Y theo kinh luận nhận xét thì pháp tu Tịnh độ như thả diều
theo gió, chèo thuyền xuôi theo dòng nước. Niệm Phật nhờ vào đại nguyện
tiếp độ của Phật A Di Đà và mười phương chư Phật hộ niệm được vãng sanh
thế giới Cực lạc; từ đó nương nhờ vào hoàn cảnh tốt, không bị đọa lạc,
tu tập cho đến chứng quả vị giác ngộ. Cho nên tu tập mà không xa rời
hiện thực cuộc đời này. Niệm Phật chính là chánh hạnh, tu tập các việc
lành vun bồi phước đức lợi mình lợi người đó trợ hạnh. Trợ hạnh và chánh
hạnh là hành trang sanh Tịnh độ. Ý nghĩa: “Không thể lấy chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên sanh về Cực lạc” trong kinh A Di Đà, đó là
điều kiện cần thiết hành giả tu tất cả việc lành trong đời, hồi hướng
vãng sanh Cực lạc. Chính ngay trong hoàn cảnh sống con người và nhân
loại trong thế giới vô thường này là đạo trường, là ruộng phước đức cho
người tu học phụng sự để thành tựu lý tưởng giải thoát.
Nếu như tại Pháp hội Linh sơn, Đức Phật Thích Ca đưa cành hoa lên[1],
cả đại chúng trời người đồng mỉm cười như ngài Ca Diếp, ngộ thật tướng
chân tâm, chứng trú cảnh giới Niết bàn thì có lẽ Phật cũng không lao
nhọc hơn 49 năm nói ra nhiều pháp môn tu ở thế gian này. Nếu như mọi
người chỉ nghe pháp ngữ của tổ sư Đạt Ma chứng ngộ như Huệ khả[2] thì đại thiền sư ngũ Tổ Hoằng Nhẫn sẽ không có chủ trương: “Niệm danh hiệu Phật, tịnh hóa tâm thức”[3]
trong thiền phái Đông sơn pháp môn. Từ thực tế đó chúng ta cần hiểu
rằng, pháp môn tu là phương tiện giúp mọi người giác ngộ chân lý. Đức
Phật như vị đại lương y tài tình, tùy bệnh mà cho thuốc pháp chữa trị
phiền não chúng sinh. Pháp môn niệm Phật là một trong những loại thuốc
Pháp nhiệm mầu đó, một phương tiện vô cùng trí tuệ giúp chúng sanh mau
chóng thoát khỏi luân hồi. Giáo lý ấy dạy rằng, mọi người gieo trồng
phước đức và trí tuệ trong đời sống này để làm hành trang vãng sanh và
giác ngộ. Cầu vãng sanh không phải chạy trốn thế gian, ngược lại có đời
sống tích cực trong vấn đề phổ cập đạo đức nhân sinh trong xã hội. Bởi
thế, nhận thức và vận dụng giáo lý Tịnh độ đúng đắn là điều chúng ta cần
quan tâm.
Trong những thập niên quá khứ, giai
đoạn Phật giáo chưa được phổ cập trong đời sống quần chúng thì lời kinh
Phật dạy hay âm thanh câu niệm Phật chỉ nằm gói gọn trong cửa Thiền
trầm lặng. Phần nhiều người dân nghe được bài kinh Phật và thấy được
hình ảnh chư Tăng vào những khi gia đình có sự cố đám tang hay là các
buổi lễ khác. Có một số tín đồ, dù có tinh thần kính trọng Tam bảo nhưng
không hiểu trọn vẹn giá trị lời Phật dạy là giúp cho con người gội rữa
tâm lý phiền não, tịnh hóa tâm thức qua việc tu niệm hằng ngày để thăng
hoa đời sống tâm linh chính mình, hướng đến cảnh giới an lạc giải thoát.
Trong giai đoạn Phật giáo phát
triển, thông tin Phật pháp được phổ cập, kinh điển phiên dịch và ấn hành
khắp nơi, giáo pháp Phật dạy mới bắt thuấm nhuần trong tư tưởng quần
chúng. Các bài thi kệ đại thừa Phật giáo, câu niệm Phật cũng được phổ
nhạc. Hình ảnh Phật giáo như thế, quần chúng cảm thấy gần gủi với Tam
bảo, dễ dàng đón nhận lời Phật dạy. Trên thực tế đời sống hiện đại qúa
bận rộn, nếu không có sự nhận thức giáo lý tường tận, tiếp cận thông tin
Phật pháp một cách máy móc, rập khuôn dễ rơi vào hình thức hóa trong
biểu hiện tu học! Do đó, điều quan trọng chúng ta cần nhận thức, Tịnh độ
là pháp môn Đại thừa. Tư tưởng Bồ tát hạnh và Bồ đề tâm là bản chất của
giáo lý ấy giúp cải thiện sinh mệnh con người, góp phần lợi ích lớn cho
vấn đề phát triển xã hội ngày càng văn minh và thái bình.
Kinh điển liên quan giáo lý Tịnh độ được phổ biến xưa nay, Tam kinh nhất luận[4], Tịnh độ ngũ kinh[5] và các luận sớ của các tổ sư. Theo Trí Giả đại sư phân định có Ngũ thời thuyết giáo[6]
thì tư tưởng tịnh độ xuất hiện rất sớm trong kinh Hoa nghiêm. Kinh này
thuyết minh rất rõ về thế giới quan Phật giáo, có vô số thế giới, các
thế giới tương dung tương nhiếp lẫn nhau, pháp giới tính viên dung vô
ngại. Trong đó, hạnh nguyện Bồ tát vô cùng rộng lớn, tiêu biểu nhất là
mười hạnh nguyện Phổ Hiền, chung cuộc tán thán pháp môn niệm Phật và
nguyện vãng sanh về thế giới Tây phương cực lạc. Thời giáo sau cùng,
Phật thuyết kinh Pháp Hoa, tư tưởng Bồ tát xuất hiện với lý tưởng tích
cực, cứu độ chúng sinh và hộ trì chánh pháp, thời giáo này như là xác
chứng Tây phương cực lạc là cảnh giới chân thật mà Phật đã thuyết trong
thời Hoa nghiêm. Kinh Pháp Hoa mục đích là khai quyền hiễn thật[7],
tam thừa giáo quy về nhất Phật thừa. Tu học theo tư tưởng của kinh Pháp
Hoa là hành Bồ tát đạo, để hướng đến quả vị Phật. Ngoài ra, các luận
sư, chư vị tổ sư giảng nghĩa kinh luận đều đứng trên lập trường tư tưởng
Đại thừa để truyền bá giáo lý Tịnh độ. Tịnh độ chủ trương Niệm Phật để
thành phật; Niệm Phật là nhân, thành Phật là qủa.
Thiết nghĩ, từ nhận thức đúng mới
thực hành đúng, có phương pháp cụ thể mới áp dụng rộng rãi trong quần
chúng. Phật dạy: “Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu
mười nghiệp lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai
nghi. 3. Phát lòng bồ đề tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa,
khuyến tấn người tu hành. Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.” [8]
Nếu người tu niệm Phật, tư duy và thực hành lời dạy đó, thì chắc chắn
không bị sai lầm. Khuyến phát người tu niệm đúng theo tông chỉ Tịnh độ
là phải phù hợp với giáo lý Đại thừa.
Luận về nhân sanh và thế giới không
thể xa rời nguyên lý: Y báo và Chánh báo. Chánh báo và Y báo là gì?
Theo Tam tạng pháp số định nghĩa: “Chánh báo cũng gọi là kết quả, tức là
thân ngũ uẩn này, chúng sanh đều tạo nghiệp thiện ác mà cảm quả báo
thân này, thọ nhận quả báo ấy nên gọi là chánh báo”; “Y báo gọi là y
quả, tức là thế giới và hoàn cảnh, tất cả chúng sanh đều từ quả báo có
thân thể, y vào hoàn cảnh mà an trụ, gọi là y báo.”[9]
Suy luận ra con người tái sinh vào các hoàn cảnh sống trong Tam giới và
Lục đạo đều do tâm tạo nghiệp thiện ác sai biệt. Tâm Phật thanh tịnh
sáng suốt, tự tại giải thoát nên an trú trong các cỏi tịnh độ. Từ nguyên
lý này mà nhận thức rằng, do Phật A Di Đà phát đại nguyện thanh tịnh mà
thiết lập thế giới Tây Phương Cực lạc là một hiện thực.
Chuyên chú niệm Phật thì tâm tịnh,
tương ưng với tâm Phật, nên được sanh vào cảnh Tịnh độ. Tất cả việc tốt
thể hiện từ cá nhân, gia đình và xã hội đều hồi hướng vãng sanh Tây
Phương. Giáo lý Tịnh độ giúp chúng ta kiến tạo đời sống đạo đức trong
mọi hoàn cảnh. Cho nên muốn cho đời bớt khổ, muốn cho xã hội nhân loại
thái bình, thịnh vượng thì thì nên phát huy giá trị đạo đức nhân sinh.
Mọi người có tâm niệm thanh tịnh thì cuộc đời tươi sáng và hoàn cảnh xã
hội cũng thay đổi, mọi thành quả đạo đức tại thế gian là nhân lành cho
kết quả vãng sanh cỏi Phật. Phật pháp tại thế gian, không xa rời thế
gian mà cầu giác ngộ là ý nghĩa đó.
Nếu như người tu Thiền quán, thì
phải dụng công tu chánh niệm thông qua việc theo dỏi hơi thở, theo dỏi
đề mục thiền quán để đạt tuệ giác ngộ; Người tu theo khán thoại đầu thì
phải chuyên tâm vào một công án thiền để phát khởi nghi tình, dẹp bỏ
vọng thức chứng đắc thật tướng; còn tu Tịnh độ thì chuyên tâm niệm Phật
đạt nhất tâm bất loạn để được vãng sanh. Cổ đức có dạy: “Ái bất trọng
bất sanh Ta bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh độ”[10],
nghĩa là tâm không tham ái thì không sanh ra trên cỏi đời này, niệm
không chuyên nhất thì không được sanh vào thế giới Tịnh độ. Cho nên Tịnh
độ tông khuyên mọi người xả li tham sân si, nhất tâm niệm Phật giải
thoát luân hồi sanh tử.
Y theo kinh luận nhận xét thì pháp
tu Tịnh độ như thả diều theo gió, chèo thuyền xuôi theo dòng nước. Niệm
Phật nhờ vào đại nguyện tiếp độ của Phật A Di Đà và mười phương chư Phật
hộ niệm được vãng sanh thế giới Cực lạc; từ đó nương nhờ vào hoàn cảnh
tốt, không bị đọa lạc, tu tập cho đến chứng quả vị giác ngộ. Cho nên tu
tập mà không xa rời hiện thực cuộc đời này. Niệm Phật chính là chánh
hạnh, tu tập các việc lành vun bồi phước đức lợi mình lợi người đó trợ
hạnh. Trợ hạnh và chánh hạnh là hành trang sanh Tịnh độ. Ý nghĩa: “Không
thể lấy chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên sanh về Cực lạc” trong
kinh A Di Đà, đó là điều kiện cần thiết hành giả tu tất cả việc lành
trong đời, hồi hướng vãng sanh Cực lạc. Chính ngay trong hoàn cảnh sống
con người và nhân loại trong thế giới vô thường này là đạo trường, là
ruộng phước đức cho người tu học phụng sự để thành tựu lý tưởng giải
thoát.
Tịnh độ là pháp tu đặc biệt, một
phương tiện chuyển nghiệp đặc biệt, một đường tắt đặc biệt, nếu không am
tường sự vận hành tâm, cảnh và nguyện lực của Phật thì khó tin hiểu. Vì
rằng, Tịnh độ có phương cách phục nghiệp chứ không đoạn nghiệp như các
pháp tu khác. Phục nghiệp là chỉ nhất tâm niệm Phật, chủng tử phiền não
không có duyên sinh khởi. Thông qua tu tập Giới-Định-Tuệ và nhất tâm tu
niệm Phật nên phiền não không có duyên phát khởi quả báo khổ. Tuy chưa
đoạn tận phiền não mà có phần vãng sanh là do thành tựu Tín, Nguyện và
Hạnh, do nguyện lực Phật A Di Đà từ bi tiếp độ.
Như nước trăm sông chảy về biển chỉ
thuần một vị mặn, bản chất Phật pháp qua phương tiện tu tập, phổ cập
với mọi căn cơ trình độ, chỉ một mục đích hướng con người đạt đến giải
thoát sanh tử khổ đau. Tu học bất cứ pháp môn nào cũng chuyên tâm thọ
trì mới thành tựu, như một đôi chân không thể bước hai thuyền mà qua
sông. Nếu như chúng ta đến với đạo Phật như cưỡi ngựa xem hoa, thì khó
có được sự lợi lạc thiết thực. Tại đây xin nêu ra lời khai thị của Tỉnh
Am đại sư: “Bất dụng tam kiếp tu phước huệ, đản tương lục tự xuất càn
khôn”[11]. Có
nghĩa là không trải qua ba đại kiếp tu phước huệ, chỉ nhất tâm niệm Nam
Mô A Di Đà Phật thoát ba cỏi luân hồi. Mọi người nên suy xét năng lực
của bản thân, để chọn pháp môn tu thích hợp, như thế mới là người có
chánh kiến nương tựa giáo pháp của Phật./.
[1] Niêm Hoa Vi Tiếu, công án đầu tiên của Thiền tông, Phật học đại từ điển.
[2] Huệ khả an tâm, tổ thứ hai thiền tông, ngộ đạo từ pháp ngữ tổ sư Đạt ma, trích từ thiền tông luận đàm.
[3] Niệm Phật danh, linh tịnh tâm, Hoàng Mai Đông Sơn pháp môn,Trích từ Trung Hoa bách khoa toàn thư.
[4] Tam kinh: Kinh Di Đà, kinh Vô Lượng thọ và kinh Quán Vô Lượng thọ; Nhất luận là Vãng sanh Tịnh độ luận.
[5] Ngũ Kinh: Tam kinh và thêm hai phẩm kinh khác trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Thủ Lăng Nghiêm.
[6] Thời Hoa nghiêm, A Hàm, Phương đẳng, Bát nhã và thời Pháp hoa - Niết bàn.
[7] Quyền là pháp phương tiện, Thật là chân lý tuyệt đối.
[8] Kinh quán vô lượng thọ, Đời Lưu Tống, Ngài Cương-Lương Gia-Xá dịch Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
|
[9] Trích từ Tam tạng pháp số, bản Hán.
[10] Trích từ Tịnh độ Pháp ngữ, bản Hán.
[11] Trích từ Tỉnh Am đại sư khuyên tu Tịnh đô thi, bản Hán