Định
mệnh có hay không là do ta. Khi ta biết tập những phương pháp mở rộng
nhận thức tâm linh thì cái khả năng ta thay đổi cuộc đời rất cao. Nếu
ngược lại ta thụ động đổ thừa cho số mạng hay ngồi đó chờ một phép lạ
xảy ra thì lúc đó định mệnh có thật vì ta không tận dụng khả năng thay
đổi cuộc sống của ta.
Định mệnh là gì?
Một số người tin rằng những diễn biến xảy ra trong cuộc đời đã được an bài sẵn. Khoa chiêm tinh (astrology)
tin rằng những diễn biến trên quả địa cầu và tánh tình con người đều
bị ảnh hưởng bởi những vị trí ngôi sao trên trời. Nếu ta sanh vào ngày
tháng nào đó thì sẽ bị dấu ấn của những vì sao ảnh hưởng lên tánh tình
và những diễn biến trong cuộc đời. Những người đó tin rằng ngay khi sanh
ra là định mệnh đã an bài rồi, không ai chạy khỏi hết. Thí dụ người
tuổi Sửu thì trong cuộc sống sẽ trải qua những năm thuận và năm kị
tuổi. Năm thuận và kị như những cái đèn xanh đèn đỏ của đời người. Năm
thuận thì gặp đèn xanh nhiều, làm gì cũng êm xuôi và năm kị thì trường
hợp ngược lại.
Người đạo Ki tô giáo tin rằng những gì xảy ra cho họ là do ý muốn của
Đức Chúa Trời. Chúa đặt đâu ta ngồi đó. Có người Chúa đặt vào hoàn
cảnh giàu sang, còn người khác bị lâm vào hoàn cảnh nghèo đói. Ta không
cãi ý Chúa được. Ta cần cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi
hoàn cảnh cho ta. Có thể những hoàn cảnh khó khăn là những thử thách
nên ta không nên than trời trách phận. Một số con chiên còn mang mặc
cảm tội lỗi là mình đã làm gì Chúa phật lòng nên Ngài mới đặt mình vào
hoàn cảnh khổ sở.
Người Phật tử thì tin rằng định mệnh là nghiệp. Mình đang ở hoàn cảnh
xấu là do mình tạo nghiệp xấu từ kiếp trước. Mình nên “trả nghiệp”
bằng cách chịu đựng một thời gian thì nghiệp sẽ hết. Khi cái nghiệp xảy
ra thì mình không thay đổi được. Nhiều người cũng không muốn thay đổi
vì e rằng làm như thế nghiệp sẽ nặng hơn. Giống như thiếu nợ thì phải
trả cho chủ nợ, cứ khất nợ hoài thì nó chồng chất, mình sẽ trả không
nổi. Có nghĩa là mình muốn thoát hoàn cảnh này thì sợ gặp phải hoàn
cảnh xấu hơn nữa, như tục ngữ có câu: chạy ông mồ mắc ông mả.
Những người tin hoàn toàn vào định mệnh thì sẽ rất thụ động. Nói đúng
hơn họ sợ làm cái gì đó khác hơn để thay đổi hoàn cảnh, nên phải đứng
yên cắn răng chịu đựng. Đó là những người rất lo âu trước cái vô định
của cuộc sống nên thích tin vào một đường lối đã vạch định sẵn.
Quyền lựa chọn
Khi phân tích kỹ ta thấy rằng khoa chiêm tinh không có đưa ra một
định mệnh không thể thay đổi. Con người có quyền chọn lựa ngày tháng
tốt để bắt đầu công việc làm ăn quan trọng, chọn lựa chồng hay vợ hạp
tuổi để tránh những mâu thuẫn về tánh tình. Ngoài ra dân gian có câu:
cái đức thắng cái số. Nếu ta ăn ở hiền lành thì nếu gặp “năm tuổi” thì
sự xui xẻo sẽ ít hơn. Ngày nay khoa học hiểu rằng mỗi người chúng ta
đều có một nhịp điệu sinh hóa (bio rhythm) thay đổi theo sức hút các
ngôi sao. Ở phụ nữ, chu kỳ kinh nguyệt có nhịp điệu sinh hóa thấy rõ.
Khi ta bắt đầu công việc quan trọng vào thời điểm nhịp sinh hóa cao thì
dễ thành công hơn. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhịp sinh hóa không đáng kể
so với ảnh hưởng của ý định (intention). Ngay khi ta ở giai đoạn nhịp
sinh hóa cao mà có ý định xấu (tham lam, hờn giận) thì ý định sẽ làm
biến đổi nhịp sinh hóa theo chiều xấu.
Đạo Ki tô cũng thế, đề cao sự chọn lựa và ý định tốt. Chúa Jesus
không lên án người đàn bà ngoại tình bị dân làng muốn chọi đá cho chết,
như người dân làng thường tin là định mệnh của những người đàn bà
ngoại tình. Ngược lại Chúa khuyên dân làng hãy dừng lại và có những lời
khuyên đề cao sự tha thứ. Chúa khuyên chúng ta nên có ý định tốt và
chọn lựa sự tha thứ để thoát khỏi định mệnh an bài. Khi hiểu được ý
nghĩa câu chuyện này thì ta thấy rõ rằng ta có quyền chọn lựa 2 con
đường: con đường buộc tội và con đường tha thứ. Con đường buộc tội là
con đường của định mệnh: ta buộc tội và bị người khác buộc tội lại. Con
đường tha thứ là con đường của giải thoát.
Nghiệp (quan niệm Phật giáo) cũng là một sự chọn lựa. Ta có quyền
chọn lựa tạo dựng cơ sở của những nghiệp tốt, như cố gắng học hành để
giúp ích xã hội. Ta có quyền chọn lựa nghiệp xấu như hút sách và rượu
chè, như thế ta đạp phá những tiềm năng tốt. Thí dụ như uống rượu đến
xơ gan làm sức khỏe suy tổn. Thoạt đầu ta có sự tự do chọn lựa nhưng
nếu ta chọn con đường rượu chè, xì ke ma túy thì dần dần khả năng chọn
lựa của ta bị mất dần. Khi bị nghiện rồi thì ta hoàn toàn mất sự tự do
chọn lựa và trở thành nô lệ cho những thói quen xấu này. Những căn bệnh
hiểm nghèo kéo đến làm khả năng thay đổi cuộc sống càng khó hơn gắp
ngàn lần.
Thế nào là nghiệp?
Nghiệp (karma) không có gì huyền bí hết, nghiệp là tác động của những
động lực. Động lực đó có thể ở dạng thân, khẩu hay ý. Bất kỳ lực
(force) nào cũng gây ra phản lực (counter force). Cái mục đích của lực
và phản lực là để trở lại điểm yên tịnh ban đầu (initial stillness).
Thí dụ như con lật đật, ta đẩy nó qua bên phải thì nó bật trở về bên
trái. Cuối cùng là nó đứng yên một chỗ. Sự đứng yên một chỗ có thể coi
là niết bàn hay thiên đàng vì nó tượng trưng cho trạng thái bình thản,
không căng thẳng đau khổ.
Nói về cường độ của phản lực thì trên thế giới vật chất ta có: ý nghĩ
yếu hơn lời nói, và lời nói yếu hơn hành động. Thí dụ là phản ứng của
ta trước lời phê bình mà ta không thích: ta chửi thầm người ta ghét (ý)
hậu quả ít hơn là ta la lối chửi người đó trong buổi tiệc (khẩu). Hậu
quả của lời chửi bới ít hơn là hậu quả ta nhảy lại đánh người đó bầm
mình (thân).
Xã hội chỉ có hình phạt khi ta làm chấn thương người khác, còn tôn
giáo thì muốn khuyên ta nên trị tận gốc nghiệp dữ bằng cách dừng suy
nghĩ giận dữ lại. Khi ý khởi dậy thì nó tạo một tiềm năng hành động
(potential of action) rồi. Thí dụ nói theo phàm tục, khi cái ý ghét đã
khởi dậy rồi thì ta muốn chửi cho đã miệng. Chửi thầm thì ngủ không
được. Nhưng khi chửi bằng miệng mà bị đối phương chửi lại thì ta càng
tức hơn. Nếu ta dằn không được đi đánh lộn về bị thương tích hay bị bỏ
tù, về nhà lại càng tức hơn nữa. Như thế mà ta cứ tạo nghiệp thân-khẩu-ý
thành một chuỗi lực và phản lực (chain of action and reaction).
Sở dĩ chiến tranh trên thế giới xảy ra liên tục là vì con người không
có đời sống tâm linh, dùng sự giết chóc để mong cầu trở về chỗ yên
tịnh ban đầu. Người lính cảm tử quân Hồi giáo có cái ảo tưởng rằng khi
giết chết kẻ thù ngoại đạo họ sẽ được sống trên thiên đàng, có nghĩa là
trở về chỗ yên tịnh ban đầu. Đó là sự lầm lẫn vô cùng tai hại vì khi
họ tạo một động lực căm thù thì sẽ để lại cái phản lực căm thù, như thế
cứ lưu truyền mãi không ngừng trên thế gian từ thế hệ này qua thế hệ
kia.
Tuy nhiên nghiệp lực, khác như dân gian nghĩ, là khi kiếp trước ta lỡ
ăn trộm người nào đó 10 đồng thì kiếp này ta phải trả lại 10 đồng
chẵn. Trên phương diện tâm linh, cái điểm yên tịnh ban đầu có được
không phải khi ta trả lại 10 đồng mà khi ta nhận thức ta nên vui lòng
bỏ qua khi bị người khác giựt tiền rồi thực hiện được điều đó. Khi đọc
những thí dụ của nhà soi kiếp E. Cayce thì ta thấy rằng chỉ có sự vui
lòng bỏ qua thì con người mới “trả” được cái nghiệp.
Nói một cách khác, sở dĩ ta mang cái nghiệp (bị phản lực/quả) vì ta
không nhận thức được những đau khổ mà ta đã tạo ra cho người khác (lực
đã tạo/nhân), nên cái nghiệp nó xảy ra khiến ta bị đau khổ để ta thông
cảm nỗi khổ của người kia. Lúc có sự thông cảm thì lực và phản lực sẽ
trung hòa với nhau. Nhưng nếu trong đau khổ, ta lại thù người đó thì
sanh thêm cái nghiệp nữa, và như thế sẽ tạo ra cái vòng lẩn quẩn mà
Phật gọi là bánh xe luân hồi.
Tha thứ là giải thoát khỏi định mệnh
Hiểu được lực nhân quả tương tác ở nội tâm thì ta mới hiểu được tại
sao các vị lãnh tụ tôn giáo kêu gọi sự tha thứ. Nếu không có tha thứ
thì không ai có thể trở về cái vị trí an lạc ban đầu được. Ý nghĩa cứu
thế của Chúa Jesus là Ngài tự nguyện tha thứ những người hại Ngài, như
một gương sáng giúp nhân loại vượt qua được sự vay trả đời đời của hận
thù. Thù qua ghét lại có thể coi như là tội nguyên thủy của loài người.
Tha thứ mới là phép mầu nhiệm thật sự. Phép mầu này ít ai nhận thấy
được vì nó trong sáng trong sự khiêm nhượng tột bực chớ không phải là
sự màu mè hào nhoáng của Superman hay điệp viên 007 làm được những điều
phi thường.
Hiểu như thế Chúa cứu thế không đến với ta từ hành tinh khác mà Chúa
sẽ hiện diện trong chính ta nếu ta thực hiện được sự tha thứ trong đời
ta. Khi sống trong khiêm nhượng và tha thứ thì ta như con nhộng xé được
cái vỏ của ngạo mạn để trở thành con bướm muôn màu. Ta không đợi đến
khi chết mới được Chúa rước. Khi ra khỏi được cái vỏ của ngạo mạn thì
ngay trong giây phút đó ta thấy Chúa hiện diện trong lòng ta.
Phật thì khuyên ta nên hỷ xả, có nghĩa là bỏ qua trong sự vui vẻ. Ở
dưới biển, có một loài cua thích sống trong vỏ sò (hermit crab), khi
cua lớn lên thì nó phải vui vẻ bỏ cái vỏ sò nhỏ để tìm cái lớn hơn chọn
làm nhà. Hỷ xả cũng như thế, là từ bỏ sự nhỏ mọn để nhìn thấy sự rộng
lượng. Hỷ xả là một phương pháp trị cái bịnh của ngã (cái tôi). Nếu ta
cứ bám vào tiền tài, sắc đẹp, danh lợi thì cái lòng tham và sân của ta
càng ngày càng lớn. Khi cảm thấy ta được càng nhiều (sở đắc) thì ngạo
mạn càng tăng theo. Sự đời vô thường làm cho ta không bao giờ giữ được
mãi mãi những gì mình muốn vì thế lòng tham ngày càng tăng trưởng. Khi
có ai tước đoạt những gì ta đang được thì ta sanh lòng bực tức sân hận.
Tham và sân là nguyên nhân chính của lo âu. Tham có thể hiểu theo
nghĩa rộng là muốn đem về cho ta vì sợ để lâu thì ta sẽ hết được phần
lợi đó. Sân là sự bực bội khi gặp hoàn cảnh nghịch ý ta. Bề mặt bạo
động của sân là chửi bới đánh lộn, còn mặt thụ động là “tự ái”, hờn dỗi
để bụng. Bụt dạy ta nên thấy cái vô thường của cuộc đời để lúc được
thì không tham và lúc mất thì không sân. Ta phải tập hạnh hỷ xả thì mới
phát triển từ bi được. Ta không thể nào thương được người mà ta không
tha thứ!
Tại sao tôn giáo nào cũng khuyên con người bố thí? Ta có thể hiểu
tham, sân, si trên lý thuyết nhưng chỉ có hành động thực hiện sự ban
cho mới giúp ta nhận thức rõ những hạn chế của ta. Thí dụ như khi cho
mà ta thấy còn quyến luyến vật ta muốn cho thì lúc đó mới chợt nhận ra
mình còn lòng ham muốn. Khi bớt lòng ham muốn đem về cho mình rồi thì
mình mới thông cảm kẻ khác được. Đây là cách bố thí nhận thức của người
có căn cơ cao. Người căn cơ thấp thì áp dụng bố thí trao đổi chớ không
phải bố thí nhận thức. Bố thí trao đổi là bố thí để được hưởng phước
lộc. Ta cho để lấy lòng đấng nào đó mà ta thờ phụng. Ta bố thí để được
Chúa hay Phật ban phước lành hay phù hộ. Chỉ có bố thí nhận thức mới
giúp ta phát triển tâm linh được.
Thực tập tâm tĩnh lặng
Làm người ai cũng muốn thay đổi cuộc sống cho nó tốt đẹp hơn. Khi
thay đổi không được hay không dám thay đổi thì ta đổ thừa cho số phận
hay định mệnh. Hoàn cảnh rất khó thay đổi khi ta duy trì tập quán, thói
quen cũ. Nếu ta bị tiểu đường mà không chịu bỏ cái sở thích ăn đồ béo
ngọt (tham) thì bịnh làm sao mà hết được. Một số người thì mong có phép
lạ để được cứu khỏi hoàn cảnh khổ. Có nghĩa là họ muốn ăn cho ngon
miệng sau đó thì cầu xin phép lạ không bị tiểu đường. Nếu phép lạ không
đến thì họ sẽ có hai phản ứng. Phản ứng thứ nhất là mất hết niềm tin ở
một đấng nào đó mà họ tin tưởng. Thí dụ người công giáo mất niềm tin ở
Chúa cứu thế, còn phật tử thì mất niềm tin nơi Phật Bà Quan Âm hay Phật
A Di Đà. Phản ứng thứ hai là mang mặc cảm tự ti vì một số người nghĩ
rằng họ bị tội nhiều quá hay nghiệp nặng quá nên không được cứu rỗi.
Nói về sân hận, khi ta không thay đổi ý mà ráng kềm chế miệng lưỡi
hay thân thể thì mặc dù ta không tạo nghiệp dữ nhưng cảm thấy rất khổ
sở, gò bó khó chịu. Khi ta nuôi dưỡng những suy nghĩ bực bội sân hận
chắc không có phép lạ nào giúp cho ta an tâm để ngủ ngon được. Nói theo
nhân quả, ta tạo một động lực nhân thì cái phản lực quả sẽ núp chờ đâu
đó. Rồi sự căng thẳng nội tâm ngày càng tăng dần đến một lúc ta hết đè
nén nổi và gây ra nghiệp qua lời nói hay hành động. Đó là lúc cái phản
lực xảy ra ngoài thế giới vật chất để làm dịu bớt cái lực tư tưởng của
sân hận đang bị đè nén. Tuy nhiên đa số không trở về được cái trạng
thái yên tịnh an lạc ban đầu vì lý do dễ hiểu là khi ta chửi mắng người
ta ghét thì có bao giờ họ chịu để cho ta yên thân đâu. Sớm muộn gì họ
sẽ tìm cách trả đũa. Đó là cái vòng lẩn quẩn của nghiệp vay trả.
Tâm lý học cho ta thấy rõ sự lý luận và tranh luận không làm giảm
được tham và sân. Khi lý luận ta hiểu được mọi chuyện nhưng những hiểu
biết đó không có khả năng thăng hoa (sublimation) được tham và sân
thành những tình cảm tốt đẹp hơn. Đôi khi tranh luận đúng sai nhiều còn
tạo thêm sân nữa. Những nghiên cứu chụp hình não bộ cho ta thấy rằng
khi lý luận ta chỉ xài vỏ não bộ (cortex) và không liên kết được với
những miền sâu hơn trong não bộ, nơi tình cảm xuất phát. Hiện tượng này
phân tâm học gọi là hợp lý hóa (rationalization). Khi ta dùng lăng
kính hợp lý hóa trong cuộc sống thì dễ sanh ra thành kiến chia rẽ con
người. Thí dụ ta nghĩ màu đen là màu của tội lỗi vì thế người da đen là
kẻ xấu.
Chỉ có khi ta tập tâm tĩnh lặng thì ta mới có khả năng hiểu qua sự
cân bằng của trí tuệ và tình cảm. Cái hiểu này toàn diện hơn là cái
hiểu qua suy luận. Suy luận thường hay trừu tượng và chỉ giúp ta hiểu
được một khía cạnh nhỏ của cuộc đời. Những bậc thánh nhân đều phải trải
qua giai đoạn thực tập tâm tĩnh lặng rồi mới thấy được ánh sáng của
chân lý. Chúa Jesus đã vào sa mạc để cầu nguyện trong tĩnh lặng. Chỉ
khi Ngài cảm nhận được ánh sáng của Thượng Đế thì Ngài mới đủ can đảm
chịu cái chết đau đớn trên thập tự. Đức Phật Thích Ca đã ngồi với tâm
tĩnh lặng dưới cây bồ đề 49 ngày. Nhờ thế Ngài mới hiểu được ý đồ lừa
bịp của ma vương Maya, chiến thắng ma vương và giác ngộ được chân lý.
Có lẽ lúc Phật còn tại thế, người dân thời đó có nhiều mê tín trong
việc tôn thờ nên Bụt gọi Ánh sáng chân lý là Phật tánh chớ không gọi là
Thượng đế. Hiểu theo Phật giáo, Thượng đế không phải là Cha mà là Chân
lý tối cao.
Hiểu bằng ý thức khi tâm tĩnh lặng rất khác với cái hiểu của suy
nghĩ. Những nghiên cứu đo điện từ não bộ (EEG) cho thấy rằng khi tâm
tĩnh lặng thì những làn sóng não thay đổi rõ rệt, từ dạng sóng b (beta waves: 15- 45 Hz) trở thành dạng sóng a (alpha waves: 8-12 Hz) và q (theta waves: 3-7 Hz). Sóng b thường thấy ở những người suy nghĩ lăng xăng, còn sóng a và q được thấy khi ta thư giãn. Sóng q
còn được gắn liền với khả năng sáng tạo. Hình fMRI scan cho thấy khi
tâm tĩnh lặng, máu dồn về những vùng của não bộ tạo cảm giác thoải mái
hạnh phúc và có sự liên kết hài hòa giữa vỏ não và những vùng sâu hơn
của não. Nói một cách khác, tâm tĩnh lặng đồng bộ hóa (synchronize)
nhiều vùng trong não bộ giúp ta liên kết được nhiều mạch thần kinh và
nhờ đó mà mở rộng tầm nhận thức ra.
Tóm lại
Định mệnh có hay không là do ta. Khi ta biết tập những phương pháp mở
rộng nhận thức tâm linh thì cái khả năng ta thay đổi cuộc đời rất cao.
Nếu ngược lại ta thụ động đổ thừa cho số mạng hay ngồi đó chờ một phép
lạ xảy ra thì lúc đó định mệnh có thật vì ta không tận dụng khả năng
thay đổi cuộc sống của ta. Nói một cách khác, nếu ta tin có ma thì sẽ
gặp ma, ta tin có Phật hay Chúa thì sẽ gặp những đấng mà ta tin.
Nếu có người ở trình độ thấp thì tin vào định mệnh cũng có cái lợi
của nó là lòng tin đó giúp họ chấp nhận những biến cố xấu và trải qua
những đau khổ cuộc đời dễ dàng hơn. Họ không than trời trách phận hay
sanh lòng ganh ghét hoặc hận thù vì “đó là số mệnh của mình”.
Tuy nhiên nếu ta có trình độ cao thì nên tập những phương pháp giúp
tâm tĩnh lặng vì đó là phương pháp nhanh và gọn để “chuyển nghiệp” dẫn
ta đến hạnh phúc ngay trong đời này. Phương pháp này cũng giúp ta hiểu
các tôn giáo một cách sáng tạo chớ không kẹt vào chữ nghĩa văn tự nữa.
Bất kỳ độc giả ở tôn giáo nào, khi mỗi người trong chúng ta phát
triển được ý thức tâm linh qua tâm tĩnh lặng thì ý thức này sẽ cộng
hưởng với nhau. Rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành ý thức tâm linh
cộng đồng (collective spiritual consciousness) làm xoay chuyển xã hội
vật chất. Chúng tôi hy vọng sẽ có một ngày ý thức tâm linh cộng đồng sẽ
phát triển đến độ mà con người sẽ nhận thức rằng những tôn giáo đều
hướng về một con đường chung: đó là con đường tâm linh (spiritual way).
Lúc đó con người sẽ sống hạnh phúc an bình ở một kỷ nguyên mới.
Bác sĩ Thái Minh Trung, chuyên khoa Tâm Thần