1. Khiêm hạ
Trước hết, khiêm hạ là một
hành xử đạo đức vắng bóng tự ngã, dẹp tan kiêu mạn. Kiêu mạn là một
tập khí sâu dày của chúng sanh nói chung. Kinh Tăng chi nêu ra ba thứ
kiêu mạn căn bản(1). Theo kinh Tập, khi cái tôi nhỏ lại thì mọi sự va
chạm do kiêu mạn ít xảy ra:
Ai phá hoại kiêu mạn
Không còn chút dư tàn
Như nước mạnh tàn phá
Cây cỏ lau yếu hèn(2).
Và
theo Đức Phật, chỉ những ai chinh phục được tự ngã thì mới có thể
nhiếp phục lòng kiêu mạn. Câu chuyện khoác lác của chàng thanh niên
Saccaka khi dõng dạc tuyên bố: Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô
tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng
khiếp sợ, huống nữa là một người thường(3). Sau khi được Phật thuyết
giảng, thanh niên Saccaka đã nhận ra sai lầm và biết cách ứng xử khiêm
hạ với Đức Phật và chúng Tỳ-kheo. Chuyện tiền thân Đức Phật số 125 cũng
đề cập câu chuyện khoác lác tương tự, nhưng nhân thân là một vì
Tỳ-kheo(4).
Thứ hai, khiêm hạ là thể hiện sự tôn trọng kẻ
dưới và kính nhường người trên. Biết tôn trọng lẫn nhau trong giao
tiếp, ứng xử là sự thể hiện đẳng cấp đạo đức. Từ câu chuyện ứng xử tôn
trọng lẫn nhau giữa chim đa đa, khỉ và voi(5), Đức Phật đã dạy các thầy
Tỳ-kheo:
Những người rành rẽ Pháp
Tôn kính bậc cao niên
Kiếp này được khen ngợi
kiếp sau sanh về Trời(6).
Trong
những hội chúng Sa-môn, Bà-la-môn thời Phật, chỉ có hội chúng đệ tử
của Đức Phật là có sự nhường nhịn, tôn trọng lẫn nhau thể hiện ở các
hành vi: Kính lễ bậc trưởng thượng/ Không ganh tị một ai(7). Truyền
thống đạo đức này sở dĩ có được là do tính khiêm hạ tạo ra.
Thứ
ba, khiêm hạ không có nghĩa là hạ thấp mình mà còn có nghĩa tự khẳng
định bản thân, là tôn trọng chính mình trong yên lặng tỉnh giác. Trong
nghĩa này, khiêm hạ gần với lòng tự trọng. Đó cũng là điều được Đức Phật
huấn thị:
Hãy học các dòng nước
Từ khe núi vực sâu
Nước khe núi chảy ồn
Biển lớn động im lặng
Cái gì trống kêu to/ Cái gì đầy yên lặng
Ngu như ghè vơi nước/ Bậc trí như ao đầy(8).
Có
thể thấy, một trong những chuẩn mực ứng xử của người học Phật là thái
độ khiêm hạ, định tĩnh, nhu nhuyến, thong dong và vững chãi trước dòng
xoáy của bản ngã và sở hữu của bản ngã.
2. Tàm quý
Theo Đại
thừa bách pháp minh môn luận giải(9) thì tàm là tự hổ với mình và quý
là thẹn với người. Trong nghĩa được sử dụng rộng rãi, thì tàm quý là sự
hổ thẹn với chính mình cũng như với người khác. Hổ thẹn là năng lượng
đạo đức có tác dụng trong nhiều phương diện.
Trong lãnh
vực tu tập, nhờ lòng hổ thẹn thôi thúc, khi nghĩ về công lao giáo hóa
của chư Phật, Bồ-tát, của các bậc Thánh tăng, nên nỗ lực tu tập. Trong
mười lý do phát tâm Bồ-đề, tất cả đều có liên quan đến lòng hổ thẹn đối
với ân đức lớn lao mà ta đã thọ nhận(10). Chính nhờ lòng hổ thẹn này
thúc đẩy mà chúng ta nỗ lực tiến tu. Không biết hổ thẹn, khó lòng thăng
tiến trong tu tập. Chiêm nghiệm sâu thêm lời dạy của ngài Quy Sơn: Họ
cũng là trượng phu, ta đây cũng như vậy, cũng là một dạng thức khuyến
tu dựa trên hiệu ứng của lòng hổ thẹn. Do bởi nghĩa này nên kinh điển
gọi hổ thẹn là hai pháp trong sáng, trắng sạch (二種白法)(11). Hổ thẹn
không những là động năng thăng tiến trong thiện pháp mà cũng có thể áp
dụng trong thực tiễn sinh động của con người.
Trong liên
hệ đời thường, đạo đức của gia đình, xã hội được hình thành cũng nhờ
lòng biết hổ thẹn. Nhờ hai pháp này nên mới có thể chỉ được đây là mẹ
hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của
mẹ…(12). Kinh điển Nikaya cũng gọi hổ thẹn là hai pháp trắng(13) và hai
pháp này quyết định phẩm vị, đạo đức của con người, vì nếu không có hai
pháp này thì thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà
vịt, loài heo, loài chó, loài dã can(14). Nói theo kinh Trung bộ, nếu
một người không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác
gì mà không làm(15). Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định trong
kinh Phật thuyết như vậy(16).
Như vậy, hổ thẹn là một
chuẩn mực đạo đức quan trọng, không những khẳng định nhân cách của con
người mà còn góp phần tạo nên động lực thăng tiến ở nhiều phương diện, ở
đời thường cũng như ở tâm linh. Hình ảnh một thanh niên thích trang
sức, nhưng bị quấn quanh cổ một xác rắn hay xác chó... sẽ làm cho anh
ta ngại ngùng, bứt rứt, xấu hổ, là minh họa sinh động về việc vận dụng
thường xuyên năng lực hổ thẹn, nhằm chuyển hóa năng lượng dục vọng thấp
hèn(17).
Là con người, phải biết hổ thẹn. Không biết hổ
thẹn thì chưa phải là con người đúng nghĩa. Chính bởi điều này, chuẩn
mực đạo đức hổ thẹn được Đức Phật khẳng định là hai pháp có khả
năng che chở cho thế giới(18).
3. Trung thực
Trung
thực là một chuẩn mực đạo đức được nhiều người mến mộ, tin yêu. Người
trung thực luôn hứa hẹn một tương lai rộng mở. Trung thực biểu hiện qua
nhiều dạng thức và quan hệ; mà ở đây, trung thực với chính mình và với
tha nhân là hai tính chất chủ yếu.
Trước hết, cần phải
trung thực với chính mình. Thiết tưởng điều này không cần phải bàn cãi.
Mặc dù vậy, khi khảo sát sâu, mới thấy rõ đôi khi ta chưa trung thực
với chính mình. Trung thực với chính mình là ý thức rõ ràng về tất cả
các phương diện của bản thân như: khả năng, điều kiện, mặt mạnh cũng
như mặt yếu, sở thích cũng như điều không ưa… Ẩn dụ một người đứng trên
hồ nước, thì có thể nhận ra các con ốc, con sò, đàn cá bơi lội… với
điều kiện hồ nước đó trong và lặng(19). Việc thắp sáng ý thức về những
điều kiện của bản thân cũng như thế. Từ sự nhận thức rõ ràng này và
thái độ chấp nhận đúng hiện trạng của bản thân, là sự khởi đầu cho thái
độ sống trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình có ảnh
hưởng nhất định đến sự thành công của bản thân.
Thứ hai,
trung thực với tha nhân. Đây là tiền đề để xây dựng niềm tin trong mọi
mối quan hệ. Khi trung thực thì được người tin tưởng, và lòng tin là
yếu tố quyết định sự bền vững cho mọi mối quan hệ giữa người với người.
Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết: Ở đời này, lòng tin/ Tối
thắng cho con người(20). Mở rộng ý nghĩa này có thể thấy, trong quan hệ
thầy trò, vợ chồng, cha con, bạn bè… thì sự tin tưởng lẫn nhau quyết
định đến hạnh phúc, bình yên cũng như tính bền vững của các mối quan hệ.
Sống mà không tin nhau là hoạt cảnh của địa ngục. Và muốn tin nhau thì
phải trung thực, không dối nhau. Ở nghĩa này, không trung thực hay lừa
dối nhau là cửa ngõ của tội ác. Chính vì vậy, trong kinh Phật thuyết
như vậy, Đức Phật đã khẳng định rất mạnh mẽ: Phàm một người nào đã vi
phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được.
Thế nào là một pháp? Này các Tỳ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo(21).
Trung
thực hay không dối nhau là một chuẩn mực đạo đức cơ bản, là chất kết
dính của mọi mối quan hệ, là yếu tố thành công trong mọi hoạt động của
con người.
4. Kiên định
Kiên
định là ý chí, là sự vững vàng trong quyết định, trong dự tính, trong
mối quan hệ, trong lý tưởng hay con đường đã chọn. Tùy theo bối cảnh cụ
thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Chuẩn mực đạo đức kiên định
quyết định tính cách, năng lực, giá trị… của con người.
Kiên
định là sự nhất quán trong pháp tu. Với Đức Phật, đại thệ nguyện bên
cội Bồ-đề trước đêm chứng đạo là sự thể hiện cho sự kiên định vững
vàng: Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu
có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ
này(22). Có thể sự nỗ lực đó là đỉnh điểm của một tiến trình, nhưng qua
đó đã cho thấy sự kiên định rất cần trên mọi chặng đường tu tập. Từ
thệ nguyện của Đức Phật, liên hệ với con đường mà chúng ta đã và đang
chọn hiện nay, có thể nhận ra những bất cập do vì không kiên định. Bởi
lẽ, trong những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy, mỗi pháp hành có những
yêu cầu khác biệt nhau, sự dao động trong pháp môn tu đôi khi phải trả
giá bằng thời gian của cả đời người. Hơn thế, sự khác biệt giữa chúng
sanh và Bồ-tát liên quan thâm thiết đến chuẩn mực kiên định này. Vì lẽ,
trước hiện thực đau khổ, cả hai đều phát nguyện như nhau, tuy nhiên,
yếu tố căn bản tạo nên sự khác biệt, chính là sự kiên định của mỗi bên.
Trong
cuộc sống đời thường, kiên định rất cần trong mọi mối quan hệ. Trong
bối cảnh này, chuẩn mực kiên định có thể được hiểu là tấm lòng trung
thành, chung thủy, sắt son với tổ chức, với bạn bè, với người phối
ngẫu. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong kinh Tăng
chi: Chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một
người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được(23). Đây
là một khái quát thấm đẫm trí tuệ của bậc Giác ngộ. Vì lẽ, phẩm chất
đạo đức của con người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Câu
chuyện một dạ thờ chồng của Công chúa Yashodhara được ghi lại trong
kinh Tiểu bộ(24) là hình ảnh tuyệt mỹ về đạo lý chung thủy, sắt son của
người phụ nữ theo chuẩn mực đạo đức Phật giáo.
Dù trên
bước đường tu hay trong thực tiễn đời sống, chuẩn mực đạo đức kiên định
luôn được ca ngợi và vinh danh. Kiên định là dấu son trong phẩm hạnh
cần có của một con người.
5. Không phóng dật
Trong
những lời dặn dò thống thiết của Đức Phật trước khi Niết-bàn, thì
không phóng dật là huấn thị thấm đẫm yêu thương(25). Không phóng dật là
không buông lung, không chạy theo dục vọng, siêng năng tu tập các pháp
lành. Đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng, được đề cập trong nhiều bản
kinh.
Theo kinh Tăng chi, không phóng dật là một pháp
được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai lợi ích: lợi
ích hiện tại và lợi ích trong tương lai(26). Chỉ một pháp nhưng tác
dụng không chỉ một đời, đủ thấy sự diệu dụng của pháp ấy to lớn đến mức
nào. Kinh Tăng chi vừa dẫn còn sử dụng nhiều hình ảnh ấn tượng để biểu
thị cho hạnh không phóng dật: như dấu chân voi, có thể dung nhiếp các
dấu chân, như một ngôi nhà nóc nhọn thì mọi rui, kèo đều hướng về, như
ngắt một chùm xoài thì các trái xoài đều nằm gọn trong tay, như vua
Chuyển luân thì nắm quyền các vương quốc phụ thuộc, như ánh sáng của
mặt trăng thì hơn hẳn những vì sao… Không những thế, các bản kinh quan
trọng như kinh Pháp cú(27), kinh Tương ưng(28), kinh Tập(29)… đều ca
ngợi phẩm chất đạo đức không phóng dật.
Trên phương diện
tu tập, không phóng dật là yếu tố quyết định sự thành công của mọi pháp
hành. Vì lẽ, thu thúc lục căn, không chạy theo ngũ dục là nghĩa thứ
nhất của không phóng dật. Hình ảnh con dã can gầy gò chực chờ con rùa
cử động được ghi lại trong kinh Tương ưng(30) là ẩn dụ sinh động về
việc thu thúc các căn. Bởi lẽ, chỉ cần con rùa thò bất cứ một thân,
phần nào ra, thì dã can sẽ tóm lấy. Do vậy, không phóng dật còn mang
nghĩa tồn vong không những trong tu tập mà liên quan đến mọi dạng thức
sinh tồn. Ở phương diện thứ hai, không phóng dật đồng nghĩa với tinh
tấn, là siêng năng. Cần phải thấy, nhận thức được việc lành là điều
quan trọng tuy nhiên đưa nhận thức vào thực tiễn đời sống là do bởi
siêng năng. Siêng năng tạo nên sự thăng hoa, thành công trong mọi lãnh
vực và là quán hạnh dung thông giữa pháp thế gian và pháp xuất thế.
Nếu
coi quá trình tu tập và mọi sự thành công trong cuộc đời là những cỗ
xe, thì không phóng dật là động lực cơ bản, không những giữ gìn cỗ xe
đó không nghiêng, đổ, mà còn đưa cỗ xe tiến về phía trước.
6. Nhẫn nhục
Nhẫn
nhục là sự chịu đựng, chấp nhận những khổ đau, bức bách, hủy nhục, khó
chịu… do các điều kiện bên ngoài đem đến, nhưng tâm tư vẫn an tịnh.
Đây là một phẩm chất đạo đức được thể hiện trong nhiều cấp độ. Trong
kinhTrung bộ, hình ảnh kẻ đạo tặc dùng cưa, cưa tay chân nhưng hành giả
vẫn không khởi sân tâm hay phẫn, não(31), là sự thể hiện của một phẩm
chất nhẫn nhục cao tột. Phật giáo Đại thừa xem nhẫn nhục là một trong
sáu hạnh quan trọng của con đường Bồ-tát.
Trước hết, trước
những thách thức của điều kiện tự nhiên cũng như những tác động của
con người, muốn tồn tại, cần phải biết an hòa và nhẫn nhịn. Tức là tạm
an với điều kiện sống tự nhiên và nhẫn nhịn trong sự va đập, tương tác
với môi trường xã hội. Nhẫn để mà sống chính là nghĩa này. Kinh Tăng
chi còn gọi đó là kham nhẫn: có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã
nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ
đã gây lộn. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn(32).
Thứ
hai, trong cuộc sống đời thường, đôi khi nhằm chuyển hóa người, thì
nhẫn nhục cần thể hiện trong giới hạn nhất định. Câu chuyện quỷ dạ xoa
Alavaka được ghi lại trong kinh Tập(33) là một ví dụ điển hình. Chuyện
kể rằng, một độ nọ, Đức Phật đang ở tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Dạ
xoa Alavaka yêu cầu Đức Phật đi ra, Đức Phật hoan hỷ đi ra; dạ xoa lại
yêu cầu Đức Phật đi vào, Ngài vẫn chấp nhận thực hiện. Đến lần thứ tư,
Đức Phật không thực hiện theo yêu cầu của dạ xoa, kiên quyết bảo: Này
Hiền giả, Ta sẽ không đi ra. Ông cần gì thì hãy làm đi?(34). Ba lần đi
ra, đi vào theo yêu cầu tinh quái của quỷ dạ xoa, đủ thấy Đức Phật đã
ứng xử nhẫn nhịn nhuần nhuyễn đến mức nào.
Thứ ba, nhẫn
nhục là sức mạnh. Sức mạnh đây chính là sức mạnh làm chủ bản thân mình.
Vì một khi thực hiện được hạnh nhẫn nhục, chứng tỏ một năng lực tu tập
hùng mạnh. Nhờ năng lực đó, mới có thể kiểm soát tâm mình. Vì chiến
thắng bản thân mình là chiến công oanh liệt nhất(35). Con đường thực
tập để có sức mạnh này bắt đầu bằng sự mở rộng tâm, trải tâm như đất
như Đức Phật đã dạy Rahula trong kinh Trung bộ(36).
Nhẫn
nhục là nhịn được những điều khó nhịn mà tâm vẫn an ổn, tuy là chuẩn
mực đạo đức, nhưng mang ý nghĩa như một kỹ năng sống hướng thượng,
thanh cao.
7. Biết ơn
Biết
ơn được hiểu ở đây bao hàm cả việc báo ơn. Theo kinh Tăng chi, người
biết ơn là một trong hai hạng người khó tìm được ở đời(37). Trong liên
hệ duyên khởi, để hình thành con người, thì phải thọ nhận nhiều công
ơn. Trong vô vàn những công ơn, theo kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa
quán, phẩm Báo ân(38), thì có bốn ơn cơ bản: ơn cha mẹ, ơn những người
liên hệ quanh ta, ơn quốc gia và ơn Tam bảo.
Sự hiện sinh
của một con người là do cha mẹ. Từ việc kế thừa nền tảng vật chất, cho
đến nuôi dưỡng, kiện toàn tri thức, dựng vợ gả chồng, trao của thừa tự
và hướng con về đường lành. Thực sự, khó có thể kể hết cũng như báo đáp
công lao của cha mẹ. Nói như kinh Tăng chi: nếu một bên vai cõng mẹ,
một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi… cũng
chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha(39).
Kế đến, với một
người bình thường, sở dĩ vững vàng về kiến thức, vững chãi trong địa
vị, thuận lợi trong nhịp mưu sinh, an tâm và an toàn trong đời sống… là
do sự hỗ trợ của nhiều người: từ thầy tổ, thân hữu, láng giềng, dòng
họ... Nhận thức rõ về các công ơn đã thọ nhận, là thái độ sống đúng mực
của một người trưởng thành.
Thứ ba, được sống và sống ổn
định, an toàn là phước báo của con người. Vì một khi môi trường sống
được đảm bảo, thì hạnh phúc mới vững bền và có thể an tâm hoàn thành sở
nguyện. Sự đảm bảo về môi trường sống là do sự quan tâm, nỗ lực và hy
sinh của giới chức lãnh đạo quốc gia. Nhận thức đúng về điều này để
hành xử cho hợp lẽ, là tâm thế đúng mực.
Cuối cùng, sở dĩ
hiểu được bản thân, nhận ra con đường hạnh phúc, có được phương tiện
phù hợp với điều kiện nghiệp lực của mình, là do diệu hạnh của Tam bảo.
Nếu như cha mẹ, bạn bè, thầy tổ, quốc gia có thể giúp ta vơi khổ và
hạnh phúc trong một đời, thì Tam bảo có thể giúp ta vĩnh viễn thoát khổ
và an lành trong nhiều kiếp. Và do vậy, người đệ tử Phật phải nhớ ơn
và nỗ lực báo đáp thâm ân Tam bảo.
Biết ơn là chất liệu
dệt nên phẩm hạnh của một con người. Nhận thức đúng và đầy đủ về các ơn
cũng như nỗ lực báo đáp bằng những gì có thể, là chuẩn mực đạo đức tối
cần của một người học Phật.
8. Buông xả
Buông
xả là nghệ thuật ứng xử trong các mối quan hệ, là sự buông bỏ những ý
nghĩ mừng vui, lo khổ đồng thời nỗ lực từ bỏ các tật xấu tích lũy từ
nhiều đời.
Trước hết, lo nghĩ thường gắn với phiền muộn,
nhất là lo nghĩ vẩn vơ, không liên hệ đến thiện pháp. Buông bỏ mọi điều
lo nghĩ, sống với thực tại hiện tiền thì hạnh phúc gõ cửa. Điều này
được Đức Phật chỉ dạy trong kinh: Quá khứ không truy tìm/ Tương lai
không ước vọng/ Quá khứ đã đoạn tận/ Tương lai lại chưa đến/ Chỉ có
pháp hiện tại/ Tuệ quán chính ở đây(40).
Trong thực tế
đời sống, đôi khi cũng khó tránh khỏi việc lo nghĩ về những điều do
cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, học cách buông bỏ những điều nhỏ nhặt, thì
đôi khi gặt hái những kết quả lớn lao. Biết buông bỏ, biết hy sinh là
tiền đề dẫn đến mọi sự thành tựu. Câu chuyện chú khỉ trong kinh Tiểu
bộ(41), vì hốt hoảng lo tìm hạt đậu bị đánh rơi, nên đã buông tay đánh
rơi cả nắm đậu, là ẩn dụ sinh động về trường hợp này.
Không
những thế, biết cách buông bỏ những ký ức liên hệ đến khổ đau là một
liệu pháp điều phục tâm tích cực. Vì có những chuyện u hoài xảy ra
trong quá khứ xa xưa, nhưng tâm tư cứ giữ chặt, và nỗi đau đôi khi tái
hiện về, làm cho người quằn quại, tái tê. Buông xả những chuyện không
hay là một trong những cách thức giữ gìn nhựa sống cho chính mình.
Hạnh
buông xả còn là một dạng thức biểu hiện cho tâm thương yêu. Vì lẽ, nhờ
buông xả nên dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người, tạo cho kẻ có lỗi một
cơ may để phục thiện. Buông xả còn giúp người ta trở nên rộng rãi,
không ích kỷ, nhỏ nhen: Các sở hành của mình/ Không nhỏ nhen vụn
vặt(42). Nhờ hạnh buông xả, nên tâm bố thí được khởi sinh. Nói theo kinh
điển, nhờ buông xả, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ
dàng, bàn tay rộng mở(43). Ngoài ra, buông xả còn là an trú tâm với
những gì hiện có. Biết cách buông bỏ những đòi hỏi không hợp lý, là một
trong những cách thức để đem đến sự an ổn đời thường.
Muốn
có được một cuộc sống đúng nghĩa và trọn vẹn thì phải học cách buông
bỏ, xả ly. Buông xả không những giúp thanh lọc tâm, mà còn là phương
thức vươn lên bằng cách từ bỏ những hiểu biết bất toàn, khiếm khuyết.
9. Dấn thân
Dấn
thân là sự phát tâm vì lợi ích của tha nhân, trong một số trường hợp
phải chấp nhận sự hy sinh, mất mát. Dấn thân là hành động mang tâm
nguyện Bồ-tát, vì đó là sự phát tâm đem lại lợi ích cho nhiều người.
Dấn
thân là phát tâm Bồ-đề, được dẫn khởi từ sự lập nguyện, phát tâm.
Vì nguyện lập thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì Phật đạo có thể
thành(44). Ở nghĩa này, Đức Phật là minh chứng cao cả cho sự lập nguyện,
dấn thân: Ta mang cỏ munja/ Vững thay, đây đời sống/ Thà Ta chết chiến
trận/ Tốt hơn, sống thất bại(45). Công cuộc tự chuyển hóa mình cũng
đồng thời là một quá trình nỗ lực, dấn thân.
Dấn thân là
hành động mang tâm nguyện Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và
lắm khổ đau, người mang tâm nguyện Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có
thể, nhằm làm vơi khổ cho đời. Dấn thân không đồng nghĩa với sự liều
mạng, quên thân. Dấn thân theo chuẩn mực Phật dạy phải dựa trên cơ sở
của sức mạnh, tình thương và trí tuệ. Chỉ có như vậy thì sự dấn thân
mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những tổn thất không đáng có trong khi
thực thi hạnh nguyện giúp đời.
Đạo Phật mang nghĩa vị
tha, và dấn thân là một biểu hiện tạm quên đi bản ngã. Dấn thân là sự
tận hiến cho đời mà không nghĩ về tư lợi. Trong nhiều cách thức nhiếp
hóa mọi người được đề cập trong kinh Duy Ma Cật(46), thì việc làm lợi
lạc cho tha nhân (Lợi hành nhiếp) có ý nghĩa ưu thắng. Hình ảnh một cây
hương tự đốt cháy mình có thể hiểu ở nhiều nghĩa, nhưng việc dâng tặng
cho đời sự thơm thảo, là sự thực được ghi nhận từ cây hương. Qua những
nét sơ phác về cuộc đời Đức Phật, từ nhiều kiếp sống trong 547 chuyện
tiền thân, cho đến bốn mươi lăm năm thuyết giảng sau khi Thành đạo, là
một thiên trường ca bất tận về hạnh nguyện dấn thân: vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người(47).
Một
khi sở dục đang lên ngôi, cái ác đang chờ chực, ngấp nghé, thì cuộc
đời cần lắm sự lập nguyện, dấn thân. Dấn thân biểu lộ của dũng khí, lưu
xuất từ cơ sở tâm thương yêu và thể hiện bằng con mắt tuệ. Chỉ có như
vậy hạnh dấn thân mới đem đến hạnh phúc, an lạc cho nhiều người.
10. Tiết tháo
Tiết
tháo là khí tiết, là danh dự và phẩm vị của con người. Sống đúng với
chuẩn mực đạo đức cơ bản của một con người, theo những nguyên tắc đạo
đức làm nền tảng nào đó, được gọi là tiết tháo.
Phẩm chất
của một con người gồm một cái tên để phân biệt, cộng với những phẩm
hạnh đạo đức tương ưng. Giữ gìn phẩm hạnh đạo đức riêng có đồng nghĩa
với việc giữ gìn tiết tháo. Một khi phải sống trong sự tương giao, đối
đãi, khi chuyện nhục vinh, danh lợi vẫn có khả năng chi phối con người,
thì việc giữ gìn tiết tháo là vấn đề mang nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân
văn. Trong hệ quy chiếu tương đối của đạo đức thế gian, thì tiết tháo
vẫn đóng một vai trò quan trọng. Không nên lẫn lộn giữa các hệ quy
chiếu khác nhau để xét đoán vấn đề.
Trong kinh Tiểu bộ,
câu chuyện con sư tử bị làm nhục chứa đựng nhiều giá trị tham khảo(48).
Chuyện kể rằng, có một con sư tử cái sống gần hang của chó rừng. Một
ngày nọ, hội đủ nhân duyên, chó rừng ngỏ lời cầu hôn sư tử. Buồn bực và
uất ức vì lời cầu hôn vô lễ, sư tử cái định lấy cái chết để rửa nỗi
nhục kia. May mắn được gặp được sư tử em, là tiền thân Đức Phật, đã tận
tình giải bày, nên sư tử chị đã vượt qua tình trạng khó xử đó. Có thể,
câu chuyện chỉ là liên hệ gợi mở, nhưng qua đó cho thấy sự quý trọng
tiết tháo đôi khi còn quan trọng hơn cả sinh mạng của chính mình.
Mỗi
con người, mỗi chúng sanh sở hữu những phẩm vị tương ứng. Vì danh phải
tương xứng người(49). Từ kẻ thứ dân cho đến nam nữ, Sa-môn, Bà-la-môn
đều có những phẩm vị đạo đức cơ bản. Sống đúng theo những chuẩn mực này
được gọi là sống có tiết tháo. Kinh Tương ưng đã đưa ra một khái quát
đầy giá trị về tiết tháo:Giữa các loài hai chân/ Chánh giác là tối
thắng/ Giữa các loài bốn chân/ Thuần chủng là tối thắng/ Trong các hàng
thê thiếp/ Nhu thuận là tối thắng/ Trong các hàng con trai/ Trung
thành là tối thắng(50). Có thể cần bổ chính thêm vài điều trong những
phẩm vị vừa dẫn, nhưng ít ra qua đó đã cho thấy rằng, tiết tháo là điều
rất mực quan trọng trong việc định hình nên phẩm chất của con người.
Tạm kết
Đạo
đức là chất liệu tạo nên những hệ giá trị riêng có của con người và xã
hội loài người. Đạo đức Phật giáo ngoài những nguyên tắc siêu thế,
thanh cao, còn bao hàm những chuẩn mực thiết thực, không khô cứng, có
thể kiểm nghiệm hiệu năng ngay bây giờ và tại đây. Mười chuẩn mực đạo
đức vừa nêu tuy chưa phải là tất cả, nhưng nếu như được thực thi, thì
nhất định quả ngọt sẽ đong đầy.
Chú thích
(1) Kinh Tăng
chi, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của Trời, kinh Kiêu mạn. Nguyên
văn: kiêu mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh, kiêu mạn của sự
sống.
(2) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Rắn.
(3) Kinh Trung bộ, tập 1, Tiểu kinh Saccaka, số 35.
(4) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Người nô lệ Katahaka, số 125
(5) Cullavagga,
chương 6, Sàng tọa, tụng phẩm thứ hai, chuyện Chim đa đa, khỉ và
voi, đoạn 262. Xem thêm, kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền thân Đức
Phật, chuyện Con chim trĩ, số 37.
(6) Cullavagga, Sách đã dẫn, bài kệ về sự kính trọng, đoạn 263.
(7) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Thế nào là giới.
(8) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Nalaka.
(9) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 四 冊 No. 1836, 大 乘 百 法 明 門 論 解.
(10) Xem, Bài văn khuyến khích phát tâm Bồ-đề, HT.Trí Quang dịch, bản ấn tống, 1997.
(11) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 五 冊 No. 1910, 慈 悲 水 懺 法 卷 下.
(12) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(13) Kinh đã dẫn.
(14) Kinh đã dẫn.
(15) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo giới La Hầu La ở Am Bà La, số 61.
(16) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy, chương Hai pháp, phẩm 2.
(17) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh An trú tầm, số 20.
(18) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(19) Xem, Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Đặt hướng và trong sáng, kinh Tâm đặt sai hướng.
(20) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(21) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy.
(22) For
the first time edited in the original Pali by Y Fausboll, and
translated by T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories or, Jataka Tales.
The oldest collection of folk-lore extant: Being the
Atakatthavannana. Volume I, London, 1880, p. 96. “My skin, indeed, and
nerves, and bones, may become arid, and the very blood in my body may
dry up; but till I attain to complete insight, this seat I will not
leave!
(23) Kinh Tương ưng, tập 1, chương ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, kinh Bện tóc.
(24) Kinh Tiểu bộ, tập 8, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Đôi ca thần Canda, số 485.
(25) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16.
(26) Kinh Tăng chi, chương Sáu pháp, phẩm Dhammika, kinh Không phóng dật.
(27) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Không phóng dật.
(28) Kinh Tương
ưng, tập 1, phẩm Thứ hai, kinh Không phóng dật, tập 5, thiên Đại phẩm,
chương 1, Tương ưng đạo, phẩm Không phóng dật.
(29) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Đứng dậy; kinh Bại vong.
(30) Kinh Tương ưng, tập 4, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần g, kinh Con rùa.
(31) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ cái cưa, số 21.
(32) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Đạo hành, kinh Kham nhẫn.
(33) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(34) Kinh đã dẫn.
(35) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Ngàn, câu 103.
(36) Kinh Trung bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62.
(37) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng.
(38) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 159, 大 乘 本 生 心 地 觀 經, 卷 第 二, 卷 第 三.
(39) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Tâm thăng bằng, kinh Đất.
(40) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Nhất dạ hiền giả, số 131.
(41) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Một nắm đậu, số 176.
(42) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Từ bi.
(43) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.
(44) Đại sư Thật Hiền, Phát Bồ-đề tâm văn, HT.Trí Quang dịch, bản ấn tống 1997, tr.30.
(45) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Tinh cần.
(46) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 十 四 冊 No. 474, 維 摩 詰 所 說 經, 善 權 品 第 二.
(47) Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Một người, kinh Như Lai.
(48) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Con chó rừng, số 152.
(49) Kinh Tương
ưng, tập 1, chương 7, Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất,
kinh Bất hại - Ahimsaka.(50) Kinh Tương ưng, tập 1, thiên có kệ, Tương
ưng chư Thiên, phẩm Vườn hoan hỷ, kinh Giai cấp Sát-đế-lỵ.