Trừ ra ở những địa phương mà công cuộc chấn
hưng Phật giáo đã tạo được tác dụng sinh hoạt theo chính pháp trên các
phương diện giáo dục, xã hội và tâm linh, ở nhiều nơi, nhất là ở thôn
quê, mỗi khi nói đến đạo Phật, một số trong chúng ta thường liên tưởng
tới những ngôi chùa tối tăm với lối thờ phụng phức tạp và tới những ông
thầy quanh năm gõ mõ tụng kinh và đi làm đám ma đám chay trong làng
trong xóm. Từ gần một trăm năm nay hình bóng của đạo
Phật là như thế đối với người trí thức Việt Nam.
Cố nhiên có một số người có liên lạc với các
tự viện đứng đắn, tiếp xúc được với một ít các vị cao tăng và hiểu được
rằng đạo Phật là một sinh hoạt tâm linh rất cao siêu, nhưng số người ấy
thực là quá ít. Hình ảnh của đạo Phật Lý Trần chỉ được thấy thấp thoáng
mờ ảo qua một vài trang lịch sử, một ít tác phẩm và thơ văn; những tài
liệu này cũng ít có ai chú ý tới.
Chúng ta chỉ thấy trước mắt một số sinh hoạt
tín ngưỡng rất bình dân, rất phức tạp, được mệnh danh là đạo Phật Việt
Nam. Thực ra thì đấy chính là hình bóng đích thực của đạo Phật bình dân
Việt Nam - và hình bóng ấy mang trong nó tình trạng chậm tiến và lạc hậu
của ta về phương diện kỹ thuật, khoa học và xã hội.
Trong kinh Pháp Hoa, giáo lý của
Phật được ví với một trận mưa rào thấm nhuần rừng núi đồng ruộng. Tùy
theo nhu cầu, các cây lớn cây bé hút lấy nước mát của trận mưa. Nhu cầu
tín ngưỡng tầm thường của xã hội bình dân khiến cho xã hội bình dân chỉ
tiếp nhận được một phần rất ít giáo lý của đạo Phật, và vì vậy đạo Phật
bình dân Việt Nam tiêu biểu một cách nghèo nàn và vô cùng thiếu sót giá
trị cao đẹp của Phật học.
Khi một bà mẹ mang đứa con tám tháng đến
chùa "bán khoán" cho ông thầy và cho Phật, bà mẹ ấy tin tưởng rằng khi
đứa bé đã là con của Phật rồi thì ma quỷ không còn dám động tới tánh
mạng nó nữa. Nhà chùa cho đứa bé mặc áo có in những chữ Phạn (như là bùa
chú) để trấn áp các loại ma quỷ. Khi mà những phương tiện y tế, vệ sinh
đang còn thiếu thốn, không bảo đảm được cho sinh mạng đứa bé thì cố
nhiên bà mẹ phải tìm tới những bảo đảm của tín ngưỡng.
Đạo Phật là đạo từ bi, tại sao sau một lễ
cầu an ông thầy lại không cho đứa bé mặc một chiếc áo của Phật để bà mẹ
vững lòng tin hơn nơi uy lực huyền diệu của Ngài ? Mà thử hỏi các ông
thầy chùa làng có cần phải có một trình độ trí thức cao hay không và một
khả năng hướng dẫn đời sống tâm linh sâu sắc hay không, khi mà những
nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng thì giản dị và tầm thường như thế?
Một vị tăng sĩ bác học, chỉ biết dạy tham
thiền và giảng kinh Pháp Hoa làm sao có thể sống trong một ngôi chùa bao
quanh bởi lớp quần chúng chỉ đòi hỏi những công việc ma chay trừ tà và
trị bệnh như thế?
Cho nên muốn đạo Phật được hiển lộ với hết
sắc thái cao đẹp của nó, ta phải tìm cách áp dụng cho được đạo Phật một
cách sung mãn trong sự sống, và như thế tức là phải làm sao cho quần
chúng biết tìm ở đạo Phật sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt trí tuệ và
tâm linh cần cho sự phát triển toàn vẹn con người của họ chứ không phải
chỉ biết tìm ở đạo Phật những an ủi và che chở có tính cách thần bí mà
thôi.
Một câu hỏi tự nhiên đến với chúng ta. Làm
sao trong điều kiện sinh hoạt kinh tế thấp kém như thế, làm sao trong
sinh hoạt trí thức thiếu thốn như thế người dân có thể có được những nhu
cầu về sự phát triển con người của họ về phương diện sinh hoạt tâm
linh?
Bận rộn quá về vấn đề chạy ăn, nộp phí, chạy
thuốc men cho con làm sao họ có thể nghĩ đến chuyện học hỏi giáo lý đạo
Phật? Kiến thức thiếu thốn như thế làm sao họ nhận ra rằng sở dĩ con họ
bị bệnh không phải là vì tà vì quỷ, mà tại vì họ thiếu những phương
pháp trị liệu và bảo vệ sinh mạng cho đứa bé?
Họ đang cần ở một ít trấn tĩnh và an ủi thì
họ nhận một ít trấn tĩnh và an ủi ở đạo Phật, thế thôi. Đạo Phật phải
chỉ cho họ thấy rằng ngoài những nhu cầu trấn tĩnh và trị liệu ấy, họ
còn phải tìm ở đạo Phật phương tiện để phát triển sinh hoạt tâm linh,
giáo dục, kinh tế và xã hội nữa. Nhưng đạo Phật Việt Nam trong những
thời gian gần đây đã không làm được như thế. Vì sao?
Lý do thứ nhất là người trí thức Việt Nam đã
bỏ Phật học để theo đòi cái học khoa cử. Ai cũng biết ở các thời đại Lý
và Trần sơ, đạo Phật đã đóng vai trò kiến quốc trên các phương diện văn
học, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, ngoại giao và xã hội. Đạo Phật
trong các thời đại ấy đã thúc đẩy sự tiến lên của xã hội Việt Nam và
công trình kia chứng thực sinh lực và khả năng của Phật giáo.
Sử chép rằng ở triều Lý giới trí thức bác
học nhất trong nước là các nhà Phật học và các thiền sư. Cái học của
Phật học lúc đó là cái học để hiểu và để xây dựng, nó không đem lại tước
vị cho ai cả. Các thiền sư thường được vua vời vào cung giảng đạo, luận
bàn việc văn hóa, kinh tế, xã hội và cả chính trị nữa. Có thiền sư đã
được mời đứng ra để tiếp sứ ngoại quốc. Thế nhưng họ vẫn sống đạm bạc
nâu sồng trong các tự viện, và chỉ vào cung khi có chỉ triệu mời.
Giới trí thức đã nắm được tinh hoa của Phật
học (tác phẩm của thời đại chứng tỏ điều ấy) có một nếp sinh hoạt tâm
linh phong phú, giải thoát, siêu việt, và đã sử dụng cái học ấy để giúp
cho xã hội, từ tinh thần kiến trúc đến công tác từ thiện xã hội.
Nhưng từ lúc cái học thì cử bắt đầu được tổ
chức, thì tình thế đổi hẳn. Người trí thức của thế hệ kế tiếp nhận thấy ở
cái học ấy những phương tiện để bước lên nấc thang phú quý danh vọng.
Học kinh Lăng Nghiêm và thực tập tham thiền nhập định không có triển
vọng bằng học Luận Ngữ và tập làm văn sách, thi phú. Thế là trí thức
Việt Nam bỏ Phật học để theo cái học khoa cử với giấc mộng áo mũ cờ lọng
và võng điều võng thắm.
Lịch sử ghi lại những dèm pha, những sàm
tấu, những công kích đối với thiền sư và thiền môn. Các vị tăng khi
không được dùng nữa thì an nhiên trở về tự viện hành đạo, dạy học, ẩn
mình, đúng như lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài Phóng cuồng ca:
"Thâm tắc lệ hề, thiển tắc kệ,
Dụng tắc hành hề, xã tắc tàng"
(Thượng Sĩ Ngữ Lục, Việt Nam Phật Điển Tùng San)
Người ta theo cái học mới cả rồi, thế hệ trẻ
chen nhau vào cửa Khổng sân Trình cả rồi, nên Thiền môn vắng bóng kẻ
sĩ. Chỉ cần một thời gian ba bốn chục năm thôi là cao tăng bác học trở
nên thưa thớt lẻ tẻ. Và Phật giáo, thiếu người trí thức, thiếu sự lãnh
đạo, rơi xuống cho quần chúng bình dân gìn giữ, bảo vệ. Cũng do đó mà
đạo Phật trong các thời đại sau này sẽ bị lấm lem bởi những màu sắc mê
tín thần bí phức tạp mà ta còn trông thấy ở nền tín ngưỡng hiện đại.
Một số ít các bậc cao tăng không đủ để phát
huy nền đạo lý chính pháp trong cả một xã hội khao khát tín ngưỡng như
xã hội Việt Nam chúng ta. Và chỉ có những ai có duyên được gặp họ mới
thấy được đạo Phật không phải chỉ là một ít nghi lễ để làm thỏa mãn
những nhu cầu tín ngưỡng hàng ngày của quần chúng trong thôn lạc.
Lý do thứ hai là số người Phật tử trí thức
không biết tìm cách trả đạo Phật lại cho giới trí thức, không biết đánh
tan những nhận thức sai lạc của giới trí thức khi họ cho rằng đạo Phật
là mê tín thần quyền, là chỉ lo tự lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu
đuối… không trình bày được đạo Phật cho những người có chí như một lý
tưởng cải thiện sinh hoạt xã hội và tâm linh của dân tộc.
Điều này có thể là một điều trách cứ quá
đáng, bởi vì công việc thì khó mà số lượng các cao tăng và các cư sĩ
hiểu Phật thì quá nhỏ bé. Nhưng dù sao quan niệm và phương pháp của họ
trong công cuộc duy trì Phật pháp cũng đã thiển cận. Khi người Tây
phương mang qua nước ta nền văn minh và cái học của họ, đáng lẽ đạo Phật
có thể lấy kỹ thuật mới để phát huy nền đạo học đã bị mai một và chen
lấn bởi cái học khoa cử. Bởi vì khi Tây học được thiết lập ở xứ ta, trí
thức Việt Nam lại bỏ Nho học mà theo cái học mới, cũng như ngày xưa
người ta đã bỏ Phật học để theo Nho học vậy.
Cái học ông nghè ông cống bấy giờ hết có
hiệu quả nữa rồi, người ta bèn chạy theo cái học ông Phán để buổi tối có
rượu sâm bang và buổi sáng có sữa bò. Các nhà nho bị bỏ rơi, lui về
vườn, và ta thấy rõ cái cảnh thiền gia và nho gia ngồi uống trà thân
mật. Nhà sư cố nhiên bao giờ cũng hoan hỷ, dù là với người ngày xưa đã
cho mình về vườn.
Cái chữ nho mà ngày xưa người tăng sĩ thường
dùng để học kinh và dạy kinh bấy giờ cũng ít ai chịu học, nên nền Phật
học đã ốm yếu lại càng ốm yếu hơn. Thêm vào đó lại có những tôn giáo
mới, với lối truyền đạo có phương pháp hơn, công phu hơn và tích cực
hơn. Các nhà sư vốn gần gũi với phong trào kháng chiến Cần Vương nên
cũng không ưa gì cái học a tròn b méo của người Pháp đem vào. Họ cũng
muốn tẩy chay cái thứ văn minh "mất gốc" lúc bấy giờ đang lan tràn như
vũ bão, nhất là ở thành thị. Họ không biết thích nghi với thời đại, đem
lối văn tự mới để truyền bá Phật học. Trái lại những người tập sự trong
các tu viện (điệu) đều chỉ được học chữ Hán. Mãi đến khoảng 1930 mới bắt
đầu thấy có các chú điệu được học quốc ngữ.
Cố nhiên Phật học phải suy đồi một cách thảm
hại khi mà một mặt, thế hệ những người thâm hiểu Hán văn tàn dần, một
mặt, lớp người muốn học quốc văn bị cấm đoán, không được khuyến khích.
Thế kỷ vừa qua thực đã mang lại quá nhiều đen tối cho Phật giáo, nếu mà
không có phong trào chấn hưng Phật học khởi mở từ khoảng 1930 dưới ảnh
hưởng của phong trào Phật học Trung Hoa do Thái Hư đại sư lãnh đạo.
Công cuộc chấn hưng Phật giáo đã vấp phải
những trở ngại lớn lao. Một mặt, lớp người Phật tử trí thức làm cán bộ
thì thiếu thốn; mặt khác, công việc va chạm sự khó khăn nghi kỵ của
chính quyền; mặt khác nữa không có cơ sở tài chính: mọi cố gắng phần
nhiều dựa trên phương tiện của một số các người hơi dư dật được mệnh
danh là có tâm đạo và thực ra là có nhiều đòi hỏi tín ngưỡng không cần
cho chánh pháp lắm như tô tượng, đúc chuông, đàn trai, chẩn tế…
Cho nên mãi đến nầy sau bao nhiêu cố gắng,
đạo Phật vẫn chưa tự thực hiện được phong độ ngày xưa. Một số rất đông
thanh niên và trí thức mê say Tây phương vẫn không có được một ý niệm về
giá trị Phật học, mỗi khi nghe nói đến đạo Phật vẫn nghĩ đến những hình
thái lễ bái tín ngưỡng tiêu cực, những lề lối sinh hoạt yếm thế.
Cuộc biến động lịch sử vừa qua đã lay chuyển
được trí thức trẻ tuổi Việt Nam. Tinh thần vô úy, hy sinh, thương yêu
của đạo Phật được thể hiện chói rạng nơi Hòa thượng Quảng Đức, nơi lớp
người hiền lành nhưng cương quyết khi họ đứng dậy cho tự do và ngã xuống
cho tự do. Một số những người bạn trẻ bàng hoàng tỉnh thức: họ không
dám nghĩ rằng cái hình ảnh họ tạo ra trong trí họ là đạo Phật nữa. Họ hé
thấy ở đạo Phật một cái gì không phải yếm thế, tiêu cực. Thì ra trong
cái hình thức cũ kỹ và tầm thường ấy có một viên ngọc nội dung vô cùng
giá trị. Sự hưởng ứng và phong trào học Phật của người trí thức và thanh
niên ngày nay chứng tỏ sự hé thấy đó.
Cuộc vận động của toàn dân sở dĩ thành công
là vì chúng ta đã khai triển được đức vô úy, tình thương yêu, sự hy
sinh, những gì được coi như là nắm trong phần nội dung đẹp đẽ của đạo
Phật. Đó là những tia sáng đầu chiếu xuyên ra ngoài cái vỏ hình thức cũ
kỹ và tầm thường. Nếu lấy được viên ngọc đó ra hẳn ngoài ánh sáng, thì
ta sẽ trở nên vô cùng giàu có.
Nhân đây tôi xin nhắc lại câu chuyện viên
ngọc quý trong kinh Pháp Hoa. Một vị trưởng giả triệu phú kia biết rằng
đứa con trai mình vì tính tiêu xài phung phí nên có thể làm tán gia bại
sản ngay trong một thời gian ngắn sau khi ông qua đời. Ông liền lấy cái
áo của đứa con, cái áo mà ông dặn đứa con sẽ mang theo suốt đời, rạch
gấu áo và giấu vào đấy một viên ngọc bảo châu quý giá vô ngần.
Quả nhiên sau khi ông mất, đứa con phá sản
trong một thời gian rất ngắn, và sau khi bị bạn bè hất hủi liền đi tha
phương cầu thực, đói lạnh khổ sở tháng này sang năm khác. Một hôm khám
phá ra được viên ngọc trong gấu áo, đứa con liền trở thành giàu có sung
sướng như xưa. Viên ngọc kia, trong trường hợp Việt Nam, mà cũng là
trường hợp của Á châu nữa, là tiềm lực và khả năng của đạo Phật nằm sâu
trong lớp hình thức cũ kỹ và tầm thường của những nhu cầu tín ngưỡng
bình dân. Viên ngọc đó đã hơn một lần lóe cho ta thấy ánh sáng của nó.
Tình trạng của chúng ta hiện cũng là tình trạng của đứa con nghèo khổ
tha phương khất thực không nơi nương tựa, không có một cái gì nữa để tin
vào mà sống.
Gần một thế kỷ mất nước. Hai mươi năm chiến
họa liên miên; anh em một nhà giết nhau vì chủ nghĩa, vì đảng phái. Văn
minh Tây phương gây xáo động và thác loạn. Đạo lý cổ truyền bất lực vì
không thoát xác nổi. Tôn giáo lấm lem chính trị. Hứa hẹn ngàn chuyện
nhưng không thực hiện được một.
Người thanh niên sinh ra chán nản nghi ngờ,
liều lĩnh, đi tìm quên lãng trong khói thuốc, tiếng ca, men rượu. Chúng
ta lâm vào tình trạng cơ cực nghèo khổ còn chua xót gấp mấy lần đứa con
phung phí của người trưởng giả trong kinh Pháp Hoa.
Dân tộc Việt Nam, có dư can đảm để chịu đựng
khổ đau nhưng khổ đau phải là khổ đau vì một cái gì. Phải có một cái gì
để làm đối tượng cho sự quy hướng đức tin. Nếu bạo lực, căm thù, cuồng
tín đã thất bại thì chỉ còn có tình thương, sự hy sinh và thái độ không
cố chấp mới có thể xây dựng lại cuộc sống. Mà tình thương sự hy sinh và
thái độ không cố chấp ấy ở đạo Phật vốn không phải là những trang sức
hình thức: nó nằm trong tận cùng bề sâu của đạo Phật, nó là bản chất của
đạo Phật. Nó chính là viên bảo châu quý giá.
Thực ra những chất liệu quý giá kia đã được
phát sinh và nuôi dưỡng bởi công trình thực nghiệm và sinh hoạt tâm linh
của đức Phật và của con người. Qua những biến cố và kinh nghiệm trong
lịch sử, và nhất là qua cuộc tranh đấu vừa rồi của toàn dân, ta biết đến
sự hiện hữu của viên ngọc quý giá đó. Tuy nhiên, nó đang nằm sâu trong
lớp áo rách, phải làm thế nào để đem nó ra cho được thì ta mới thoát
khỏi trạng thái cùng khổ hiện nay. Tất cả sự khó khăn là ở chỗ đó.
Trong những năm tháng tha phương cầu thực,
đứa con cùng khổ tuy mang viên ngọc quý trong áo nhưng vẫn không biết
không hay. Mà dù nếu có biết rằng viên ngọc đang nằm trong túi áo nhưng
không lấy được nó ra thì đứa con cũng chưa có thể gọi là thực sự giàu
có.
Chúng ta cũng vậy. Nếu chỉ bằng lòng với ý
tưởng rằng chúng ta có viên ngọc, mà không chịu nỗ lực để làm hiển lộ nó
- hiển lộ tiềm lực và khả năng đạo Phật - thì chúng ta vẫn chưa là thực
sự giàu có. Và công việc đòi hỏi tất cả chúng ta - những người giữ ngọc
- một thái độ khiêm tốn, một tinh thần cấp cứu, một ý chí cương quyết
thực hiện.
Phải trở lại với đạo Phật, phải trả đạo Phật
về cho trí thức và thanh niên, phải xây dựng lại nền Phật học, phải đem
nền học ấy ra áp dụng trong sinh hoạt tâm linh, áp dụng trong mọi sinh
hoạt văn hóa, kinh tế, mỹ thuật, xã hội… như các nhà Phật học xưa kia đã
thực hiện và đã thành công trong xã hội Lý Trần.