Kho
tàng kinh điển, thi kệ của Đạo Phật truyền lại cho nhân gian biết bao
châu ngọc để suy ngẫm, tu tập, thưởng thức, mài giũa … tùy căn cơ, nhu
cầu và cảm quan nhận thức của mỗi người.
Có hành giả đang thối chí, tụng một bản kinh đúng tâm trạng mình, bỗng
như chạm được vào bàn tay phải, luôn buông thõng xuống của Đức Phật A Di
Đà trong ngụ ý sẵn sàng cứu vớt, độ những ai cầu được độ. Hành giả ấy
bỗng lấy lại sự tinh tấn, khiến tiếng chuông ngân vang lảnh lót hơn,
nhịp mõ khoan nhặt rộn rã hơn, phiền muộn như lớp vỏ sần sùi vừa lột
sạch, trái ngon, hạt chín thơm tho hiển bầy.
Có kẻ đang khổ đau, tình cờ nghe, hay
đọc một câu kệ, bỗng cảm thấy như câu kệ này Chư Phật, Chư Bồ Tát nói
cho riêng mình vì rất đúng với những khổ đau đang vò xé tâm can. Kẻ ấy
chợt như tỉnh cơn mộng dữ, như được Phật xoa đầu thọ ký, ân sủng vô bờ,
liễu ngộ ngay một giai thoại mà trước đây đã khó tin. Kẻ ấy từng được
nghe, khi xưa, tại tu viện Trùng Các trong rừng Mahavana, có lần Đức
Phật cúi nhặt một hòn đất nhỏ, rồi hỏi các đệ tử của Ngài:
- Này các vị tỳ-kheo, hòn đất này so với ngọn núi thì cái nào lớn hơn?
Đệ tử của Ngài đều thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn, hòn đất này thật chẳng đáng gì được mang so với ngọn
núi vì nó quá nhỏ.
Đức Phật điềm đạm chỉ dạy:
- Đúng thế, này các vị tỳ-kheo, sự khổ đau của người có trí tuệ, có tu
tập so với sự khổ đau của kẻ vô trí cũng giống như mang so sánh hòn đất
và ngọn núi. Người có trí tuệ, có thiền định, quán chiếu về sự giác ngộ,
nếu trên đường đi mà gặp phải chông gai, phiền não thì sự khổ đau đó
cũng nhờ năng lượng tu tập mà dễ dàng vượt qua, vì nó quá nhỏ, như hòn
đất. Trong khi, cũng những phiền não, chông gai đó, đối với kẻ vô trí,
không từng tu tập, sẽ to như ngọn núi, chẳng bao lâu sẽ bị ngọn núi đó
đè bẹp.
Lại có những người chẳng ác, chẳng thiện, tuy không làm hại ai nhưng
cũng chẳng chia xẻ, chẳng giúp ai, chỉ lo riêng mình. Ấy thế mà suốt đời
tất bật, chỉ “chạy” mà chưa từng biết “đi” vì cái tâm vị kỷ, vun vào
cho mình bao nhiêu cũng sợ là không đủ, như một văn hào Pháp từng nói:
“Kẻ có quyền lực lớn nhất lại chính là kẻ không bao giờ cảm thấy mình có
đủ quyền lực!”. Loại người này, nếu đủ duyên, tình cờ trong lúc “chạy”
lại lạc vào một thiền viện, thấy trên những thân cây có giòng chữ “Bộ bộ
thanh phong khởi” nghĩa là, mỗi bước chân chánh niệm sẽ khởi lên ngọn
gió mát. Kẻ ấy sẽ chạy chậm lại, và thắc mắc “Bước chánh niệm là bước
thế nào? đã lỡ lạc vào đây thì cũng thử xem sao” À, bước chánh niệm là
biết mình đang bước, chân mình đang chạm đất, mắt đang nhìn mây bay, tai
đang nghe chim hót, mình đang thở, mình đang sống, mình đang có phút
giây hiện tại này để nhận biết như thế. Mình bước rất thảnh thơi, mây
rất trong xanh, chim hót rất hay, hơi thở mình rất điều hòa, khỏe mạnh.
Lạ thật, trước đây mình cũng bước, cũng thấy, cũng nghe, cũng thở nhưng
sao mình không cảm nhận sự an lạc này? À, thì ra, mình chỉ vác quá khứ,
chạy đuổi tương lai mà không biết bước đi thong dong trong hiện tại !
Trong khi, hiện tại này rồi sẽ là quá khứ và cũng chính là tương lai. Có
người từng nhắc mình là Thiền-sư Lâm Tế đã nói “ phép lạ là biết mình
đang đi trên mặt đất chứ phép lạ có là gì ghê gớm đâu!”
Thật là mầu nhiệm, khi ta không cần gián đoạn sinh hoạt, chỉ cần nhận
biết giây phút hiện tại ta đang làm gì, nói gì, nghe gì, thấy gì, rồi sẽ
hành xử thế nào với những hiển hiện trong phút giây hiện tại ấy. Khi đã
biết dừng lại, ta mới nhận diện được những sai lầm đối với mình, với
người mà trước đây, vì chỉ nhắm mắt chạy, ta đã chẳng nhận diện được
chúng!
Khi những tri thức sai lầm đã được nhìn ra rồi, ta sẽ biết thương mình,
thương người, vì vô minh che lấp mà để tâm vị kỷ, sân hận dẫn dắt đi,
khiến chúng ta tưởng là thương yêu nhau mà thực ra đang tạo nghiệp, gây
đau khổ cho nhau!
Khi biết đủ thì chén cơm hẩm cũng no; mà không biết đủ thì mâm cao cỗ
đầy cũng vẫn đói!
Thật là mầu nhiệm, khi những câu thơ
ngày xưa đã thuộc vì đến trường thì phải học, chứ chẳng hưởng được gì từ
ý nghĩa sâu sa:
“Chùa xưa ở lẫn
cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây
Chuông trưa vẳng tiếng, người không biết
Trâu thả sườn non, ngả gốc cây” (*)
Ngôi chùa là vật vô tri, còn thanh
thản ở lẫn cùng cây đá, huống là Sư Cụ, đã buông xả hết vướng bận thế
gian, tâm-từ nhẹ hẫng mới có thể “nằm chung với khói mây”. Hạnh phúc
này, tâm ai có chiêu cảm thì đều nhận được, chẳng phân biệt giầu nghèo
sang hèn. Vua trong cung mà tham sân, tất bật cũng chẳng thấy, nhưng chú
bé mục đồng nhận được thì chăn trâu dù nghèo hèn vất vả nhưng tâm thức
thênh thang “trâu thả sườn non, ngả gốc cây”, đánh một giấc ngủ nam-kha
ấy, nào ai biết chú mục đồng đã lên tới cung trời Đao Lợi?
Nếu cứ quán chiếu từng bước như thế,
nhân gian tất bật, sân si sẽ trở thành hành giả lúc nào không hay! Thảng
hoặc như tôi, kẻ vô minh lần mò trong bóng tối sân hận, đọc lại câu kệ
từng đọc nhiều lần, bỗng lóe chút ánh sáng từ một NIỆM chân thực, nên
chợt hình dung rõ chữ Niệm của Hán-tự gồm chữ Kim ở trên và chữ Tâm ở
dưới. Niệm là mang tâm mình về với phút giây hiện tại. Phút giây này,
thật thấm thía khi tôi niệm bài kệ đã từng thuộc mà trước đây chẳng hiểu
gì! Bài kệ như sau:
“Bồ Tát thanh
lương nguyệt
Du ư tất cảnh không
Chúng sanh tâm cấu tận
Bồ Đề ảnh hiện trung”
Bài kệ rất phổ biến nên đã có nhiều
bản dịch từ nhiều dịch giả.
Trong phút bất chợt chiêu cảm này, tôi để lòng mình thanh thản, buông
lơi và bắt gặp nhân dáng nhu hòa, lời giảng nhẹ nhàng, thâm trầm nhưng
rất uyên bác của vị giảng sư tôi từng quý trọng. Đó là Thượng Tọa Thích
Phước Tịnh.
Khoanh chân ngồi bán già trước bàn thờ
Phật, tại Cốc Thảnh Thơi, tôi hình dung rất rõ vị giảng sư hiền hòa
đang từ bi đọc bài kệ bằng Hán-tự, rồi giảng bằng bài dịch của thiền sư
Nhất Hạnh:
“Bụt là vầng
trăng mát
Đi ngang trời- thái- không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng hiện bóng trong ngần”
Chỉ thế thôi! Như-thị, như-thế thôi!
“Bụt là vầng trăng mát. Đi ngang trời thái không” Nếu “ Hồ tâm chúng
sanh lặng” để đi theo được bước chân Bụt, nghĩa là “Đi ngang được trời
thái không” thì sẽ bắt gặp bản tâm trong sáng của chính mình.
Vậy, làm thế nào để tâm thế gian xuẩn động như tôi đi ngang được trời-
thái-không? Chắc chắn, trời-thái-không trong bài kệ này không phải là
bầu trời mà nhục nhãn thế nhân vẫn thường nhìn thấy vì bầu trời đó vẫn
còn cái giới hạn mơ hồ gọi là “chân trời”, hàm ý, tới cái điểm chân trời
đó là hết bầu trời!
Trời còn có điểm tới là chân trời, vậy, biển cả mênh mông chắc là rộng
lớn hơn? Không đâu! Biển, tưởng là vô bờ bến nhưng vẫn còn nơi gọi là
“Góc biển”.
Chỉ những phương trời trăng sao đến không chờ, đi không hẹn mới vô thỉ,
vô chung, không có bắt đầu, không có kết thúc. Cuối đêm là đầu ngày, hay
ngày là đêm không tận? Phương trời đó sẽ hiển hiện khi tâm thế gian
không còn hận thù, nợ nần, vay trả … Nhưng Phật dạy, còn chúng sanh là
bởi vòng luân hồi còn quay, nghiệp thiện nghiệp ác do chúng sanh tạo ra
còn theo nhau như bóng với hình nên chẳng thể hết tìm nhau để ân đền oán
trả; trừ khi, do việc lành tích tụ, phước đức vun bồi, tin và nhận là
có nhân có quả, biết sợ nghiệp báo mà hết lòng sám hối, gạn lọc thân tâm
để được tâm như tâm Phật, hạnh như hạnh Phật mới mong độ mình, độ
người, vượt thoát khỏi luân hồi sanh tử.
Vậy, đi tìm trời-thái-không là đi đâu để tìm?
Chắc chắn, muốn đến khung trời này không thể đi bằng đôi chân mà phải đi
bằng tâm nhiệt thành, ý phát nguyện, tìm cầu hướng thượng, không thôi
không nghỉ, thế nào cũng có phút cảm nhận an lạc tràn đầy, như căn nhà
triền miên tăm tối, bất chợt, một ngọn nến rực rỡ thắp lên, bóng tối lập
tức bị đẩy lui, biến mất.
Khi ấy, đâu cũng là trời-thái-không
vằng vặc bóng trăng soi tỏ nơi hồ tâm chúng sanh đã trong veo, tĩnh
lặng.
Huệ Trân