân và tâm.
Nghĩa
của
Tứ
Niệm
Xứ
là bốn
điều
ghi nhớ,
quan sát hay còn gọi
là bốn
lãnh vực
cần
ghi nhận.
Bốn
điều
ấy
là:
- Quán thân bất
tịnh
- Quán tâm vô thường
- Quán pháp vô ngã
- Quán thọ
thị
khổ
a) Quán thân bất
tịnh
để
đừng
quên niệm
Phật
Trong kinh Vô Lượng
Thọ
đức
Phật
có giảng
cho các hàng đệ
tử
nghe về
y báo và chánh báo ở
cõi Cực
Lạc.
Nói về
chánh báo là hình tướng
thân thể
của
các bậc
thượng
nhơn,
tất
cả
đều
được
hóa sanh từ
ao sen thất
bảo,
đầy
đủ
cả
ba mươi
hai tướng
tốt,
thân tâm thường
nhu nhuyễn
thanh tịnh.
Lại
theo lời
nguyện
của
Tỳ
kheo Pháp Tạng
tức
tiền
thân của
Phật
A Di Đà trong quá khứ:
"Ví con được
thành Phật,
các Bồ
Tát trong cõi nước
con nếu
chẳng
được
thân kim cương
Na La Diên, thời
con không thành bậc
chánh giác
(26)." Nay thì Ngài đã thành Phật
tính hơn
đã mười
kiếp
theo trong kinh A Di Đà. Vậy
điều
nguyện
của
Ngài đều
đã thành tựu
và tất
cả
là sự
thật.
Sắc
thân kim cương,
trang nghiêm thanh tịnh
như
thế
hẳn
phải
khác rất
nhiều
so với
thân thể
con người
ở
cõi Ta Bà được
kết
tinh bằng
tinh huyết
của
cha mẹ
tạo
thành. Như
thế
suy ra được
thân thanh tịnh
vậy
là do phước
báo, phát sanh từ
sự
tu hành, thanh lọc
ba nghiệp
thân khẩu
ý.
Chúng ta mang xác thân
máu mủ
này là cũng
do phước
báo, nghiệp
báo mà ra. Nghiệp
báo có thiện
có ác, nghiệp
thiện
là sự
may mắn
ta vẫn
còn mang được
thân người,
vì trong lục
đạo
(thiên, nhơn,
a tu la, địa
ngục,
ngạ
quỷ,
súc sanh) thân người
khó được,
mà nay ta đã được.
Nghiệp
ác là ta đã vụng
tu trong muôn kiếp,
để
phải
trôi nổi
mãi cho đến
nay mới
thức
tỉnh
nhận
ra thân người
là khổ
là ô uế.
Vậy
để
tìm phương
pháp xa lìa thân bất
tịnh
này, ta hãy nghĩ
về
thân kim cương,
thanh tịnh
của
các vị
thượng
thiện
nhơn
ở
cõi Cực
Lạc.
Nghĩ
mong được
như
thế
chỉ
có cách là phải
sanh về
nước
đó, và con đường
về
Cực
Lạc
đã được
đức
Phật
Thích Ca chỉ
bày; lại
có đấng
từ
phụ
A Di Đà đang đưa
tay đón nhận,
chúng ta chỉ
việc
cất
bước
đi thôi.
Trì danh niệm
Phật,
thật
tướng
niệm
Phật,
quán tưởng
niệm
Phật...
là phương
tiện
vận
chuyển
cho chúng ta sanh về
đất
Phật.
Đối
với
pháp quán thân bất
tịnh
ai cũng
thấy
hiểu,
rõ ràng thân người
chứa
đựng
cả
một
túi đồ
dơ
ghê tởm.
Chính sự
nhận
ra việc
thân bất
tịnh
này mà nên nhàm chán cầu
cho được
thân thể
bằng
chất
kim cương
trong sáng. Để
được
như
vậy
phải
nhiếp
tâm niệm
Phật,
quán chiếu
về
thân thể.
Quán chiếu
để
thấy
rằng
thời
kỳ
hư
hoại,
bệnh
chết
của
thân đang dần
dần
phát triển
trong thân thể,
và nay mai đây một
điều
chắc
chắn
thân ta sẽ
bệnh,
sẽ
chết,
sẽ
sình ươn,
hôi thối,
ghê tởm
không ai dám nhìn.
Quán sát nhận
hiểu
được
như
vậy,
câu niệm
Phật
của
ta mới
phát được
định
lực.
Mỗi
khi thân di động,
đi, đứng,
nằm,
ngồi
ta đều
rõ biết.
Rồi
lấy
câu niệm
Phật
để
giữ
gìn mỗi
động
tác, khiến
cho thân đi trong câu niệm
Phật,
đứng
trong câu niệm
Phật,
nằm
trong câu niệm
Phật,
ngồi
trong câu niệm
Phật.
Niệm
một
câu Phật
ta nhận
ra rằng
thân này là bất
tịnh.
Niệm
hai câu Phật
ta hiểu
được
rằng
thân này là một
đảy
đựng
đồ
dơ,
và càng niệm
nhiều
câu Phật,
ta càng thấy
rõ cái thân sống
này toàn là thứ
ô trược
không có gì đáng ưa
muốn.
Khi thấy
lẽ
thật
đó rồi,
ta càng chí tâm niệm
Phật
mạnh
hơn
nữa
để
cầu
mong đạt
được
thân kim cương
bất
hoại.
Lòng chí thành tha thiết
đó tạo
cho việc
định
tâm, nhiếp
niệm
thêm vững
vàng. Bây giờ
ta chỉ
còn một
niệm
ở
vào câu Phật
cho đến
bất
loạn.
Nhờ
vậy
thân tâm ta sẽ
đi vào câu niệm
Phật
một
cách nhẹ
nhàng nhất
tâm.
b) Quán tâm vô thường
để
tinh tấn
niệm
Phật
Chúng ta từ
vô thỉ
kiếp
đến
nay vì ôm chấp
cái giả
dối,
hư
vọng
của
muôn sự
muôn vật.
Xem tâm này là thật
có, là bất
diệt...
Vì sự
ngoan cố
bám chặt
cho tâm là thật
là trường
tồn,
trường
cửu.
Từ
đây sinh ra bảo
thủ,
chấp
chặt
sở
kiến
của
mình, rồi
phân biệt
mọi
người
đều
có tâm riêng biệt
không thể
hoán chuyển
được.
Do đó tạo
ra muôn nghiệp.
Nghiệp
quá khứ
chưa
trả
hết,
nghiệp
hiện
tại
lại
chất
chồng
rồi
tiếp
tục
làm nhân cho nghiệp
tương
lai. Cứ
thế
mà trôi lăn không sao thoát ra được
vòng kiềm
tỏa
của
sinh tử.
Để
phá vỡ
sự
mê lầm
vọng
chấp
về
tâm là thật
có, Phật
dạy
về
phép quán tâm vô thường.
Hiểu
tâm vô thuờng
để
thấy
rằng
tâm con người
ta luôn luôn chuyển
dời,
biến
đổi
tạo
ra không biết
bao tư
tưởng
sai biệt.
Nay nghĩ
này mai nghĩ
khác. Khi gặp
cảnh
đẹp
việc
vui tâm sanh mừng
ham thích. Gặp
cảnh
xấu
việc
buồn
tâm buồn
giận,
sầu
lo. Trong một
ngày tâm khơi
động
không biết
bao nhiêu lần
cứ
lăng xăng, rộn
ràng như
khỉ
gặp
rừng
cây, như
ngựa
sẩy
cương
trên đồng
trống.
Kìm hãm được
sự
giao động,
nhộn
nhịp
của
tâm là việc
rất
khó. Cũng
vậy
mà trong kinh Mạ
Ý dạy
rằng:
"Làm trăm ngôi chùa Phật
không bằng
làm sống
một
người.
Làm sống
người
trong mười
phương
thiên hạ
không bằng
gìn giữ
tâm ý một
ngày (27)."
Nay muốn
dừng
lại
cái tâm lăng xăng, vô thường
ấy
ta phải
tìm về
cái chân tâm, thực
tại.
Dùng câu niệm
Phật
để
nhiếp
phục
những
giao động
của
vọng
tâm, gột
sạch
những
vọng
tưởng
điên đảo
mà từ
lâu nay đã dung dưỡng
trong tâm, tự
cho cái ta này là thật
có, lại
nghĩ
rằng
mọi
người
đều
có một
số
mạng
an bày...
Khi chí tâm niệm
Phật,
ta sẽ
ngừng
lại
nhịp
đập
của
vọng
tâm, cùng theo đó những
ác tâm trong ta sẽ
mờ
dần
cho đến
khi mất
hẳn.
Bấy
giờ
trong tâm ta chỉ
còn câu niệm
Phật.
Vậy
thì dùng câu niệm
Phật
chẳng
những
gạt
bỏ
được
việc
điên đảo
vọng
tưởng
của
tâm mà còn huân tập
vào tâm thức
chủng
tử
Phật.
Như
thế
quán tâm vô thường
để
tự
dứt
trừ
tri chướng
chấp
vào bản
ngã là trường
tồn,
và rồi
sẽ
quay về
với
bản
tâm chân thật
bằng
sự
nhiếp
niệm
vào hồng
danh Phật.
Cuối
cùng hòa nhập
vào tự
tánh chơn
thường
không sanh không diệt
như
đi vào tâm Phật.
c) Quán pháp vô ngã để
nhiếp
tâm niệm
Phật
Pháp được
hiểu
là mọi
sự
mọi
vật,
những
gì có hình tướng,
tên gọi
hay cả
những
việc
không nhìn thấy
được,
rờ
mó được
mà chỉ
nhận
thức
bằng
tư
duy, tất
cả
cũng
đều
gọi
là pháp.
Con người
chúng ta sở
dĩ
có vui buồn,
thương
ghét, yêu, giận...
là do sự
nhận
thức
sai lầm
về
các pháp. Nhìn nhận
pháp thật
có là nguyên nhân tạo
ra phiền
não, bởi
phải
sống
chết
với
sự
mất
còn của
chúng.
Thử
nhìn xem cõi Tà Bà này mọi
vật
đều
ở
trong vòng tương
đối,
giả
tạm,
vô thường.
Tất
cả
đều
nương
nhau để
hình thành, tồn
tại
nhưng
rồi
cũng
phải
tan vở
để
tiếp
tục
tồn
tại
bằng
dạng
thức
khác cứ
như
vậy
mãi đến
vô cùng. Tìm đâu thấy
sự
vật,
sự
việc
nào là thật
có, khi chúng phải
trải
qua bốn
thời
kỳ
Thành, Trụ,
Hoại,
Không (sanh ra, có được,
tồn
tại
thời
gian nào đó, thời
kỳ
hư
hại,
tan rã mất
đi) .
Ngày xưa
khi Ngài Xá Lợi
Phất
còn là ngoại
đạo,
chỉ
nghe qua câu nói của
Tỳ
Kheo A Thị
Thuyết
lập
lại
từ
lời
dạy
của
đức
Phật
"Các pháp do nhân duyên sinh, và cũng
lại
do nhân duyên diệt"
mà giác ngộ
tức
thời.
Phải
chăng câu nói ấy
quá đầy
đủ
để
không còn gì biện
minh cho cái giả
dối
của
các pháp.
Luận
Trí Độ
cũng
đã nói "Các pháp từ
nhân duyên sinh, không có bản
tánh, không có tự
tánh nên rốt
ráo là không. Đã rốt
ráo là không, thì các căn bản
từ
xưa
đến
nay là không, đó chẳng
phải
Phật
làm, cũng
chẳng
phải
người
khác làm (28)."
Vậy
thì xưa
nay vì không hiểu
các pháp, hay nói rõ là mọi
sự,
mọi
vật
là giả
cho nên chúng ta phải
đau khổ
khi bị
lệ
thuộc
với
chúng quá nhiều.
Nói một
cách sâu hơn
nữa,
ngay chính giáo pháp chúng ta học
đây cũng
không là tuyệt
đối.
Vì Phật
đã dạy
hãy xem như
chiếc
bè đưa
qua sông, hãy xem như
ngón tay chỉ
mặt
trăng. Chỉ
khi qua đặng
sông mới
là thật,
cũng
như
nhìn mặt
trăng mới
là tự
tánh.
Nhận
được
cái giả
của
pháp rồi,
chúng ta sẽ
không còn kẹt
nhiều
vào sự
đối
đãi, và khi thực
hành một
việc
nào, ta vẫn
xem đó là phương
tiện
để
đạt
đến
cứu
cánh thanh tịnh.
Với
công phu niệm
Phật
dựa
vào tướng
pháp vô ngã, ta sẽ
dễ
định
tâm, không còn phải
lo lắng
quan tâm đến
những
vọng
động,
lăng tăng nhảy
múa trong tâm tưởng
xen vào câu niệm
Phật
hay những
ngoại
cảnh
âm thanh khuấy
động,
rộn
ràng lấn
át đi tiếng
niệm
Phật.
Từ
đó công phu niệm
Phật
dễ
dẫn
đến
nhiếp
tâm hơn.
d) Quán thọ
thị
khổ
để
tha thiết
niệm
Phật
hơn
Chân lý của
khổ
đến
từ
nguyên nhân thọ
mạng
này. Hễ
có thân là có khổ,
vì khổ
do sự
thọ
nhận
của
thân. Dù là một
niềm
vui một
điều
hạnh
phúc, một
việc
dễ
chịu
cũng
vẫn
là khổ.
Bởi
vì sự
vui, hạnh
phúc, dễ
chịu
kia không thể
kéo dài lâu được.
Nên khi mất
đi sẽ
để
lại
đau khổ.
Nói đúng ra ngay trong lúc vui đã ngấm
ngầm
có mặt
sự
khổ
trong đó.
Trong kinh Tương
Ưng
Bộ
III, Phẩm
Gánh Nặng
Phật
dạy
"Này các Tỳ
kheo, thế
nào là gánh nặng?
Năm thủ
uẩn
là câu trả
lời.
Thế
nào là năm? Sắc
thụ
uẩn,
thọ
thủ
uẩn,
tưởng
thủ
uẩn,
hành thủ
uẩn,
thức
thủ
uẩn.
Này các Tỷ
kheo, đây gọi
là gánh nặng
(29)."
Việc
thọ
nhận
lớn
nhất
là mang thân này, mà đức
Phật
đã dạy
là một
gánh nặng.
Chính gánh nặng
này đã làm xao động
tâm tư
gây ra bao xung đột
trong tâm thức.
Vậy
quán thọ
thị
khổ
cho chúng ta hiểu
rằng,
sự
khổ
đến
từ
sự
thọ
lãnh, thọ
nhận.
Việc
thọ
nhận
thân ngũ
ấm
đã đành là khổ
rồi,
chúng ta còn lãnh thọ
biết
bao sự
việc
chung quanh, chẳng
hạn
của
cải,
địa
vị,
công danh...những
lãnh thọ
này làm cho gánh nặng
của
ta vốn
đã nặng
lại
càng thêm nặng.
Người
thực
hành pháp niệm
Phật,
dùng câu niệm
Phật
làm hành trang, mà không phải
mang theo những
gánh nặng
của
trần
cảnh
Ta Bà. Lại
quán tưởng
đến
cảnh
giới
Cực
Lạc
trang nghiêm, nơi
ấy
không có sự
lãnh thọ,
thọ
nhận
những
gánh nặng
ô trược
ở
cõi Ta Bà nơi
ta đang ở.
Quán tưởng
và niệm
Phật
luôn luôn để
gánh nặng
trong ta, ngoài ta được
nhẹ
nhàng thanh tịnh.
Thực
hành được
như
vậy
sẽ
thấy
an vui trong câu niệm
Phật
như
lời
Phật
dạy
tiếp
theo: Phẩm
Gánh Nặng
"Này các Tỳ
Kheo thế
nào là đặt
gánh nặng
xuống?
Đây là sự
ly tham, đoạn
diệt
ái ấy
một
cách hoàn toàn, sự
từ
bỏ,
sự
xả
ly, sự
giải
thoát, sự
không chấp
thủ.
Này các Tỳ
Kheo, đây gọi
là đặt
gánh nặng
xuống
(30)." Do đó quán thọ
thị
khổ
để
thức
tỉnh
diệt
đi sự
tham muốn,
là làm vơi
đi gánh nặng
của
kiếp
người
như
Phật
đã dạy.
Và ở
đây câu niệm
Phật
lại
là hành trang thay thế
tất
cả
để
hướng
về
một
thế
giới
thanh tịnh
trang nghiêm hơn.
2) Niệm
Phật
với
Tứ
Chánh Cần
Tứ
Chánh Cần
là bốn
phương
pháp siêng năng bỏ
ác, làm lành đúng theo chánh pháp. Bốn
pháp ấy
là:
- Siêng năng ngăn chặn
điều
xấu
ác chưa
phát sanh
- Siêng năng dứt
trừ
điều
xấu
ác đã phát sanh
- Siêng năng làm phát
sanh những
điều
tốt
chưa
phát sanh
- Siêng năng tiếp
tục
làm phát sanh các điều
lành đã phát sanh
a) Niệm
Phật
ngăn chặn
điều
xấu
ác chưa
phát sanh
Tâm ý con người
hằng
ngày trong đời
sống
thường
hay bị
vọng
động,
vì luôn phải
đối
diện
mọi
lo toan, mưu
cầu
cho cái sống.
Từ
cái lo lắng
này, chúng ta đã ít nhiều
chứng
kiến
hay kinh nghiệm
bản
thân qua những
phiền
não trong đời.
Tác ý phiền
não đó, len lỏi
vào trong tâm tư,
tư
tưởng
tạo
thành một
hòm chứa
đầy
toan tính, lo liệu.
Tuy nhiên cũng
có ý niệm
tốt
lẫn
lộn
trong ý niệm
xấu.
Dữ
kiện
rối
ren đó chỉ
chờ
thời
cơ
hay được
phép, tức
thời
sẽ
bộc
phát. Do vậy
càng chứa
nhiều
toan tính trong đầu,
sự
bộc
phát càng có dịp
nhảy
xô ra. Nhưng
chứa
đựng
nhiều
tư
tưởng,
ý nghĩ
đẹp
lành thì tốt,
ngược
lại
nguy hiểm
vô cùng.
Chúng ta hay nghĩ
rằng,
đây chỉ
là một
ý niệm
xấu
thoáng dấy
lên đầu,
có chi mà lo sợ!
Điều
này không đơn
giản
như
vậy.
Vì nếu
để
ý niệm
kia nằm
mãi trong đầu
thì một
lúc nào đó chắc
chắn
sẽ
bộc
phát và biến
thành hành động.
Nhìn xem trong cuộc
sống,
chẳng
có gì xảy
ra mà tự
nhiên cả.
Mọi
việc
đều
có thời
có lúc, có nguyên nhân. Chẳng
hạn
nhà văn sĩ
muốn
viết
một
tác phẩm,
trước
hết
nhà văn phải
bắt
đầu
có manh nha, nhen nhúm trong đầu
những
hình ảnh
mình cố
đặt
ra. Rồi
cố
nuôi giữ
mãi cho đến
khi chín muồi
để
bày tỏ
lên trang giấy
.
Như
thế
ở
điều
đầu
tiên trong bốn
phép Chánh Cần
chúng ta phải
cố
gắng
làm sao ngăn chặn
những
ý niệm
xấu
ác vừa
mới
tượng
hình trong đầu
hay điều
sai lầm
tội
lỗi
nào mà trước
đây ta chưa
bao giờ
phạm,
lại
cố
gắng
diệt
trừ
ngay khi nó vừa
chớm
nở.
Với
người
thực
hành pháp niệm
Phật,
thì danh hiệu
Phật
là phương
tiện
ngăn chặn
ý tưởng
bất
thiện.
Cố
làm sao câu niệm
Phật
tuôn chảy
mãi như
nước
trong nguồn
không đứt
đoạn,
như
vậy
mảng
đá xấu
ác sẽ
bị
xoáy mòn, không có cơ
hội
tồn
tại.
Ta cũng
nên hiểu
quan niệm
ác theo căn bản
đạo
Phật
không chỉ
là hành động
đánh đập
giết
chóc... mà ác chính ngay ở
ba độc
Tham, Sân, Si. Từ
ba độc
này tạo
ra nghiệp
tội.
Một
lời
nói, một
sự
im lặng
cũng
có thể
là thiện
và cũng
có thể
là ác. Nói lời
đâm thọc,
chỉ
trích khiến
người
phải
đau khổ
dẫn
đến
quyên sinh. Im lặng
không phản
ứng,
thông cảm,
chia xẻ
như
trách cứ,
trút hết
nỗi
thống
khổ
lên đầu
người
cũng
đưa
đến
sự
bứt
tử,
chết
oan... Do đây việc
ác cũng
có thể
xảy
ra từ
một
hành động
xem rất
thường
như
vừa
kể.
Thế
nên dùng câu Phật
hiệu
để
chế
ngự
ba độc,
thanh lọc
tư
tưởng
diệt
đi xấu
ác đang ngấm
ngầm
nẩy
sinh trong ta.
b) Niệm
Phật
dứt
trừ
điều
xấu
ác đã phát sanh
Đã là người
ai cũng
có lỗi,
và ít nhiều
hơn
một
lần
gây ra phiền
hà, đau khổ
cho người
hay chính mình. Nhưng
con người
quý nhất
ở
việc
biết
sám hối,
biết
hổ
thẹn
để
chuộc
lại
lỗi
lầm.
Có sám hối,
biết
hổ
thẹn,
chúng ta mới
dễ
chịu,
nhẹ
nhàng thân tâm khi đã tự
nhận
tội
lỗi
của
mình. Kinh Tâm Địa
Quán nói "Nếu
như
pháp mà sám hối
thì tất
cả
phiền
não thảy
đều
tiêu trừ.
Cũng
như
lửa
kiếp
làm hoại
thế
gian, thiêu đốt
núi Tu-Di luôn biển
cả.
Sám hối
có thể
thiêu đốt
rừng
phiền
não. Sám hối
có thể
vãng sanh về
cõi thánh. Sám hối
có thể
được
vui tứ
thiền.
Sám hối
là mưa
bảo
châu ma-ni. Sám hối
có thể
sống
lâu như
kim-cang. Sám hối
có thể
vào được
cung điện
thường
lạc.
Sám hối
có thể
ra khỏi
ngục
tam giới.
Sám hối
có thể
làm hoa Bồ
Đề
nở.
Sám hối
có thể
được
gương
tròn lớn
của
Phật.
Sám hối
có thể
đến
chổ
bảo
thành (31)."
Riêng nói về
người
không biết
sám hối,
ăn năn sẽ
phải
đau khổ
mãi vì không ai thông cảm,
thương
hại.
Cũng
như
chính bản
thân sẽ
bị
dày vò, dằn
vặt
đến
cả
cuộc
đời.
Hổ
thẹn
cũng
vậy,
biết
hổ
thẹn
chúng ta không dám tái phạm
những
lỗi
lầm
đã tạo
ra. Kinh Di Giáo, Phật
dạy
"Người
có hổ
thẹn
thì có thiện
pháp, nếu
người
không biết
hổ
thẹn
cùng với
những
loài cầm
thú không khác chút nào vậy
(32)."
Như
thế
việc
ta hiểu
rằng,
khi đã lỡ
tạo
ra những
sai lầm
thì ta phải
tự
cố
gắng
sám hối,
hứa
lấy
sẽ
không tái phạm
nữa.
Và một
khi tư
tưởng
có móng lên việc
xấu
ác ta liền
biết
ngay đây là việc
sai ta đã phạm
rồi,
nay không dám tạo
tác nữa.
Thêm một
điều
giúp ta ngăn chặn
và dứt
trừ
được
việc
xấu
ác là nên suy tìm nguyên nhân, đưa
ra hậu
quả
sẽ
xảy
ra nếu
ta hành động.
Vậy
trong lúc suy niệm,
phán xét chắc
chắn
có thể
kịp
thời
phá được
ý tưởng
xấu
kia.
Cũng
như
pháp đầu
của
Tứ
Chánh Cần,
dùng danh hiệu
Phật
để
ngăn chặn,
tiêu diệt
ý tưởng
sai lầm,
đang chóm nở
trong đầu,
thì ở
pháp thứ
hai này ta vẫn
duy trì danh hiệu
Phật
để
gội
rửa
và sám hối
những
ác nghiệp
đã lỡ
gây ra trong quá khứ
và hiện
tại.
c) Niệm
Phật
để
làm phát sanh những
điều
tốt
chưa
phát sanh
Trong hai pháp đầu,
chúng ta cố
gắng
ngăn ngừa
và dứt
trừ,
ngược
lại
ở
pháp này và pháp cuối,
ta lại
gắng
làm phát sanh, tạo
cho việc
này sẽ
tiếp
tục
vậy
mãi. Điều
gắng
làm phát sanh hẳn
phải
là điều
thiện,
pháp lành.
Như
ta biết
tư
tưởng
có xấu,
có tốt
chúng được
huân tập
mãi trong đầu.
Vậy
nếu
được
thanh lọc,
chọn
lựa
để
tích trữ,
ứng
dụng
thì đây là việc
đáng làm khi chọn
điều
hay ý đẹp.
Có cố
gắng
sáng tạo
những
hình ảnh
đẹp,
hình ảnh
lành hợp
với
Phật
pháp; nuôi dưỡng
ý niệm
thiện
lành như
thế,
thì cơ
hội
phát sinh thể
hiện
ra bên ngoài sẽ
dễ
dàng đối
với
chúng ta.
Người
mà có được
ba nghiệp
thân, khẩu,
ý thanh tịnh
hẳn
là người
luôn nuôi dưỡng
và sáng tạo
những
thiện
niệm
trong tâm tư.
Do đó có thể
hiểu
rằng
làm phát sinh thiện
niệm
là tự
làm cho ba nghiệp
mình được
an lành trước
nhất.
Tiếp
theo từ
sự
an lạc
đó, ý niệm
thiện
lại
càng tăng thêm.
Với
việc
niệm
Phật
lúc này, là động
cơ
giúp ta phát triển
điều
lành một
cách tích cực
hơn.
Bởi
vì khi niệm
Phật
có nghĩa
là niệm
ý tưởng
lành. Một
câu Phật
khởi
lên một
điều
lành được
hun đúc. Nhiều
câu Phật
phát sanh, nhiều
niệm
lành sanh khởi,
và cứ
như
vậy
điều
lành sẽ
được
thể
hiện
qua tâm niệm
Phật
giống
như
tâm nghĩ
thế
nào thì hành động
như
thế
đó.
d) Niệm
Phật
để
luôn tiếp
tục
làm phát sanh những
điều
lành đã phát sanh
Có lẽ
không có ai tự
hào rằng
tôi đã làm quá nhiều
việc
tốt
lành, và đời
tôi không có chi là xấu
ác. Nếu
người
nào được
như
vậy
bằng
sự
thật
thì người
đó phải
là Thánh nhân. Nhưng
thật
ra các vị
Thánh nhân cũng
vẫn
thấy
việc
làm lành hướng
thượng
cũa
các Ngài vẫn
chưa
đủ.
Như
vậy
so với
chúng ta những
phàm nhân, chậm
lụt
đâu lẽ
nào dám ngưng
việc
làm lành hướng
thượng,
hay tự
cho mình đã làm đủ
rồi!
Nhìn ngược
về
quá khứ,
chúng ta đã từng
nghe nói các vị
Thánh nhân, đức
trọng
luôn luôn tinh tấn
siêng năng cho đến
cuối
cuộc
đời.
Trong Luật
Sa Di có nhắc
Ngài Hiếp
tôn giả
cả
một
đời
không đặt
lưng
dính chiếu.
Ở
Ấn
Độ
có Thánh Gandhi hy sinh trọn
đời
làm việc
của
ông cho lý tuởng
hòa bình, bất
bạo
động.
Ngọn
đuốc
tràn đầy
từ
bi, trí tuệ
của
Hoà Thượng
Thích Quảng
Đức
phải
chăng đã đến
từ
sự
đại
tinh tấn,
hằng
nuôi dưỡng
dòng thiện
niệm,
và còn biết
bao vị
cao tăng ẩn
danh cho đến
khi lặng
lẽ
viên tịch
ở
một
nơi
nào đó mà không ai hay biết.
Do vậy
ở
pháp cuối
trong bốn
pháp Chánh Cần
này, Phật
dạy
chúng ta phải
cố
gắng
phát triển
mãi những
ý niệm
thiện,
và chính nhờ
sự
gia công luôn luôn này, những
ác niệm
không có chỗ
đứng
trong đầu
của
ta; cũng
như
việc
làm lành mới
được
viên mãn. Và người
thực
hành công phu niệm
Phật
sẽ
làm luân lưu
mãi dòng nước
thiện
niệm
bằng
danh hiệu
Phật
chảy
mãi đến
cuối
cuộc
đời
trong niềm
an lạc
hạnh
phúc.
3) Niệm
Phật
với
Tứ
Như
Ý Túc
Tứ
Như
Ý Túc còn gọi
là bốn
pháp thần
túc, là pháp thiền
định
làm phương
tiện,
đạt
được
như
ý muốn
cũng
như
bốn
phép thần
thông vậy.
Bốn
pháp ấy
là:
-Dục
Như
Ý Túc
-Tinh Tấn
Như
Ý Túc
-Nhất
Tâm Như
Ý Túc
-Quán Như
Ý Túc
a) Niệm
Phật
với
Dục
Như
Ý Túc
Phàm làm người
ai cũng
có khao khát, mong muốn
mọi
điều
cho cá nhân. Nhưng
sự
mong muốn,
khát vọng
này mang lại
ý nghĩa
thế
nào cho bản
thân cuộc
sống
liên quan đến
gia đình, xã hội
mới
là điều
quan trọng.
Dục
Như
Ý Túc là mong muốn,
khao khát, ước
ao một
điều
gì cho thành tựu.
Đương
nhiên điều
mong muốn
này đối
với
người
Phật
tử
phải
là điều
mong muốn
chân thật,
thanh cao, chớ
không phải
là sự
mong muốn
xuôi theo đòi hỏi
của
dục
vọng.
Người
để
vọng
tình ham muốn
làm chủ
thân tâm, thì dù việc
gì cũng
dám làm, không còn nghĩ
đến
nhân quả,
nghiệp
báo chi cả.
Đây không chỉ
nói người
không có đạo
mà cả
luôn người
có đạo
cũng
vậy,
cho đến
tu sĩ
không khác. Hễ
ham muốn
sai quấy
dẫn
đến
kết
quả
xa đọa.
Hậu
quả
có khi lại
không đợi
đến
kiếp
sau, đời
tới
mà ngay lúc hiện
tại
phải
chịu
nhiều
đau khổ
từ
sự
ham muốn
sai lạc
mà ra.
Với
sự
ham muốn
thanh cao, tươi
sáng hạng
người
nào cũng
được
kết
quả
an vui tươi
đẹp.
Có khi kết
quả
lành ấy
đến
ngay, mặc
dù điều
mong muốn
kia vẫn
còn nằm
trong tư
tưởng.
Ví dụ
ta chỉ
vừa
khởi
tâm mong muốn
giúp người,
thì tâm hồn
ta ngay lúc ấy
đã có niềm
hỷ
lạc
rồi.
Người
thực
hành pháp môn niệm
Phật
trong sự
mong muốn
này lại
càng tha thiết
hơn.
Ví như
người
thường
mong muốn
việc
gì đã khắc
ghi vào tâm khảm,
rồi
giữ
mãi sự
khát khao này trọn
cuộc
đời,
thì người
niệm
Phật
cũng
y như
vậy.
Có thế
công phu niệm
Phật
mới
thành tựu
như
ý.
b) Tinh tấn
Như
Ý Túc trong pháp niệm
Phật
Một
khi đã mong muốn
ước
ao điều
gì, chúng ta phải
luôn luôn cố
tâm đeo đuổi
cho bằng
được.
Người
niệm
Phật
áp dụng
vào pháp Tinh Tấn
Như
Ý Túc, không khác gì thiền
định.
Phải
cố
gắng
khắc
phục
nội
tâm, ngoại
giới
nhiếp
tâm vào danh hiệu
Phật
không để
gián đoạn.
Nếu
pháp thiền
định
theo dõi được
thân tâm trong mọi
động
tác đi, đứng,
nằm,
ngồi
với
chánh niệm;
thì người
niệm
Phật
cũng
sống
thở
với
danh hiệu
Phật
trong từng
động
tác.
Sự
công phu vào những
giờ
giấc
thiền,
niệm
nhất
định
chưa
thể
gọi
trọn
vẹn
là sự
Tinh Tấn
Như
Ý Túc. Tinh Tấn
Như
Ý Túc là phải
luôn luôn đeo đuổi,
như
con đeo mẹ,
như
mèo rình chuột.
Kinh Di Giáo Phật
dạy
"Ví như
giọt
nước
chảy
luôn có thể
soi thủng
phiến
đá. Nếu
như
tâm của
hành giả
thường
thường
biếng
nhác bỏ
bê chẳng
khác nào kéo lửa
chưa
nóng mà ngưng,
tuy muốn
được
lửa,
lửa
cũng
khó được
(33)"
c) Nhất
tâm như
ý túc trong pháp niệm
Phật
Dù làm bất
cứ
công việc
gì, muốn
được
thành tựu
như
ý thì phải
chú tâm. Việc
hành trì Phật
pháp lại
càng nhất
tâm hơn
nữa.
Huống
chi tâm là nguyên nhân, nguồn
gốc
sanh ra các pháp. Kinh Tâm Địa
Quán, Phật
dạy
"...Ba cõi lấy
tâm làm chủ.
Người
hay quán sát tâm mình thì được
Niết
Bàn rốt
ráo. Kẻ
không hay quán sát tâm mình thì sẽ
chìm đắm
trong biển
khổ...(34)"
Vậy
quán sát, nhiếp
tâm vào chánh định
là thực
hành được
Nhất
Tâm Như
Ý Túc. Người
niệm
Phật
cũng
thế,
nắm
giữ
danh hiệu
Phật
ngày đêm không xao lãng, không phân tâm với
ngoại
cảnh
duyên trần.
Hành trì như
thế
đến
khi nhất
tâm, sẽ
không còn thấy
tâm mình khác tâm Phật
như
kinh Quán Phật
có dạy
"Nếu
hay chí tâm giữ
niệm,
nội
tại
đoan chánh quán sắc
thân Phật,
cùng với
Phật
không khác, tuy ở
trong phiền
não cũng
không bị
điều
ác che lấp,
ở
đời
vị
lai mưa
pháp vũ
lớn
(35)."
d) Quán Như
Ý Túc trong pháp niệm
Phật
Đến
đây pháp còn lại
của
Tứ
Như
Ý Túc là Quán, nghĩa
là chiêm nghiệm,
tư
duy quán sát các pháp. Nhờ
trải
qua ba pháp đầu:
mong muốn,
siêng năng, nhất
tâm không loạn,
cho nên việc
quán sau có phần
lưu
thông. Nếu
không có được
ba pháp đầu
thì không làm sao quán được.
Điều
này có nghĩa
ta cần
có trí tuệ
từ
việc
định
tâm chuyên nhất,
tinh tấn
mà ra.
Quán sát các pháp sinh
diệt
để
đạt
đến
thật
lý vô thường
của
vạn
pháp. Từ
đây sẽ
giúp cho hành giả
thấu
rõ vững
chắc
nơi
pháp mình đang tu.
4)
Niệm
Phật
với
Ngũ
căn, Ngũ
lực
Ngũ
căn là năm căn, năm phần
căn bản,
cội
rễ
phát sinh ra thiện
pháp. Năm phần
đó là:
Tín căn
Tinh tấn
căn
Niệm
căn
Định
căn
Huệ
căn
a) Niệm
Phật
cần
có Tín căn
Trong năm căn, Tín căn được
đặt
trước
tiên, điều
này cho thấy
tin là bước
đầu
tiên hành trì mọi
pháp. Trong kinh Phạm-Võng
có nói "Tất
cả
các hạnh
lấy
tin làm đầu.
Tin là cội
gốc
của
các công đức
(36)". Cũng
không kể
là pháp sâu cạn,
cao thấp
nếu
không có lòng tin việc
tu hành sẽ
không thành đạt.
Kinh Tiểu
Địa
Quán dạy
"Vào biển
Phật
Pháp, lòng tin là gốc...(37)".
Nhưng
lòng tin ở
đây phải
đến
từ
lý trí sáng suốt,
hiểu
biết
minh mẫn,
hẳn
không phải
là tin càng, tin bướng
một
cách mù quáng, vô minh. Kinh Niết
Bàn dạy
"Tin mà không hiểu
vô minh thêm nhiều.
Hiểu
mà không tin, tà kiến
thêm lớn
(38)."
Ở
pháp Tín căn đây, nhắc
người
Phật
tử
trước
khi vào biển
Phật
phải
có niềm
tin căn bản.
Niềm
tin căn bản
này là tin ba ngôi Tam Bảo,
là Phật,
Pháp, Tăng.
-Tin Phật:
Là đấng
vẹn
toàn về
đức
tánh Hùng lực,
Từ
bi, Trí tuệ.
Ngài không phải
là vị
thần
linh, ban ơn,
giáng họa
hay bậc
Thánh thần
để
ta thờ
cúng van xin, mà chỉ
đơn
giản
tin rằng
Phật
chỉ
là một
con người
thanh tịnh,
giác ngộ
hoàn mỹ.
Tin như
vậy
để
thấy
rằng
chúng ta cũng
có tánh giác như
Phật,
nhưng
chỉ
khác Phật
ở
chỗ
chúng ta chưa
được
hoàn mỹ
mà thôi.
-Tin Pháp: Trí huệ
của
Phật
là siêu việt
thì giáo pháp, lời
dạy
của
Phật
phải
là chân lý. Hơn
nữa
giáo pháp Ngài dạy
không phải
của
riêng Ngài, giáo pháp ấy
bàng bạc
trong không gian vô tận
và thời
gian vô thỉ
vô chung. Đức
Phật
chỉ
là người
giác ngộ
từ
giáo pháp ấy
rồi
dạy
lại
chúng ta. Do vậy
giáo pháp đó là chân lý không phải
thần
kỳ,
huyền
hoặc.
-Tin Tăng: Những
đại
đệ
tử
của
Phật
thật
tu thật
chứng
nhiều
vô số.
Các Ngài đã thay Phật
đem ánh sáng giác ngộ
trải
rộng
đến
muôn người
muôn vật.
Và cũng
chính nhờ
vậy
mà giáo pháp muôn thuở
ấy
mới
tồn
tại
mãi đến
ngày nay.
Lược
qua ba đức
tin căn bản,
người
Phật
tử
sẽ
vững
vàng bước
đi vào đạo
mà không sợ
vấp
ngã.
Đối
với
pháp niệm
Phật
ở
Tín căn, người
niệm
Phật
phải
xem đây là điều
kiện
tiên quyết.
Bởi
niệm
Phật
có nhất
tâm hay không là do ở
niềm
tin xác đáng. Nay ta đã tin Phật
Thích Ca, thì phải
tin Phật
A Di Đà, vì lời
Phật
dạy
không bao giờ
sai dối;
và đã tin Phật
A Di Đà thì lời
nguyện
tiếp
dẫn
của
Ngài (Phật
A Di Đà) hẳn
phải
là sự
thật.
Người
niệm
Phật
tin được
như
thế,
dẫn
đến
sự
trì niệm
thâm sâu hơn.
b) Tín căn trong pháp niệm
Phật
Việc
học,
việc
làm ở
thế
gian có được
thành công, là do siêng năng cần
cù, nhẫn
nại
không nản
chí, thì việc
học
Phật
là việc
cao thượng
tinh tế
khó hành, không thể
thiếu
tánh đức
siêng năng được.
Khi đã có được
lòng tin vững
chắc
về
ba ngôi Tam Bảo,
người
Phật
tử
phải
tiếp
theo dùng nghị
lực
tinh tấn
của
mình mà thực
hành theo giáo pháp; nếu
không niềm
tin ấy
chẳng
mang một
ý nghĩa
gì. Vậy
tính căn là sự
siêng năng không ngừng
nghỉ
trên con đường
đạo.
Trong kinh Bồ
Tát Bổn
Hạnh,
Phật
dạy
rõ ràng về
lợi
ích của
tinh tấn.
"...Người
tại
gia mà biết
tinh tấn
thì ăn mặc
đầy
đủ,
sự
nghiệp
rộng
lớn,
xa gần
được
người
tán thưởng
khen ngợi.
Người
xuất
gia mà biết
tinh tấn,
thì thành tựu
được
ba mươi
bảy
phẩm
trợ
đạo,
dứt
được
trôi lăn sinh tử,
được
đến
bến
bờ
Niết
Bàn an vui
(39)."
Niệm
Phật
đối
với
tính căn lại
càng được
đặt
nặng
hơn
hết.
Bởi
vì rốt
ráo việc
niệm
Phật
là mong sao được
nhất
tâm trong câu niệm
Phật,
mà muốn
được
vậy
phải
luôn luôn tinh tấn
niệm
niệm
tương
tục;
có nghĩa
làm cho câu niệm
kết
nối
nhau như
dòng nước
chảy
không đứt
đoạn.
Và trong câu niệm
đó chẳng
những
không mống
khởi
điều
xấu
ác, mà điều
thiện
lành cũng
không có mặt.
Niệm
được
như
thế
mới
là tấn
tu trong niệm
Phật.
Do vậy
ta thấy
rằng
dù người
Phật
tử
tại
gia hay xuất
gia đều
phải
tinh tấn
hành đạo.
Không gia công tinh tấn,
thì mọi
pháp môn tuyệt
diệu,
cao siêu nào đi nữa
cũng
là hư
vọng.
Ngược
lại
quyết
tâm bền
chí, tinh tấn
pháp môn nào khó đến
đâu cũng
dễ
thành công. Do đó tinh tấn
là tối
quan trọng
là tối
căn bản
của
người
Phật
tử.
c) Niệm
căn trong niệm
Phật
Cuộc
sống
rối
ren, hỗn
độn
hằng
ngày ảnh
hưởng
rất
nhiều
vào tâm niệm
con người.
Từ
đây là nguyên nhân sanh ra những
thao thức,
bất
an chập
chờn
trong tâm thức.
Ở
xã hội
văn minh không ai lại
không ít nhiều
bị
lôi cuốn
vào cuộc
sống
rối
ren này.
Muốn
dừng
lại
tâm niệm
lăng xăng để
hướng
về
tâm niệm
đơn
thuần,
chúng ta chỉ
có cách chuyển
tạp
niệm
thành nhất
niệm.
Niệm
căn là niệm
tưởng
căn bản
quy về
thiện
niệm,
là sự
ghi nhớ
thuần
chất
quy về
thiện
pháp. Sự
ghi nhớ
này về
một
đối
tượng
thanh cao trong sáng đẩy
lùi tạp
niệm
xấu
xa. Hình ảnh
đức
Phật,
giáo lý giải
thoát là mục
tiêu để
tăng trưởng
niệm
căn được
thành tựu.
Hành trì niệm
Phật
là hợp
nhất
với
pháp niệm
căn thanh tịnh,
vì niệm
Phật
là ghi nhớ
pháp lành, là trau dồi
ý tưởng
đạt
đến
trạng
thái trong sáng ở
tâm hồn.
Ghi nhớ
niệm
Phật
còn được
chư
Phật
hộ
niệm,
giao cảm
như
lúc nào cũng
gần
gũi
với
Phật.
Trong kinh Niết
Bàn Phật
bảo
Ca Diếp
Bồ
Tát: "Nếu
có kẻ
thiện
nam người
thiện
nữ
thường
hay chí tâm chuyên niệm
Phật,
hoặc
ở
núi rừng,
hoặc
ở
thôn xóm, hoặc
ngày hoặc
đêm, hoặc
ngồi
hoặc
nằm,
các đức
Phật
Thế
Tôn thường
thấy
người
này như
trước
mặt
(40)".
d) Định
căn trong niệm
Phật
Khi niệm
căn được
thuần
thục,
khắc
ghi vào tâm các pháp lành ý thiện.
Tâm thức
của
chúng ta bây giờ
sẽ
ngừng
lại
những
lăng xăng, loạn
động
chỉ
còn lại
sự
chuyên nhất
vào pháp thanh tịnh.
Giữ
được
trạng
thái an lạc
nhất
như
này gọi
là định
căn. Công năng của
định
căn đào luyện
con người
có được
tính tập
trung, khả
năng chịu
đựng,
sự
nhận
định
sáng suốt.
Kinh Di Giáo Phật
dạy
"... Nếu
người
nhiếp
tâm thì tâm ở
trong định,
nên có thể
biết
được
pháp tướng
sanh diệt
trong thế
gian. Thế
nên các ông phải
thường
tinh tấn
tu các thiền
định,
nếu
được
định
rồi
thì tâm không còn tán động.
Ví như
người
giữ
nước,
khéo giữ
đê điều.
Cũng
thế
hành giả
vì nước
trí huệ,
khéo tu thiền
định
khiến
cho không bị
chảy
mất.(41)."
Người
niệm
Phật
chuyên tâm vào hồng
danh Phật
cũng
sẽ
được
chánh định
không khác gì thiền
quán. Bởi
vì lìa tán loạn
an trú vào một
chỗ
đạt
đến
thanh tịnh
là được
chánh định,
mà niệm
Phật
là niệm
pháp lành, pháp thiện
để
đạt
được
định
tâm cho nên không khác vậy.
e) Niệm
Phật
với
tuệ
căn
Từ
ghi nhớ
các pháp lành (niệm
căn) đến
được
an tịnh
(định
căn), tới
đây tư
tưởng
sẽ
bừng
sáng, trong lành không còn ô nhiễm,
do đó dẫn
đến
tuệ
căn.
Tuệ
căn là căn tánh trí tuệ
tinh khiết,
sáng suốt
trong đó không có sự
phân biệt
mê lầm
vọng
động.
Vì thế
với
tuệ
căn sáng suốt
ta có thể
thực
hành quán sát nhận
chân ra mọi
việc
thật
hư,
liên quan tới
việc
giải
thoát sinh tử
như
kinh Trường
A Hàm có dạy
"Dùng trí huệ
quán sát việc
sống
chết...(42)"
Lại
kinh Di Giáo đức
Phật
đã nhấn
mạnh
việc
hệ
trọng
của
người
có trí huệ
và không trí huệ
"Tỳ
kheo các ông! Nếu
người
có trí huệ
thì không có tham trước,
thường
tự
tinh sát (suy xét) không để
sanh ra tội
lỗi.
Thế
là ở
trong pháp của
ta có thể
được
sự
giải
thoát. Nếu
chẳng
vậy,
đã chẳng
phải
là bậc
đạo
nhân, lại
cũng
chẳng
phải
là kẻ
bạch
y (cư
sĩ),
không biết
gọi
là gì! Người
có trí huệ
chân thật,
ấy
là chiếc
thuyền
tốt
có thể
vượt
qua biển
già, bịnh,
chết;
cũng
là ngọn
đèn sáng chiếu
phá cảnh
tối
tăm, mờ
ám; là món thuốc
hay trị
tất
cả
các chứng
bệnh,
là lưỡi
búa bén chặt
đứt
cây nghiệp
phiền
não...(43)"
Do vậy
trí tuệ
phải
là quan trọng
đối
với
người
tu Phật.
Người
niệm
Phật
cũng
cần
có trí tuệ
sáng suốt.
Phải
niệm
Phật
trong niềm
tin vững
chắc,
phải
xác nhận
việc
sinh tử
là gốc
luân hồi,
và quan trọng
hơn
phải
biết
pháp tu niệm
Phật
viên dung cả
lý và sự.
Về
lý: nên hiểu
rằng
tâm Phật
và tâm ta không khác nhưng
vì ta luôn sống
trong động,
nên chơn
tâm không phát lồ
được.
Và khi đã thanh tịnh
nhất
tâm thì việc
niệm
Phật
chỉ
là việc
khơi
dậy
Phật
tánh mà thôi. Cũng
như
cõi Cực
Lạc
Tây Phương
có cách xa cõi Ta Bà bao nhiêu cũng
chỉ
trong một
niệm
của
ta. Do vậy
trang nghiêm tâm niệm
cũng
là trang nghiêm cõi Tịnh
Độ.
Về
sự:
Nếu
cõi Ta Bà ta sống
đây là thật,
là huyễn
thì cõi Cực
Lạc
cũng
không khác, và việc
sinh về
Cực
Lạc
lại
không khác gì việc
con người
bị
luân hồi
trở
lại
cõi Ta Bà này. Cũng
thế,
trở
lại
cõi Ta Bà do tâm niệm,
thì được
sanh về
Cực
Lạc
cũng
do tâm niệm
mà ra. Cho nên cõi Cực
Lạc
cách đây mười
vạn
ức
Phật
độ
vẫn
là một
cõi thực
có.
5) Niệm
Phật
với
ngũ
lực
Ngũ
lực
là năm năng lực
hùng mạnh
có thể
tạo
dựng
nên thiện
pháp và phá trừ
ác pháp. Năm sức
mạnh
này phát sinh ra là do sự
vun bồi
của
năm căn (tín căn, tấn
căn, niệm
căn, định
căn, tuệ
căn), hay nói rõ hơn
năm lực
là sức
mạnh
của
năm căn. Năm lực
đó là: Tín lực,
Tấn
lực,
Niệm
lực,
Định
lực
và Tuệ
lực.
Muốn
thành tựu
năm căn không thể
thiếu
năm lực.
Trong kinh Ấm
Trì Nhập
(thuộc
Đại
Tạng
Kinh) có nói về
ngũ
lực
như
sau: "...Có năng lực
làm lợi
lạc
đạo
ngày một
thêm, ân đức
gội
nhuần
đến
khắp
mọi
loài chúng sanh ngày một
rộng
lớn.
Lực
nghĩa
là dám làm như
vào chỗ
ma binh không hề
hấn
một
mảy
lông của
Bồ
Tát. Đạo
lực
hàng phục
được
ma vương,
nên dám làm không sợ
sệt...(44)"
Qua đó hiểu
rằng
ngũ
lực
là phương
tiện
hùng mạnh
giúp ta thành tựu
trên đường
đạo.
Với
người
niệm
Phật,
Ngũ
lực
là con thuyền
vững
chắc
đạp
sóng, lướt
gió vượt
tới
bờ
bên kia. Như
thế
phần
nội
dung, tính chất
của
ngũ
lực
chính là thần
lực,
sức
mạnh
của
ngũ
căn. Do đây có thể
tóm tắc
như
sau:
a) Niệm
Phật
với
tín lực
Nhờ
vào năng lực
hùng mạnh,
niềm
tin xác đáng, người
niệm
Phật
sẽ
kiên cố,
vững
chãi trong việc
thực
hành. Cũng
như
phá tan đi những
nghi hoặc,
phiền
não làm lui sụt
đạo
tâm.
b) Niệm
Phật
với
tấn
lực
Sức
hành trì tinh tấn
không thối
chuyển,
người
niệm
Phật
vượt
qua mọi
sự
giải
đãi, hôn trầm,
dã dượi
và dần
dà đạt
tới
chỗ
nhất
tâm.
c) Niệm
Phật
với
niệm
lực
Năng lực
khắc
ghi vào tâm trí những
thiện
niệm
có công năng phá trừ
ác niệm.
Người
niệm
Phật
vững
bền
mãi với
danh hiệu
Phật
trong tâm tưởng,
do đó sẽ
dẫn
đến
nhất
niệm
không rối
loạn.
d) Niệm
Phật
với
định
lực
Sức
tập
trung tăng trưởng
phá trừ
được
vọng
tưởng,
loạn
động.
Người
niệm
Phật
không còn bị
một
chướng
ngại
nào kéo lôi, do vậy
danh hiệu
Phật
được
nhiếp
niệm
dễ
dàng vào tâm ý.
e) Niệm
Phật
với
huệ
lực
Nguồn
năng lực
trí huệ
sáng suốt,
đạp
phá hết
vô minh tà vọng.
Người
niệm
Phật
dễ
dàng đi sâu vào câu niệm
Phật
một
cách rốt
ráo.
6) Niệm
phật
với
Thất
Giác Chi
Thất
Giác Chi cũng
gọi
là Thất
Bồ
Đề
Phần,
Thất
Giác Ý, Thất
Giác Phần
nghĩa
của
pháp này là bảy
phần
tánh giác đưa
người
đạt
đến
quả
Bồ
Đề.
Bảy
phần
ấy
như
sau:
Trạch
pháp giác chi
Tinh tấn
giác chi
Hỷ
giác chi
Khinh an giác chi
Niệm
giác chi
Định
giác chi
Xả
giác chi
Trong bảy
phần
này, phần
Niệm,
Tinh tấn,
Định,
mang ý nghĩa
tương
tự
giống
các pháp Niệm,
Tinh tấn,
Định
trong Tứ
Như
Ý Túc, Ngũ
căn, Ngũ
lực.
Do đó chỉ
lược
lại
ý mà thôi.
a) Niệm
Phật
với
trạch
pháp
Như
việc
chọn
lựa
nghề
nghiệp
mưu
sinh giải
quyết
nhu cầu
căn bản
cần
có của
đời
sống,
thì ở
đây Trạch
pháp cũng
thế.
Trạch
pháp là sự
lựa
chọn
một
phương
pháp tu hành đúng với
lẽ
đạo,
chân lý. Nếu
ai đó thất
bại
về
việc
chọn
lựa
sai lầm
công việc,
thì người
làm đạo
cũng
sẽ
mất
hết
công đức
tu hành khi không có trí huệ
phân biệt
giữa
chánh tà, chân vọng.
Người
đời
chọn
sai việc
làm có thể
thất
bại
trong một
ngày, một
năm, tùy theo công việc;
gia sản
có thể
hao kiệt
dẫn
đến
nghèo đói v.v… Nhưng
người
hành đạo
nếu
không trí huệ,
tu hành lẫn
lộn
với
chánh tà, không rõ chân lý thì hậu
quả
sẽ
gấp
muôn lần
nghèo đói. Vì một
kiếp
tu sai dẫn
đến
muôn kiếp
đọa.
Người
hành trì pháp niệm
Phật
đối
với
sự
phân biệt
chân vọng
cần
nên hiểu
rõ. Tự
tin chắc
rằng
pháp niệm
Phật
là do đức
Phật
nói ra, không phải
từ
một
vị
tổ,
vị
sư
nào biết
được
để
bày nói. Phân biệt
lựa
chọn
bằng
trí huệ
sáng suốt
như
vậy,
việc
hành đạo
mới
không gặp
trở
ngại
và con đường
đạo
sẽ
được
rút ngắn.
b) Niệm
Phật
tinh tấn
Một
khi việc
làm đã được
hoạch
định,
phần
còn lại
chỉ
cần
cố
gắng
siêng năng đeo đuổi
với
công việc
cho đến
thành công. Người
học
đạo
khi đã chọn
lựa
dò xét kỹ
càng pháp tu; điều
tiếp
đến
là phải
tinh tấn
công phu không gián đoạn,
được
như
thế
dù pháp môn có khó cũng
hóa ra dễ.
Ở
kinh Di Giáo lời
cuối
cùng của
Phật
cũng
chỉ
là nhắc
đi nhắc
lại
việc
tinh tấn
là tối
hậu,
là quyết
định
sanh tử
cho người
hành đạo.
"Này các Tỳ
kheo, ngày thì chuyên cần
tu tập
các pháp lành chớ
để
thời
giờ
luống
mất.
Đầu
đêm cuối
đêm cũng
chớ
nên bỏ
phế.
Nửa
đêm lấy
sự
tụng
kinh làm ngủ
nghỉ.
Chớ
vì nhân duyên ngủ
nghỉ
để
một
đời
luống
qua khiến
không được
gì. Phải
nhớ
đến
lửa
vô thường
thiêu đốt
thế
gian, sớm
cầu
tự
độ,
chớ
khiến
cho ngủ
nghỉ,
các giặc
phiền
não thường
rình rập
giết
người,
nhất
là oan gia. Các thầy
có thể
an ổn
ngủ
nghỉ,
không tự
cảnh
tỉnh
vậy
ư?
Rắn
độc
phiền
não đang còn ngủ
trong lòng các ông. Thí như
rắn
đến
ngủ
trong nhà ông, phải
dùng lưỡi
câu trì giới
để
sớm
cầu
trừ
sạch
đi. Rắn
ngủ
ra rồi
mới
có thể
yên ngủ.
Như
thế
là người
không còn có gì hổ
thẹn
nữa
vậy
(45)."
Người
niệm
Phật
không nói ra cũng
đủ
hiểu
tinh tấn
là hàng đầu.
Vì không tinh tấn
thì không thể
niệm
Phật
nhất
tâm được.
c) Niệm
Phật
hoan hỷ
Ai cũng
thấy
rằng
đời
sống
con người
vui ít khổ
nhiều.
Vui chỉ
móng lên tồn
tại
đôi chút rồi
bao nhiêu còn lại
là niềm
đau buồn
lo khổ.
Tuy nhiên niềm
hoan hỷ,
lạc
vui trong đời
cũng
không phải là việc khó tìm. Niềm vui có
thể có mặt khắp nơi và lúc nào cũng tùy do ta mà hiện hữu. Nếu người biết
sáng tạo thì hỷ lạc vẫn tràn ngập ở tâm hồn.
Niềm vui hỷ lạc
lại có thể sanh ra điều thiện và điều bất thiện. Vui với hành động yêu
thương mang đến sự an lành cho người, hay chia sẻ nỗi vui với người khác
thì gọi là vui thanh cao, thánh thiện. Ngược lại là bất thiện, nếu vui
trên sự đau khổ của người, hay vui trong thỏa thê dục vọng. Vậy phần hỷ
trong Thất Giác Chi này là hoan hỷ với niềm vui thiện; niềm vui hướng tới
sự thành tựu giải thoát. Với người niệm Phật, niềm hoan hỷ cần phải thực
hành. Bởi danh hiệu Phật phải được phát xuất ra từ tâm hoan hỷ không chứa
chấp phiền não; cũng như tâm đã hoan hỷ thì tâm niệm lúc đó mới là thật
niệm.
d) Khinh an
trong niệm Phật
Thân tâm đã hoan
hỷ cho nên sanh ra nhẹ nhàng an ổn đây gọi là khinh an. Đối lại khinh an
là sự trì trệ, phiền trược nặng nề của phiền não. Người muốn giải thoát hệ
lụy này phải làm sao thanh lọc thân tâm được thanh tịnh, trong sáng.
Qua ba phần giác
chi nói trên chúng ta thấy tuần tự từ việc chọn lựa pháp môn chánh đáng
rồi tinh tấn hành trì; sau đó hoan hỷ trong niềm an lạc của đạo, từ đây là
nguyên nhân dẫn đến khinh an (nhẹ nhàng an ổn). Vậy thì nhận định và thực
hành đúng với chánh pháp thì niệm khinh an sẽ tự có mặt trong ta mà không
phải cần tìm kiếm nơi đâu. Thời Phật còn tại thế các tu sĩ ngoại đạo hay
ngạc nhiên với tăng chúng của Phật, do đâu mà tâm hồn các Ngài luôn nhẹ
nhàng, thanh thoát trong khi ngày chỉ ăn một buổi đêm ngủ ở gốc cây. Đức
Phật trả lời, là do các vị ấy hành đúng với giáo pháp giải thoát; không
nối tiếc quá khứ, không trầm tư, ngưỡng vọng đến tương lai. Vì quá khứ đã
qua, tương lai chưa đến. Sống như thế hành như thế cho nên các Ngài được
khinh an.
Niệm Phật muốn
nhất tâm, thì cũng phải tạo cho thân tâm được nhẹ nhàng, an ổn. Có an ổn
thư thái danh hiệu Phật mới rõ ràng rốt ráo.
e) Niệm giác
chi trong niệm Phật
Phần Niệm trong
Thất Giác Chi cũng cùng một nghĩa niệm của các pháp trước. Nghĩa là ghi
nhớ, khắc ghi vào tâm tưởng các pháp lành, điều thiện. Nhớ nghĩ như vậy
mãi sẽ ngăn chặn được tâm buông lung, xằng bậy. Vì buông lung làm tiêu mất
thiện pháp, kinh Niết Bàn, Phật dạy "...Buông lung có mười ba điều tội
lỗi: Một là vui thích nghiệp bất thiện ở đời. Hai là vui thích nói lời vô
ích. Ba là vui thích ngủ nghỉ lâu. Bốn là vui thích nói việc thế gian. Năm
là vui thích thân gần bạn ác. Sáu là thường giải đãi biếng nhác. Bảy là
thường bị người khinh chê. Tám là tuy có nghe nhưng rồi quên mất. Chín là
ưa thích ở chỗ bưng biền biên địa. Mười là không thể điều phục các căn.
Mười một là không đủ ăn. Mười hai là không ưa thích chỗ tịch tĩnh. Mười ba
là chỗ thấy không chơn chánh. Nếu người buông lung, tuy có được gần Phật
và đệ tử của Phật, nhưng cũng đã như xa rồi vậy (46)."
f) Định Giác
Chi trong niệm Phật
Phần Định ở đây
cũng không khác các Định ở những pháp trước, là cố tập trung điều phục tâm
ý vào pháp mình đang tu. Nuôi dưỡng, gìn giữ chuyên nhất về một nơi như
vậy, thì tuệ giác phát sinh thành tựu các thiện pháp. Người niệm Phật cũng
chuyên nhất về danh hiệu Phật mà đạt tới định tâm hay gọi là nhất tâm bất
loạn.
g) Xả Giác
Chi trong niệm Phật
Thế giới ô trược,
con người đau khổ phần lớn là do tâm tham đắm, chấp trước của chúng sanh.
Vì tham đắm nên tạo ra muôn vàn nghiệp duyên, quây quần rối rít, tử tử,
sinh sinh. Người học đạo giải thoát trước tiên phải phá trừ tâm tham đắm,
chấp nê. Sự tham luyến, chấp chặt vào bất cứ pháp nào, hình thức chi vẫn
mang đến đau khổ, ngay cả đến sự chấp vào pháp tu học giải thoát cũng thế.
Bởi vì đời là vô thường, mọi pháp đều huyễn hóa. Còn tha thiết, say đắm
vào quả vị thì còn dính mắc vào pháp chấp, ngăn trở việc giải thoát tuyệt
đối. Ở pháp xả này có nghĩa là lìa bỏ mọi vướng bận trì kéo, dính mắc làm
thối chuyển đạo tâm. Tuy thế việc hành xả này không có nghĩa là từ bỏ hết,
quên hết để rồi biến thành một người ngây dại sống bất định ở đời. Việc
hành xả ở đây vẫn là tinh tấn hăng say vui vẻ tạo thiện, phá ác. Nhưng rồi
sẽ không chấp vào việc làm lành phá ác đó, cũng như biết đời là huyễn nên
không tiếc cái thân huyễn mà hành đạo.
Người niệm Phật
cũng thế, xem việc trì danh công phu niệm Phật là phương tiện, là huyễn
hóa. Và chính vào sự hiểu biết đó cho nên niệm Phật càng nhiếp tâm mà
không chi lo sợ phải bị kẹt vào pháp chấp.
7) Niệm Phật
trong Bát Chánh Đạo
Bát Chánh Đạo hay
còn gọi là Bát Thánh Đạo, là pháp tu nhằm cải tạo thăng hoa đời sống con
người đến hoàn mỹ tuyệt đối. Có thể nói cuộc sống được thánh thiện không
thể thiếu Bát Thánh Đạo. Người Phật tử học Phật hầu như ai ai cũng nghe
nói về pháp tu này. Một pháp tu không gò bó câu nệ, mê tín, được xem như
căn bản nhất trong đạo Phật.
Bát Chánh Đạo gồm
tám con đường như sau:
Chánh kiến
Chánh tư duy
Chánh ngữ
Chánh nghiệp
Chánh mạng
Chánh tinh tấn
Chánh niệm
Chánh định
a) Niệm Phật
với chánh kiến
Bao việc sai lầm
ngang trái xảy ra trong đời sống là do sự thấy biết không thật đúng của
con người. Nhìn nhận một vấn đề sai dẫn đến kết quả đen tối, ngược lại là
kết quả tươi đẹp khi hiểu biết phán xét đúng sự thật.
Chánh kiến nghĩa
là sự thấy, biết, hiểu một cách đúng, hợp với chân lý, lẽ phải, mà không
đưa đến ngộ nhận cho người hay chính mình. Nhưng cuộc sống lại đôi khi nằm
trong mâu thuẫn, thành kiến thì làm sao ta có thể tự cho mình là chánh
kiến! Ở đây điều quan trọng là phải nhìn sâu hơn trong cái nhìn hiểu biết
về chánh kiến, có nghĩa phải dung hòa bằng nhiều phương tiện để tự tìm ra
lối thoát.
Trong đời sống mưu
sinh, con người phải tìm mọi cách để tự gán mình vào khuôn mẫu xã hội, hầu
gia nhập vào công lệ thế gian. Từ đó khó có thể tạo cho mình một ý thức
độc lập để có sự hiểu biết về cái nhìn khách quan.
Cái nhìn khách
quan ở đây không chỉ đứng bên ngoài sự việc mà quán xét. Trái lại phải
nhập cuộc để gạn lọc, học hỏi rồi tìm ra phương pháp hóa giải vấn đề. Cũng
như thế người có chánh kiến không khư khư cố chấp sự hiểu biết của mình mà
từ chối tất cả, hay tệ hại hơn cho người khác là sai; vì vấn đề sai đúng
còn tùy vào nhiều khía cạnh, như hoàn cảnh, môi trường, thời gian...Thế
nên vấn đề tiên quyết là uyển chuyển bằng nhiều phương tiện chuyển hóa,
hoán cải để tự nhận ra điều thiện, điều bất thiện. Trong kinh Trung Bộ I,
phẩm Chánh Tri Kiến, có nói "Khi Thánh đệ tử tuệ tri (hiểu biết sáng
suốt) được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được
thiện và tuệ tri được căn bản của thiện, này chư Hiền khi ấy vị Thánh đệ
tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối
và thành tựu diệu pháp này (47)." Với người niệm Phật pháp chánh kiến
phải cần sáng tỏ. Nhận thấy rằng pháp niệm Phật là một diệu pháp hợp xứng
với tâm cảnh con người thời nay mà đức Phật đã tuyên dạy. Bằng niềm tin
hiểu biết đúng như thế sẽ là nghị lực bất thối, trước mọi hoàn cảnh tình
huống để không sợ phải lạc vào tà kiến.
b) Niệm Phật
với chánh tư duy
Con người được xem
như một sinh vật cao quý, thông minh nhất trên địa cầu. Loài người có thể
hầu như làm được tất cả. Biết bao chứng tích lịch sử từ ngàn xưa còn xót
lại đã chứng minh được điều này. Cho dù chứng tích đó có thánh thiện hay
gian tà cũng nói lên được sức hiểu biết của con người. Nếu so sánh với
loài vật khác, sự khác biệt với nhau rất xa. Trí hiểu biết của loài vật
hạn hẹp, nhỏ nhoi chỉ thể hiện trong phản ứng sinh tồn, ngoài ra xem như
không có gì cả so với con người thật sâu xa siêu việt. Giả như con người
không có hiểu biết tư duy thì y như loài vật không hơn không kém.
Tư duy là suy xét,
suy tư, suy niệm. Chánh tư duy là điều suy tư nghiệm xét hợp với chân lý
lẽ phải. Việc suy tư, xét nghiệm đúng đắn giúp người ta hoàn thành trách
vụ công việc tốt trong xã hội. Người học đạo giải thoát có chánh tư duy
mới thấy rõ được bản chất, bản thể của các pháp là vô ngã, vạn vật là vô
thường và vô minh là đầu mối của sinh tử.
Niệm Phật với
chánh tư duy là niệm trong tư duy chánh pháp. Nhận ra Phật hiệu là tự
tánh, là Phật tâm, là phương tiện rốt ráo nhất đưa người về nguồn tâm như
thật.
c) Niệm Phật
với chánh ngữ
Trong luật Sa Di
có nói "Luận việc xử thế ở đời, lưởi búa nằm ngay trong miệng, sở dĩ
chém mình là do lời nói ác của chính mình". Tục ngữ, ca dao cũng nói "Thần
khẩu buộc xác phàm." , "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau." Tất cả ý nghĩa khuyên ta hãy nên thận trọng lời
nói để khỏi phải chịu tai họa. Cố gắng nói sao cho êm đẹp, cho hòa vui hết
thảy. Tuy nhiên phải hiểu, lời nói đây phải thành thật, chân tình, không
rụt rè nịnh hót, a dua cho được yên thân, thoát nạn.
Đương đầu trong
cuộc sống mới thấy khẩu nghiệp là quan trọng. Chẳng hạn cũng một lời nói
mà ở vào hai người có địa vị khác nhau, thì hậu quả của nó hoàn toàn sai
khác. Người càng có chức vị cao lời nói càng dè dặt. Thế nên thường thấy
các vị lãnh đạo, chính khách đều phát ngôn rất chuẩn mực.
Lời nói có giá trị
như mạch sống của con người. Người học Phật phải biết lời nói là một trong
ba nghiệp quan trọng nhất của người Phật tử, đó là Thân nghiệp, Khẩu
nghiệp và Ý nghiệp. Thực hành Bát Chánh Đạo mà xem thường phần chánh ngữ
thì không đạt được mục đích chân thiện hoàn toàn.
Chánh ngữ là lời
nói đúng với sự thật, chân lý, trái ngược với lời nói vọng, nói ác, nói
lưỡng thiệt (nói hai đầu), nói phù phiếm. Chánh ngữ luôn luôn mang tính
chất xây dựng, hài hòa, hợp nhất với hành động. Công đức của lời nói thật
được nêu ra trong Luận Trí Độ như sau: "Lời nói chân thật được lợi ích
không kém bố thí, trì giới, học vấn, đa văn. Chỉ cần tu lời nói chân thật,
cũng được vô lượng phước đức vậy (48)." Ngược lại là hậu quả phải gánh
chịu, cũng trong Luận Trí Độ: "Nói dối có mười tội: Một là hơi miệng
hôi thúi. Hai là thiện thần xa lánh, phi nhân tự tiện xâm nhập. Ba là tuy
có lời nói chân thật, người nghe không tin chịu. Bốn là người trí nghị
bàn, thường không được tham dự. Năm là thường bị người bài báng, tiếng xấu
đồn khắp thiên hạ. Sáu là người không kính trọng, tuy có việc dạy bảo,
nhưng người không chịu thừa nhận tin dùng. Bảy là thường nhiều lo buồn.
Tám là gieo trồng nghiệp nhân duyên hủy báng. Chín là thân hoại mạng chung
đọa vào địa ngục. Mười là sanh ra làm người thường bị bài báng (49)."
Niệm Phật với
chánh ngữ lại càng tương hợp. Mỗi câu niệm Phật là mỗi lời chánh ngữ, điều
tịnh khẩu nghiệp, xa trừ ác ngữ, thanh tịnh nôi tâm. Kinh Bảo Tích dạy
rằng "...xưng niệm Nam Mô
Phật, khẩu nghiệp sạch không. Khẩu nghiệp như thế gọi là cầm cây đuốc lớn
chiếu sáng phá tan phiền não (50)."
d) Niệm Phật
với chánh nghiệp
Giá trị hạnh phúc
đích thực của con người là sống, hành động phù hợp theo tinh thần đạo đức
bỏ ác làm lành, cải thiện đời sống an vui từ trong gia đình ra ngoài xã
hội. Nếu vì lý do gì hành động ngược lại tinh thần tâm linh đạo đức, con
người sẽ phải gánh chịu kết quả khổ đau từ việc làm của chính mình. Kinh
Niết Bàn dạy "Quả báo thiện ác như bóng theo hình. Nhân quả ba đời tuần
hoàn không mất...(51)"
Chánh nghiệp là
hành động thiện, hành vi lành hợp với chánh pháp mang lợi ích, điều hòa
đến ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý.
Niệm Phật với
chánh nghiệp là tạo hành động lành, kiểm soát ba nghiệp, thanh tịnh thân
tâm, dứt mọi điều xấu ác. Khi sống thân tâm nhẹ nhàng lúc mãn phần sanh về
Cực Lạc. Kinh Pháp Cú "...Người hành ác sanh vào khổ cảnh, người phẩm
hạnh tốt sanh vào nhàn cảnh. Bậc không ô nhiễm nhập diệt vào Niết Bàn
(52)."
e) Niệm Phật
với chánh mạng
Trong xã hội mọi
người mang lấy mọi công việc. Tùy vào sự hiểu biết cá nhân cũng như hoàn
cảnh môi trường mà việc làm có cao thấp nặng nhẹ. Người ta phải cố làm sao
giải quyết việc sinh nhai ấm no, lợi lạc. Từ việc nuôi thân này đôi khi
con người vô tình tạo ra những việc làm không hay, bất thiện gây thương
tổn đến người khác, và mất đi tính chất hài hòa thiên nhiên với vạn vật.
Người Phật tử nguyện sống đời từ bi trí tuệ nên tự chọn công việc nào
không tổn hại cho người cho mình và ngay cả đến loài vật. Chánh mạng là sự
sinh hoạt với nghề nghiệp lành mạnh, thật thà lương thiện phù hợp với pháp
lành lẽ thật. Trong Tăng Chi Kinh III đức Phật đã dạy cho cư sĩ Phật tử
bốn pháp về lối sống của một người muốn tìm hạnh phúc an lạc trong sinh
hoạt đời sống.
1. Sống đầy đủ
tháo vác, tức làm thật giỏi, thật thiện xảo nghề nghiệp của mình.
2. Biết giữ gìn
tài sản do nghề nghiệp lương thiện làm ra, không để mất mát lãng phí.
3. Được nuôi
dưỡng và sống có đạo đức
4. Không đam mê
cờ bạc, không giao du với bạn ác ...(53)
Người niệm Phật
với niệm vãng sanh cầu thành Phật, nên phát lòng từ thể hiện qua việc làm
nghề nghiệp, do đây mà thuận hòa với chánh mạng.
f)
Niệm Phật với chánh tinh tấn
Với người siêng
năng cần cù học hỏi làm việc, đâu đâu thời nào họ cũng hoàn chỉnh, thành
công tốt đẹp. Cũng vậy người học Phật có đạt được đạo là do tính tấn tu
hành. Do tinh tấn là then chốt nên các pháp trước như Tứ Chánh Cần, Ngũ
Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi đã nhắc nhở. Chánh Tinh Tấn trong Bát Chánh
Đạo cũng cùng ý nghĩa như vậy. Nghĩa là phải gia công, siêng năng hành
động đúng với chánh pháp, lẽ thật có lợi ích đến mọi người mọi vật. Trong
gia đình, xã hội nếu biết thực hành Chánh Tinh Tấn thì kết quả tươi đẹp,
an bình, giàu mạnh sẽ thấm đượm trải tràn lên hoàn cảnh đó. Trong đạo giáo
giữ gìn mãi hạnh Chánh Tinh Tấn thì đạo pháp trường tồn quả tu chứng đắc.
Người con Phật
phải cần tinh tấn mãi trọn đời. Trong kinh Hoa Nghiêm có dạy "Bồ Tát
chuyên cần tinh tấn tối thắng, nên không bị những tham dục, giận tức, ngu
si, kiêu mạn, não hại, đố kỵ bỏn sẻn, hiềm hận, dua nịnh, không biết hổ
thẹn làm não loạn. Bồ Tát thường phải nghĩ như vầy, ta không muốn làm
chúng sinh não phiền, nên ta tinh tấn. Vì rõ biết chúng sinh phân biệt nên
tinh tấn.Vì biết tất cả chúng sanh chết đây sống kia nên tinh tấn. Vì biết
chư Phật thật pháp nên tinh tấn. Vì biết bình đẳng pháp mà tinh tấn...(54)"
Pháp Chánh Tinh
Tấn đã quan trọng cho đường tu vậy, thì người niệm Phật cần chuyên nhất
gia công hơn. Niệm niệm bất thối, niệm niệm quy nhất về tâm, dừng nghỉ tất
cả vọng tâm ô nhiễm, gội sạch phiền não, tâm niệm bây giờ chính là niệm
Phật chánh tinh tấn vậy.
g)
Niệm Phật với chánh niệm
Trong đời sống
hằng ngày con người đã phải đương đầu, đối diện biết bao vấn đề. Từ vấn đề
đơn giản đến phức tạp, từ việc vui đến việc buồn. Tất cả ít nhiều đã khuấy
động tâm hồn, khiến cho tâm trí con người dễ bị cuốn lôi sai xử. Người nào
với trí sáng suốt lọc lừa; nhận ra điều nào đáng ghi đáng bỏ thì hậu quả
ảnh hưởng của sự khuấy động sẽ giảm đi. Ghi nhớ điều tốt việc lành làm tâm
hồn tươi mát, sinh ra hành động hợp với lẽ đạo làm người. Ngược lại không
loại bỏ những tạp niệm xấu, con người dễ đánh mất cá tánh nhân từ đạo đức.
Chánh Niệm là điều
ghi nhớ chân chánh hợp với sự thật chân lý, đây cũng tương tự nghĩa niệm ở
các pháp trước.
Chánh Niệm lại có
hai phần: Chánh Ức Niệm và Chánh Quán Niệm.
- Chánh Ức Niệm
là ghi nhớ những gì sai suất, tội lỗi đã qua để gắng công sám hối chừa bỏ.
Ghi nhớ những gì ơn ích, ân nghĩa để
gắng công đền báo, như tứ trọng ân (ân cha mẹ, tổ quốc, chúng sanh, tam
bảo). Phần Chánh Ức Niệm này không khác pháp Tứ Chánh Cần là ngăn chặn
điều ác chưa sinh, dứt trừ điều ác đã sanh, làm phát triển điều lành chưa
sanh, tiếp tục phát triển những điều lành đã sanh.
- Chánh Quán
Niệm là quán sát cuộc đời theo đúng sự thật, chân lý để ghi nhớ răn
nhắc chính mình trên đường tu học, cũng như giúp mọi người thấy được lẽ
thật này. Chánh Quán Niệm có tính cách sâu xa rộng rãi cả đến nhân loại.
Thực hành niệm
Phật với Chánh Niệm là rốt ráo diệt trừ tâm niệm xấu, thanh lọc tư tưởng
sai quấy, để thay thế vun bồi vào tâm bằng ý niệm lành qua danh hiệu Phật.
h) Niệm Phật
với Chánh Định
Sau khi đã thông
hiểu và bước qua bảy con đường, tới đây là con đường cuối, rốt ráo để hoàn
thành mỹ mãn thánh thiện thân tâm. Chánh Định là con đường quan trọng nhất
của hành giả phải trải qua. Tuy thế chánh định có được là hoàn toàn nhờ
thông suốt, thực hành các con đường trước.
Nghĩa của Chánh
Định lại là nghĩa của các định ở các pháp đã đề cập. Là tập trung định lực
nhất tâm vào chánh pháp. Ngược với Chánh Định là đi sai đường, lạc lối vào
tà định, dẫn đến đọa lạc trong ba đường ác Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.
Thực hành pháp
niệm Phật đến thuần nhuyễn. Người niệm Phật sẽ có được Chánh Định không
khác gì pháp tu thiền vậy.
***
Qua
nội dung 37 phẩm trợ đạo được hiểu một cách sơ lược cho người niệm Phật.
Chúng ta thấy rằng niệm Phật sẽ không trở ngại gì khi phải tìm hiểu hay
dung hòa các pháp tu khác. Tuy nhiên cũng còn tùy vào khả năng căn cơ hiểu
biết của mỗi người theo mỗi cách tu niệm để lãnh hội. Và điều quan trọng
là hành giả phải thật có dụng công tha thiết trong niềm tin chánh tín và
chí nguyện chân thành thì dù có hiểu bằng cách nào hành giả sẽ được toại
nguyện như ý.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Chú thích:
(1) "Đức Phật và
Phật Pháp" Phạm Kim Khánh dịch, trang 256, Đại Nam xuất bản 1987.
(2) Kinh Hoa
Nghiêm, trích dẫn lại trong PPYN (Phật Pháp Yếu Nghĩa) của Hòa Thượng
Thích Đức Niệm, tr 52, PHVQT (Phật-Học-Viện Quốc Tế) xuất bản 1988.
(3),(4) "Phật Pháp
Con Đường Giải Thoát" của Jagdish Kasyapa, Tùng Chi Phóng tác, tr 57, 52,
PHVQT xuất bản 1984.
(5) Kinh Phạm
Võng, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, tr 14, PHVQT xuất bản 1985.
(6) Kinh Pháp Cú,
Phạm Kim Khánh dịch, trang 186, xuất bản tại Sài Gòn 1971.
(7) "Buddhism in
The Eyes of Intellectuals" (Phật Giáo Dưới Mắt Các Nhà Trí Thức) by Ven.
Dr. K. Sri Dhammananda, Thầy Thích Tâm Quang dịch, tr 55, copyright @
Thích Tâm Quang 1994.
(8) (9) (10) "Phật
Học Tinh Yếu" thiên thứ hai của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, trang 247,
189, 190 PHVQT xuất bản 1986.
(11) Kinh Na Tiên
Tỳ Kheo, sđd - PPYN trang 194.
(12) Các Tông Phái
Đạo Phật, của Đoàn Trung Còn, trang 92, 93, 94, sách ấn tống in tại Kim Ấn
Quán (Hoa Kỳ).
(13) Đường Về Cực
Lạc của H.T Thích Trí Tịnh, tr kết.
(14) Kinh Pháp Cú,
Phạm Kim Khánh dịch, tr 114.
(15) Kinh Thập Nhị
Phật Danh, sđd - PPYN trang 192.
(16) Đức Phật và
Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, tr 448.
(17) Kinh Quán Vô
Lượng Thọ, (18) Kinh Tiểu Địa Quán, sđd - PPYN, trang 191, 48.
(19) Phật Giáo
Dưới Mắt Các Nhà Trí Thức,Thầy Thích Tâm Quang dịch, tr 51.
(20) Kinh Vô Lượng
Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, sách ấn tống PL 2532, tr 66.
(21) Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, (22) Kinh Quán Phật Tam Muội, sđd - PPYN trang 160, 193.
(23) Kinh Vô Lượng
Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, tr 225.
(24) Kinh Hoa
Nghiêm - phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 40, H.T Thích Trí Tịnh dịch, PHVQT
xuất bản.
(25) "Pháp Môn
Giải Thoát", chùa Đức Viên (Hoa Kỳ) ấn hành 1993, tr 36.
(26) Kinh Vô Lượng
Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, tr 69.
(27) Kinh Mạ
Ý,(28) Luận Đại Trí Độ, sđd – PPYN trang 168, 36.
(29) (30) Kinh
Tương Ưng Bộ III, phẩm Gánh Nặng, H.T Thích Minh Châu dịch, tr 53, 52.
(31) Kinh Tâm Địa
Quán, sđd - PPYN tr 154
(32) Kinh Di Giáo,
H.T Thích Hoàn Quan dịch, trung tâm PG Hayward ấn hành 1994, tr 22.
(33) Kinh Di Giáo
sđd trang 37.
(34) Kinh Tâm Địa
Quán,(35) Kinh Quán Phật, (36) Kinh Phạm Võng, (37) Kinh Tiểu Địa Quán,
(38) Kinh Niết Bàn, (39) Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh, (40) Kinh Niết Bàn, sđd -
PPYN, trang 160, 192, 52, 48, 48, 82, 191.
(41) Kinh Di Giáo,
H.T sđd tr 40
(42) Kinh Trường A
Hàm, sđd - PPYN, tr 98
(43) Kinh Di Giáo,
sđd tr. 42.
(44) Kinh Ấm Trì
Nhập, T.T Thích Bảo Lạc dịch, tr 17.
(45) Kinh Di
Giáo,(46) Kinh Niết Bàn, sđd - PPYN, trang 80, 81
(47) Kinh Trung Bộ
I phẩm Chánh Tri Kiến, H.T Thích Minh Châu dịch, tr 112.
(48),(49) Luận Trí
Độ (50) Kinh Bảo Tích, (51) Kinh Niết Bàn, sđd - PPYN, trang 209, 210,192,
139.
(52) Kinh Pháp Cú
– sđd tr 126.
53) Tăng Chi Kinh
III, "Chánh Pháp và Hạnh Phúc" của H.T Thích Minh Châu ấn hành 1996, tr
213.
(54) Kinh Hcủa H.T
Thích Đức Niệm tr 78.
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử và
chúng sanh
Đều trọn
thành Phật đạo
---o0o---