Phật
giáo được khai sinh từ chiếc nôi là thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước Ấn Độ
bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử đầy những thăng trầm, có lúc
tưởng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa. Nhưng Phật giáo vẫn tồn tại
và phát triển rộng rãi khắp nơi.
Hiện nay, thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với
tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi phải thẩm định lại nhiều tư
tưởng triết học xưa và nay. Đương nhiên, những tư tưởng mang tính phi
lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải bị đào thải.
Thế nhưng tòa nhà cổ kính
hơn hai mươi lăm thế kỷ của Chân lý Phật giáo vẫn trường tồn cùng năm
tháng, thời gian, sừng sững như cây đại thọ giữa núi non trùng điệp.
Điều này chứng tỏ Phật
giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh
thần phong phú, tinh thần ấy thể hiện Chân lý và Giáo pháp của Chân lý
Phật giáo, chúng ta đều biết rằng, Chân lý đạo Phật chứng ngộ được do
Thái tử Tất Đạt Đa là Đức Thích Ca Mâu Ni cũng ở ngay thế giới này, chân
lý này vận hành cùng vũ trụ - nhân sinh (Định lý duyên khởi).
Nó tồn tại khách quan
trong sự sống của loài người. Do đó Đức Phật có xuất hiện hay không, nó
cũng vận hành như vậy, nó lấy những điều Nhân bản, Vô ngã, Từ bi, Bình
đẳng mà làm căn bản để vận hành.
Cũng vậy! Phật giáo Việt
Nam vẫn sống trong lòng dân tộc, thịnh suy theo vận đất nước, Phật giáo
có thể đóng góp một vai trò quan trọng trong sự hướng dẫn đời sống tinh
thần cho mọi người và phát triển quốc gia trong thời kỳ hội nhập, làm
nền tảng luân lý để xây dựng một xã hội tiến bộ, đạo đức, trí tuệ cho
mọi người.
Nhân bản là đánh thức con
người đức tín tự tin, tự chủ, tự trọng với tinh thần trách nhiệm bản
thân và xã hội; Vô ngã: đánh thức cái ta, còn gọi là cái tôi, cái của
tôi, nó giả tạo, mong manh, không bền chắc, luôn luôn biến chuyển. Thay
thế bức tường thành ích kỷ, trở thành sự hy sinh nhẫn nhục.
Trong Phật giáo quan
niệm: Mọi người đều bình đẳng có trí tuệ như nhau, nhưng đặc tính cố hữu
của từng người khó hay dễ, mau hay chậm, chỉ khác nhau để nhận được trí
tuệ này. Phật giáo lấy từ bi vị tha là quan điểm quan trọng khiến phát
huy và tồn tại trên toàn cầu. Nhưng muốn làm được những việc này, bản
thân Phật giáo phải đào tạo cho được con người chúng ta ứng dụng được
việc đó.
Những triều đại trước,
các nhà sư là thành phần ưu tú của xã hội, thông minh, đức hạnh. Phật
giáo từ thời các nhà vua Lê, Lý, Trần, qua các trường Đại học Phật giáo
cung cấp cho xã hội giai tầng trí tuệ. Vì thế, tư tưởng và hành động
người tu sĩ Phật giáo khác người thường.
Một đằng vì lợi ích cá
nhân, một bên vì lợi ích cho đại chúng. Phải vận dụng trí tuệ hòa nhập
vào cuộc sống và xã hội, giúp người an vui hạnh phúc, làm sáng tỏ Phật
pháp. Đạo Phật là đạo trí tuệ, tự bản thân mình phải rọi tuệ giác vào
cuộc sống để nhập thế hành đạo.
Trực diện với mọi người
để hiểu thêm "chư pháp thường không tánh, các vật điều giả hợp, hay
không cố định" chúng ta có thể hướng dẫn, thay đổi được người xấu, thay
đổi diễn biến trong cuộc sống, làm giàu đẹp văn minh trí tuệ xứ sở chúng
ta, chúng ta có thể liên hệ mấy đặc tính sau:
1 - Nhân
bản: Điểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Chân lý
Phật giáo là, Vị giáo chủ không phải là một thần linh, không phải là một
thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật sự như bao
nhiêu con người khác tên là Tất Đạt Đa, ngài thuộc giai cấp Sát Đế Lợi,
dòng dõi vua chúa, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da.
Ngài sinh ra, lớn lên, đi
học. Vợ của ngài là công chúa Da Du Đà La, con của ngài là La Hầu La.
Ngài thấu rõ nỗi thống khổ của sinh, lão, bịnh, tử, ngài chứng kiến
những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội Ấn
Độ thời bấy giờ. Ngài đã một mình ra đi tìm phương pháp giải quyết những
vấn đề trên. Sau những tháng năm học đạo với các đạo sĩ nổi tiếng mà
kết quả vẫn không làm vị đạo sĩ trẻ tuổi, thông minh Tất Đạt Đa giải
quyết những vấn đề bức xúc trong lòng.
Cuối cùng ngài quyết định
tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định dưới cội cây Bồ đề.
Ngày cuối cùng, khi sao mai vừa mới mọc, ngài đã thấu đạt được Chân lý,
rõ được chân tướng của vạn pháp. Ngài đã giác ngộ và thành đạo, hiệu là
Thích Ca Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã hình
thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo. Đạo Phật quan niệm,
con người là trung tâm điểm, hay nói cách khác, không có nhân loại thì
không có Chân lý Phật giáo hiện hữu trên cõi đời này.
Trong thế giới quan của
đạo Phật, chủng loại chúng sinh được chia thành sáu bậc: Thiên, Nhân,
Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Trong sáu giới ấy, con người được
coi là hội đủ điều kiện tốt nhất để đạt đến các quả vị tu chứng trí tuệ
trong Phật giáo.
Chân lý Phật giáo giải
thích rằng: Ở cõi Thiên thì khó nhận thức được khổ đau vì cuộc sống của
họ quá ư sung sướng. Trái lại, các cõi Atula, Địa ngục, Súc sinh, Ngạ
quỷ, chúng sanh quá si mê, ngu dốt trong hoàn cảnh tối tăm đọa đày nên
cũng không dễ nắm bắt được Chân lý Phật Đà.
Duy chỉ có cõi Nhân, bản
thân con người mới có hoàn cảnh nhận thức được khổ đau của cuộc sống
(đây là điều kiện thích ứng để dễ dàng khai sáng) và có khả năng khai
sáng được ngọn đèn trí tuệ nơi chính tấm thân nhỏ bé này.
Trong quan niệm Chân lý
Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân mình
ở cả ba thời: Quá khứ, hiện tại và vị lai, là thượng đế duy nhất có
toàn quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời mình. Ngoài mình ra không ai
hoặc bất cứ thần linh nào có khả năng đưa mình lên thiên đàng hay ném
mình xuống địa ngục. Trong Kinh Pháp Cú, câu 145, Đức Phật dạy rằng:
"Chỉ có ta làm điều tội
lỗi, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch
hay ô nhiễm là tự nơi ta, không ai có thể làm cho người khác trở nên
trong sạch".
Lại nữa, Phật giáo luôn
đề cao nỗ lực và ý chí của bản thân con người. Tinh tấn là một trong
những đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ Đề. Đến bờ giác ngộ
chẳng bao giờ có dấu chân của kẻ lười biếng, bạc nhược.
Với những tâm hồn khát
khao tự do và giải thoát tuyệt đối, dốc hết sức bình sinh cùng với sự
hiểu biết Chân lý của đạo Phật, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết
quả tốt đẹp trên bước đường tu học tập và nhập thế. Nhược bằng ngược
lại, cho dù có ngàn vị Phật giang tay tế độ cũng không làm sao đưa chúng
ta thoát khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo còn
đề cập đến những trường hợp của những người thời chưa có Đức Phật ra
đời. Có những con người tự lực, tự vận dụng triệt để ý chí, khả năng của
chính mình trong quá trình tư duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn,
quán tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn pháp vẫn có thể bừng sáng
được Chân lý. Đức Phật công nhận những người này là Bích Chi Phật.
Tính nhân bản đã được thể
hiện mạnh mẽ ở điểm này. Đây là một điểm ưu việt của Chân lý đạo Phật
mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của bất cứ tôn giáo nào khác: Một
vị giáo chủ lại đề cao khả năng của con người một cách khách quan hiện
thực như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản này, nhân cách con người được
tôn trọng triệt để trong đạo Phật: Quyền sống, quyền tự do, quyền bình
đẳng đều có một giá trị đích thực.
Điều đáng nói nhất là khả
năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh, đó chính là trí tuệ
chính mình tự có. Đây là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô
cùng quý báu mà bất kỳ ai cũng có, nếu biết vận dụng và phát huy đúng
đắn, thì có thể tiêu diệt mọi khổ đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc.
Điều này đã được minh
chứng cụ thể qua đời sống của Đức Phật cũng như những bậc tiền nhân kế
thừa trong lịch sử đạo Phật. Đức Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh
đều có khả năng thành Phật".
Trong lịch sử tiến hóa
của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc hậu từ xa xưa cho đến hôm nay,
những phát minh khoa học cùng với thành quả của nó đã đưa nhân loại đến
thời kỳ vàng son của sự tối tân hiện đại. Kết quả ấy có được là do khả
năng khối óc của con người.
Dù vậy, theo phân tích
của Chân lý Phật giáo khả năng đó chỉ mới là một phần nhỏ giới hạn của
trí tuệ, hay nói cách khác, con người khoa học chỉ mới vận dụng được một
phần trí sáng thế gian của mình, chứ chưa phải là toàn bộ trí tuệ của
mỗi con người từ nơi tâm thanh tịnh nơi chính mình sẵn có.
Như Đức Phật đã chỉ rõ
trong giáo điển, thuật ngữ đó tạm gọi là trí tuệ Bát Nhã, và chính trí
tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa Vô Sanh Niết Bàn Tịnh Tĩnh
hạnh phúc.
Đối với Phật giáo, con
người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm năng phi thường,
nếu chúng ta khéo triển khai, thì không gì không thể thực hiện được trên
cõi đời này.
Như vậy, ta có thể nói
rằng: Phật giáo là đạo của con người, xuất phát từ Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, ngài là một đấng giác ngộ nhưng ngài chính là một con người, ngài
đã cất tiếng nói và có một đời sống của con người, vì con người mà ngài
khai thị Chân lý, hướng dẫn con người đi đến cuộc sống thực sự an vui,
hạnh phúc.
2 - Bình
đẳng: Chúng ta biết rằng: Phật giáo đã ra đời trong một hoàn
cảnh vô cùng phức tạp của một đất nước, mà trong đó đời sống con người
phải chịu nhiều bất công, trong một xã hội phân chia năm giai cấp lâu
đời là Ấn Độ. Một là giai cấp Bàlamôn giáo tập trung số người tu của 62
đạo khác nhau, chủ trương công việc nghi lễ, tế tự, cúng tế.
Giai cấp này chiếm vị trí
tối cao. Hai là giai cấp Sát Đế Lợi, tập trung dòng dõi vua chúa, là
giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Ba là giai cấp thương gia giàu
sang. Giai cấp thứ tư là Tỳ Sá, bao gồm những người bình dân.
Giai cấp thứ năm là thuộc
giai cấp Thủ Đà La, họ là những người hạ tiện hay còn gọi là dân nô lệ.
Hai giai cấp Bàlamôn và Sát Đế Lợi thuộc giai cấp thống trị. Năm giai
cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối. Vì vậy, người dân nô lệ
thì cứ làm nô lệ đời đời tạo thành một xã hội đầy rẫy những bất công.
Ngay trong buổi hoàng hôn
tối tăm đó, một hiền nhân thuộc dòng dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng
tiếng chuông tiên phong, phá tan bóng đêm của xích xiềng nô lệ và bức
tường phi lý phân chia giai cấp bằng một châm ngôn bất hủ: "Không có
giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn của
Đức Phật là nền tảng hình thành một hệ thống giáo lý mà trong đó tính
bình đẳng được thể hiện trọn vẹn trên phương diện lý thuyết và cả thực
tiễn.
Theo Phật giáo, vạn vật
trên thế giới này đều tùy thuộc nhân duyên mà sanh khởi. Cũng vậy, sự
khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hay
thông minh, tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người,
chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo thông lệ hay bất kỳ một
quy định nào.
Trên tinh thần này, sự
phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô nghĩa. Việc Thái tử Tất Đạt Đa
từ bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất cả mọi vinh hoa phú quý,
khước từ mọi đặc ân cao tột dành cho giai cấp vua chúa.
Ngài đã một thân độc hành
với mảnh áo vá thô sơ, đầu trần, chân đất, vân du đây đó, hình ảnh đó
đã thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt vời của ngài. Và cũng chính Đức
Phật, với đời sống giản dị khiêm tốn đã thể hiện tấm lòng bình đẳng
trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh. Ngài rải tình thương vô biên
xuống muôn loài một cách công bằng, vô phân biệt.
Từ hạng cùng đinh như gã
gánh phân, thợ cạo tóc cho đến hạng vua chúa giàu sang phú quý, từ hạng
thấp hèn ty tiện như gái giang hồ cho đến bậc quyền uy, Đức Phật luôn
thương yêu chân tình, giúp đỡ, khuyên dạy để họ nhận thức được tính chất
thật của cuộc sống tự thăng hoa tâm hồn, đạt đến an lạc hạnh phúc. Lòng
bình đẳng ấy không phải dừng lại mà lan tỏa khắp muôn loài muôn vật.
Ngài đã dạy rằng "Tất cả
chúng sanh đều có một tâm lý tham sống sợ chết. Vì vậy, không có lý do
gì ta nỡ cướp đi mạng sống của kẻ khác, như vậy là không bình đẳng". Tâm
trạng buồn nhớ mẹ của một chú cừu non lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn
của một người mẹ phải chia lìa với đứa con thơ, bởi một nguyên nhân nào
đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật cũng quý như bất kỳ sinh mạng
của một con người.
Với quan điểm này, trên
bước đường du hóa, có lần Đức Phật đã tự tay bế một chú cừu non lạc đàn
tìm về với mẹ. Và cũng chính ngài đã lên tiếng giải thích và vạch rõ
những ngu xuẩn của bọn người mê tín, dị đoan làm lễ tế thần bằng cách
dâng lên những con thú sống. Ngài đã cứu lấy những con vật thoát khỏi
cái chết hỏa thiêu chỉ vì sự tín ngưỡng mù quáng.
Trong giáo điển, Phật
giáo quan niệm rằng: Tất cả mọi loài chúng sanh, từ con người cho đến
các sinh vật nhỏ bé đều có ẩn một khả năng thành Phật (Phật tính) nhưng
do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài, việc triển khai khả năng ấy tùy đó mà
khó hay dễ, nhanh hay chậm khác nhau. Điều này có thể tóm ý trong một
câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Đây là nền
tảng để hình thành đức tính bình đẳng triệt để, vô phân biệt trong đạo
đức luân lý của Phật giáo.
3 - Từ bi:
Tinh thần từ bi, vô ngã vị tha là một trong những quan điểm quan trọng
khiến Phật giáo phát huy và tồn tại khi đến bất cứ quốc gia nào. Chính
điểm này là một trong những căn bản tạo nên mạch sống cho Phật giáo mãi
trường tồn cùng lịch sử tiến hóa của nhân loại.
Từ bi là chất liệu không
thể thiếu trong đạo Phật. Từ là thương cho vui. Bi là thương cứu khổ. Đó
là trọng trách thiêng liêng mà Chân lý đạo Phật mang theo suốt chặng
đường hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển. Nó được thực hiện bằng mọi
cách và ở bất cứ nơi đâu. Chính vì sứ mạng thiêng liêng này mà đạo Phật
đã đi theo lịch sử loài người, phát triển nhịp nhàng bằng chất liệu tình
thương mà hoàn toàn không sử dụng bạo lực, bạo quyền.
Chất liệu tình thương của
Phật giáo như dòng suối mát lạnh, ngọt ngào làm cho vạn vật tốt tươi,
cỏ cây đâm chồi nảy lộc. Từ bi đã hiện hữu giữa cuộc đời là thần dược
xoa dịu những nỗi đau của nhân loại, hàn gắn những rạn vỡ tình người,
xua tan những oán căm thù hận. Và còn hơn thế nữa, lòng từ bi còn giải
quyết những căn bản khổ đau của kiếp phù sinh, đưa người ta đến an vui
trọn vẹn.
Theo nghĩa, "Từ nghĩa là
từ năng giữ nhất thiết chúng sanh chi lạc, Bi nghĩa là bi năng bạt nhất
thiết chúng sanh chi khổ" hay vắn tắt là "Từ năng giữ lạc, bi năng bạt
khổ". Như vậy, từ bi mang niềm vui cho tất cả chúng sanh. Ở trong lãnh
vực tình cảm, tình thương yêu của Phật giáo có thể so sánh với lòng mẹ
thương con bao la rộng rãi. Tuy vậy, khi đi sâu vào ý nghĩa của nó,
chúng ta thấy rằng lòng từ bi là một tình thương vượt qua mọi ranh giới,
mọi quan hệ, bao trùm lên tất cả muôn loài.
Trong thế gian, thương
yêu bao giờ cũng đi đôi với hạnh phúc. Tuy nhiên, những loại tình cảm ở
đời chỉ giới hạn trong một mối quan hệ, một đẳng cấp, một chủng loại,
một phạm trù nào đó. Khi vượt ra ngoài, lắm khi chúng ta thường đối xử
hững hờ, kỳ thị với nhau, thậm chí còn dẫn đến sự chống đối, tàn sát lẫn
nhau một cách khủng khiếp.
Trong khi đó, từ bi vượt
lên tất cả mọi tình thương hẹp hòi ích kỷ của thế gian, không bến bờ,
không biên cương, không hạn định. Lòng thương yêu ấy tuyệt nhiên không
chứa đựng bất cứ ý niệm kỳ thị nào.
Đối với Phật giáo tất cả
chúng sanh đều là bạn hữu, và mọi nơi chốn trên thế gian này đều là nơi
chôn nhau, cắt rốn, là quê hương, xứ sở của mình. Lòng thương yêu vô
cùng ấy tựa như ánh mặt trời tỏa sáng khắp không gian, bao trùm vạn vật,
chẳng phân biệt đây hay kia, thân hay sơ, bạn hay thù, giàu hay nghèo,
sang hay hèn, người hay vật.
Từ ý nghĩa này, Phật giáo
có một tinh thần khoan dung và tha thứ. Chúng ta đang sống giữa một
thời đại quyền lực và danh vọng đang khống chế con người, tham vọng của
nhân loại bùng vỡ một cách cùng cực, chiến tranh liên tục xảy ra, những
cuộc chạy đua kinh tế, chính trị, quân sự đang phô bày khắp trên thế
giới, lửa hận thù tràn ngập khắp hành tinh.
Thảm trạng này đang có cơ
hội đưa nhân loại đến vực thẳm của sự diệt vong. Chính ngay lúc này, từ
bi là chất liệu rất cần thiết cho cuộc đời. Và chỉ khi vận dụng lòng từ
bi của Chân lý Phật giáo, chúng ta mới thực sự đủ năng lực dập tắt ngọn
lửa chiến tranh và hận thù đang ngút ngàn giữa buổi hoàng hôn của thế
kỷ XXI này.
Đức Phật đã dạy: "Hận thù
không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận
thù, đó là định luật từ ngàn xưa".
4 - Vô ngã:
Nhận xét về thế giới sự vật hiện tượng, Phật giáo khẳng định rằng mọi
sự vật, hiện tượng trên cõi đời này đều không có một tướng trạng nhất
định, tất cả đều luôn biến đổi, chuyển động không ngừng. Nói cách khác,
sự vật, luôn luôn chảy và biến đổi. Trong khi đó nhận thức thông thường
của chúng ta tưởng chừng như mọi vật đang thực sự hiện hữu và cố định.
Kỳ thực, tất cả vạn vật đều đang chuyển động một cách vi tế mà ta khó
nhận thấy được.
Nhưng nếu bình tâm và
chịu khó quan sát, ta có thể thấy rõ điều này. Chỉ cần nhìn vào các sự
vật quen thuộc nhất trong đời sống thường nhật như cái bàn, căn nhà… ta
sẽ nhận thức được ý nghĩa ấy. Cái bàn khi mới hoàn thành, nó rất mới,
nhưng qua một thời gian sau, nó đã trở thành cũ.
Và cứ thế, theo thời
gian, nó cứ cũ dần và cuối cùng hư hoại, có thể chỉ còn là những mảnh
vụn. Tất cả các sự vật cũng đều tuân theo quy luật ấy. Vì vậy ta có thể
nói rằng, tất cả các tướng đều là tạm thời, và nó luôn chuyển đổi.
Các sự vật mà ta nhận
biết được chẳng qua là một tướng trong một chuỗi thay đổi liên tục của
vô số tướng trạng từ mới đến cũ, từ trẻ đến già, từ sanh đến diệt. Phật
giáo tạm phân quá trình vận động ấy thành bốn giai đoạn: Sanh, Trụ, Dị,
Diệt hay Thành, Trụ, Hoại, Không.
Như vậy, tất cả các sự
vật, hiện tượng trên thế giới này đều hoàn toàn không có cái chủ thể
nhất định, nó luôn biến động. Vì vậy, tất cả đều là Vô ngã, nghĩa là
không có một tướng trạng nào của sự vật là nhất định, bất di, bất dịch
cả. Đây gọi là Vô ngã tính.
Liên hệ bản thân của mỗi
người, vì không thấy rõ được sự thật của tướng trạng này, không nhận
biết được sự giả hợp của ngũ uẩn mới tạo thành tấm thân này. Nên ngay từ
lúc lọt lòng mẹ, một cái tên gọi cùng với nhận thức sai lầm về cái tôi
đã tạo thành một ngộ nhận căn bản về sự hiện hữu, về giá trị của một con
người. Từ đó tính chấp và sự ích kỷ hình thành, đây chính là giềng mối
của bao sự thống khổ mà chúng ta phải cưu mang suốt cả kiếp người.
Chính ảo mộng về cái của
tôi và cái tôi đã đưa đến thảm trạng chiến tranh, hận thù, cấu xé lẫn
nhau. Chân lý Phật giáo đã soi sáng chân tướng của vạn pháp bằng ánh
sáng Chân lý Vô ngã, sự soi sáng ấy không nhằm mục đích thỏa mãn tri
thức của nhân loại, mà nó mang ý nghĩa trình bày một sự thực về tướng
trạng của con người và thế giới. Đồng thời xây dựng cho nhân loại một
nhận thức đúng đắn, hướng đến một nếp sống cao đẹp, đầy tình người.
Thật vậy, khi chúng ta đã
nhận thức được thực trạng của tấm thân ta, thấu rõ được cái ta - còn
gọi là cái tôi, cái của tôi - chỉ là những gì rất mong manh, không bền
chắc, luôn biến chuyển. Khi ấy bức tường thành của sự ích kỷ, nhỏ nhen
mới thực sự sụp đổ, ranh giới của chủ nghĩa cá nhân mới bị xóa nhòa,
thành trì bảo thủ mới được thật sự phá vỡ, lòng bao dung, vị tha sẽ bừng
sáng trong tâm hồn của mỗi con người.
Nhân loại sẽ xích lại gần
nhau hơn để mỉm cười, thương yêu và cùng sống với nhau trong tinh thần
bao dung hòa ái và tha thứ lẫn nhau, sẵn sàng quên đi những lỗi lầm mà
chúng ta đã từng gây tạo cho nhau, hạnh phúc thực sự hiện hữu ngay trên
quả đất này.
Tinh thần Vô ngã vị tha
là một trong những điểm quan trọng khiến Phật giáo tồn tại và phát huy
khi đi đến bất cứ một quốc gia nào. Chính điểm này là một trong những
căn bản tạo nên mạch sống cho Chân lý Phật giáo tồn tại cùng với lịch sử
tiến hóa của nhân loại. Phật giáo bao giờ cũng hiện hữu vì hạnh phúc,
an lạc của mọi người.
Với tình trạng hiện thời
của thế giới, tiếng chuông báo động của những nhà khoa học về các nguy
cơ của trái đất thân yêu đang gióng lên liên tục, sinh mệnh của nhân
loại đang bị đe dọa bởi quá nhiều nguyên nhân do chính mình gây tạo.
Ngồi lại với nhau trong tình trạng yêu thương đoàn kết và cùng một chí
hướng là điểm quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề trên - tinh
thần vô ngã, vị tha, từ bi, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau là nhân tố
cần thiết để thực hiện được điều ấy.
Những điều vừa trình bày
trên đây: Nhân bản, bình đẳng, từ bi, vô ngã là những trọng điểm được đề
cập trong Chân lý Phật giáo. Nhưng nó cũng là yếu tố cần thiết cho mọi
người. Nếu muốn tạo hạnh phúc thật sự cho chính bản thân mình và thiết
lập một nền hòa bình cho nhân loại.
Như vậy chúng ta có thể
nói rằng: Chân lý đạo Phật là con đường để tự giải quyết những điều cơ
bản nhất của con người, mặc dù đối tượng của Phật giáo là tất cả chúng
sanh, nhưng con người là trung tâm điểm, là đối tượng chính để mang bức
thông điệp cho cuộc đời, là loài người có khả năng tốt nhất để thực hiện
bức thông điệp ấy. Muốn thực hiện được bức thông điệp ấy, nghĩa là phải
thực sự vận dụng những tinh hoa của Phật pháp vào trong đời sống và tâm
hồn của chính mình.
Mặc dù cuộc sống luôn
biến động theo dòng chảy của thời gian, nhưng trong sự mong manh phù du
ấy, ta vẫn luôn nhìn thấy một điều gì thật dễ thương, thật ý nghĩa, thật
thú vị giữa trần gian đầy mộng mị. Chỉ khi nào con người sống trọn vẹn
với tinh thần cao đẹp ấy của đạo Phật, chúng ta mới thấy, mới hưởng được
niềm hạnh phúc vô biên.
* Trích từ tham luận
tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, diễn ra từ ngày 4 tới ngày
7/12/2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội.
Theo: CAND.com.vn