Ngày xưa trụ trì thì được quần chúng ở một làng xã hay tăng
chúng ở trong bổn tự suy cử lên làm trụ trì, nhưng ngày nay giáo hội ta
quan niệm trụ trì phải có quyết định bổ nhiệm mới chính thức là người
đại diện tăng ni hướng dẫn phật tử tu học đúng chánh pháp. Trong bài
viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu một vài điểm về BÍ QUYẾT VÀ NGHỆ
THUẬT TRỤ TRÌ THEO PHẬT GIÁO
BÍ QUYẾT TRỤ TRÌ
Trong phần này, chúng tôi giới thiệu một số bí quyết khi làm trụ trì.
Bí quyết ở đây chúng tôi ám chỉ là tăng sai, cũng có nghĩa phước đức
của chúng ta. Nếu không có hai yếu tố này chúng ta khó trở thành trụ trì
đúng nghĩa.
Tăng sai
Tăng có nghĩa là đoàn thể trong chùa hoặc trong giáo hội, nhận thấy
một vị tăng nào đó đủ tư cách, đủ đạo đức suy cử vị đó làm trụ trì, làm
sư cả để hướng dẫn tăng ni tu học. Thông thường một vị trụ trì tốt phải
là vị cao hạ, có văn hoá, có đạo đức, giao tế tốt, đồng thời vị đó phải
do Tăng bầu. Nếu không thì vị trụ trì sẽ khó thành công, vì không đoàn
kết, không nhất quán, làm trụ trì mà tăng không tôn kính, dẫn đến chia
rẽ, đồng thời sẽ dẫn đến nhiều hệ quả bất lợi cho việc phát huy ngôi
chùa. Trong kinh tạng pali tăng không đoàn kết sẽ dẫn đến bất hạnh cho
chư thiên và nhân loại. Tăng ở đây ám chỉ là giáo hội, cũng có nghĩa là
ám chỉ tăng chúng trong một ngôi chùa.
Phước đức
Vị trụ trì đồng nghĩa với phước đức. Phước đức nhiều thì trụ trì chùa
to Phật lớn, phước đức ít thì trụ trì chùa nhỏ Phật bé, đạo khó phát
triển. Không có phước đức thì khó sanh làm người huống hồ chi làm trụ
trì. Trụ trì xứng đáng để tăng chúng và phật tử lễ bái cúng dường hàng
ngày. Như vậy trụ trì là có nghĩa phước đức đời truớc đã tạo, đời này vị
trụ trì cần phải tạo thêm: hạnh bố thí, hạnh trì giới, hạnh tham thiền,
hạnh cung kính, hạnh phục vụ, hạnh tuỳ hỷ, hạnh hồi hướng, hạnh thuyết
pháp, hạnh nghe pháp, hạnh cải tạo tri kiến. 10 nhân tạo phước đức trên
đức Phật dạy trong kinh tạng pali, vị trụ trì thường xuyên phải tu tập
trong đời sống hằng ngày, vì đó là phước đức cho mình và cho tăng chúng
trong chùa.
Vai trò trụ trì đúng nghĩa
Trong luật tạng Pali, trụ trì một ngôi chùa phải có 5 vị: Tổng trụ
trì, trụ trì y phục, trụ trì vật thực, trụ trì chỗ ở, trụ trì thuốc men.
Y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men là Tứ vật dụng của chư tăng sử
dụng trong đời sống tu niệm của tu sĩ Phật giáo. Những vị phụ trách mỗi
phần như vậy làm giảm bớt sự khó nhọc của vị tổng trụ trì, đồng thời thể
hiện tinh thần dân chủ, hài hoà, khách quan đối với đại chúng. Tổ chức
đó có ngay từ thời đức Phật còn sinh tiền. Nhưng ngày nay chúng ta cảm
thấy lời dạy và tổ chức đó vẫn phù hợp với thời đại điện tử và khoa học.
Những nước Phật giáo Nguyên thuỷ hình thức đó vẫn còn tiếp nhận và thọ
trì đúng nghĩa. Tuy nhiên hình thức và tên gọi ở mỗi quốc gia có khác
nhau, nhưng ý nghĩa và vai trò của nó không khác nhau.
Từ bi hỷ xả
Bốn pháp này là trong 40 đề mục tu thiền định, một vị hành giả phải
tu tập nhằm có khả năng chuyển hoá niềm đau nỗi khổ để có hạnh phúc và
an lạc trong thiền môn. Trụ trì giống như cha mẹ. Đức Phật dạy: “Cha mẹ
luôn có lòng từ bi hỷ xả đối với con cái”. Cũng vậy, vị trụ trì phải có
tâm từ bi hỷ xả đối tăng chúng. Chúng ta tu tâm từ, có nghĩa là đối trị
tâm sân, nếu không có sân hận nhiều thì theo y khoa sẽ không mắc phải
căn bệnh tim. Chúng ta tu tâm bi, có nghĩa là đối trị lại tánh độc ác và
hung bạo, nếu không có tánh độc ác và hung bạo thì sẽ không bệnh gan.
Chúng ta tu tập Tâm hỷ, có nghĩa là đối trị tánh nhỏ mọn và ích kỷ, nếu
không có tánh nhỏ mọn và ích kỷ thì sẽ không có bệnh táo bón và đường
ruột. Chúng ta tu tập tâm xả, có nghĩa là đối trị lại dính mắc và cố
chấp, nếu người dính mắc và cố chấp nhiều sẽ bệnh cao huyết áp. Đức Phật
dạy có 3 loại bệnh: bệnh do thời tiết, bệnh do vật thực, hai loại bệnh
này có thể chữa trị bằng thuốc. Loại bệnh thứ ba là bệnh Nghiệp, bệnh
Tâm, bệnh này phải chữa trị bằng tâm, phải tu tập mới đoạn trừ.
NGHỆ THUẬT TRỤ TRÌ
Vị trụ trì phải có văn hoá, tư tuởng, đạo đức, đồng thời phải có nghệ
thuật. Nghệ thuật là giao tế, tâm lý, khen chê đúng chỗ, đa năng, văn
hoá học thuật cao, phải hội họp thường xuyên.
Giao tế
Phải giao lưu với các Tôn giáo bạn, các hội đoàn trong xã hội, phát
động phong trào thăm viếng và đáp lễ các chùa chiền cùng tông môn hệ
phái. Gặp gỡ và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ những tầng lớp trí thức và
văn nghệ sĩ trong xã hội, trong chùa phải đoàn kết 4 hội chúng: Tăng,
Ni, Nam và Nữ cư sĩ. Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây
chụm lại lên hòn núi cao”. Đạo Phật nhìn vạn vật với lý duyên khởi, cuộc
sống xung quanh chúng ta sẽ nhìn với trùng trùng duyên khởi. Chúng ta
thành công thì phải kết hợp những thành phần xung quanh chúng ta thì
thành công của chúng ta mới có ý nghĩa và vững chãi. Ghế ngồi phải có
bốn chân, nếu thiếu một chân chúng ta sẽ té bất cứ lúc nào.
Tâm lý
Bản chất của Sa môn là giới luật và đạo đức. Đạo đức thường khô và
nguyên tắc. Cuộc sống nguyên tắc quá thì trở nên lập dị và sẽ xa dần với
thực tế. Giới luật truyền thống là tiếp xúc phái nữ không được cười, ăn
uống có ngon và dở không được khen chê v.v… Vị trụ trì mà sống nguyên
tắc quá, thiếu tổ chức chắc chắn ngôi chùa đó tăng chúng và phật tử sẽ
ít đi. Do đó yếu tố tâm lý trong đời sống vị trụ trì phải có. Tâm lý là
biết người ta thích và không thích điều gì, tâm lý là sống với bản chất
thật của mình, tức là cười, nói một cách chân thật. Gặp gỡ, tiếp xúc,
nói chuyện là để lại hình ảnh đẹp, cử chỉ trong sáng, phong cách dung
dị, những bài học đáng giá cho đối phương. Vị trụ trì không nên ích kỷ
nụ cười, ánh mắt của mình đối với đại chúng, vì đó là biểu lộ sự trìu
mến.
Khen chê đúng chỗ
Khen thì ai cũng thích, còn chê thì ai cũng ghét. Bậc trí tuệ xem
người nào chê mình đúng chỗ đó là bậc thầy của mình. Trong cuộc sống
nhân vô thập toàn, ai cũng có lỗi, điều quan trọng là phải thấy lỗi và
sửa lỗi của mình. Vị trụ trì sử dụng nghệ thuật khen và chê đối với đại
chúng như là pháp môn tu giữa đời thường. Vị trụ trì khen không đúng chỗ
và đúng người, xem như là tai hoạ cho người đuợc khen. Nếu khen đúng
người và đúng chỗ thì lợi ích và hữu dụng cho người được khen. Chê cũng
thế.
Đa tài
Đa năng là nhiều nghề, nhiều phật sự, nhiều chức vụ. Ám chỉ người có
tài và đức, vì có tài và đức nên mới trở thành trụ trì đa năng. Vị trụ
trì ngoài việc giới hạnh và vị tu sĩ trang nghiêm cần phải có thêm những
nghề phụ: như thầy địa lý, tử vi, tử bình, bốc dịch, tướng pháp, thầy
thuốc, thầy dạy võ, thậm chí phải thông thạo vi tính trong thời đại ngày
nay. Ở chùa nên thành lập nhiều phân ban trực thuộc chùa như: từ thiện,
hộ niệm, phòng phát hành kinh sách, ban ấn tống, câu lạc bộ thơ văn,
câu lạc bộ văn nghệ, gia đình phật tử v.v….. để quy tụ các giới trong xã
hội, phụ giúp và đẩy mạnh những khuynh hướng phát triển mái chùa mà vị
trụ trì đang điều hành.
Văn hoá học thuật cao
Vị trụ trì cũng cần phải có văn hoá và trình độ học vấn cao để tầm
nhìn và chiến thuật của mình đối với tăng chúng khoáng đại và thông thái
hơn. Trụ trì là người vạch ra những kế hoạch và phương pháp, văn hoá,
giáo dục, từ thiện, xã hội v.v… để phát huy ngôi chùa. Do đó đòi hỏi
trình độ học thuật cao. Trong Phật giáo có 3 loại trí: trí văn, trí tư,
trí tu. Trí văn và tư đòi hỏi phải có trình độ và học thuật. Ngày nay
phải có cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Vì những văn bằng đó mới đủ trí tuệ
để cống hiến cho đạo pháp và dân tộc. Càng có văn bằng cao thì nhìn
tăng chúng tu học với ánh mắt hoan hỷ và trìu mến.
Phải hội họp thường xuyên
Chùa là một tổ chức, nhân sự đến từ nhiều tỉnh thành khác nhau, không
có bà con thân thuộc. Xuất gia sống chung với nhau, lấy giới luật làm
nền tảng tu hành, kính trên nhường dưới. Thường có tổ chức thì phải có
xung đột, hiểu lầm v.v… Những trường hợp này phải có hội họp thường
xuyên để giải quyết. Trong giới luật, đức Phật cho phép 1 tháng có 2 lần
làm lễ Bố tát. Bố tát là hình thức ôn lại giới luật của vị tỳ khưu để
sám hối, đồng thời ngồi lại nhau để giải quyết xung đột và mâu thuẫn của
tăng chúng. Do đó vị trụ trì nên áp dụng phương pháp này, ngoài 2 ngày
bố tát, còn phải tổ chức nhiều lần hội họp để giải quyết những vấn đề
trong tăng đoàn.
KẾT LUẬN
Trong kinh điển Pali, đức Phật dạy: “Có 4 hạng người dễ sa đoạ khổ
cảnh: Cô gái đẹp, vị vua, ông quan, vị trụ trì”. Tại sao? Vì những hạng
người này có quyền, có sắc, nên đôi khi sử dụng quyền và sắc của mình
không đúng Phật Pháp, không đúng nhân quả nên dễ sa đoạ khổ cảnh. Nơi
đây Đức Phật sử dụng danh từ “Dễ”, chứ không có sử dụng danh từ “Sa
đoạ”. Vị trụ trì có nghĩa là vị Bồ tát, là chư thiên tại thế. Nếu vị trụ
trì biết áp dụng pháp luật trong đời sống thiền môn thì đúng nghĩa là
Bồ tát và Chư thiên, nếu không thì dễ sa đoạ khổ cảnh. Điều các vị trụ
trì lưu ý, giới luật tỳ khưu nếu phạm 4 bất cộng trụ thì không còn là tỳ
khưu nữa, bốn bất cộng trụ là: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khoe pháp
cao nhơn. Một vị trụ trì sử dụng tiền tam bảo cho cá nhân thì rất dễ
phạm bất cộng trụ, không còn là tỳ khưu nữa
Theo: Tập văn Phật giáo Nguyên thủy