Ontario, Canada – Nhiều người diễn giải Phật xem Đạo Phật là vô số
triết học và tôn giáo được biết đến nhiều từ cổ xưa. Chắc chắn Phật
giáo là một môn triết học thực tiễn và có ý nghĩa cho đến hiện nay.
Môn triết học này thiết lập một hệ
thống trị liệu rộng rãi. Trong phạm vi ấy Đức Thế Tôn là một nhà tâm
lý trị liệu vô song. Nhìn chung, Tâm lý trị liệu có nghĩa là sự điểu
trị về rối loạn cảm xúc, thái độ cá nhân chủ yếu dựa vào sự giao tiếp
bằng lời nói hay không lời. Đức Phật là một nhà chữa bệnh vô song, giúp
vô số người vượt qua căng thẳng, rắc rối về cảm xúc, và hòa giải làm
cho các mối quan hệ trở nên thân thiện hơn.
Bác sĩ Sigmund Freud đã giới thiệu Phương pháp Trị liệu Phân tích
Tâm lý. Phương pháp Trị liệu Phân tích Tâm lý liên quan đến tìm hiểu và
thảo luận về quá khứ và nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện tại, cũng
như quá khứ là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng hiện tại như thế
nào. Sự thấu hiểu đạt được giúp cho chúng ta dự đoán gần đúng về những
gì sẽ xảy ra trong tương lai. Phân tích tâm lý là cố gắng thấu hiểu đến
tận gốc rễ của vấn đề bằng cách phân tích mối quan hệ , sự chuyển động
linh hoạt giữa phương pháp trị liệu và bệnh nhân.
Đức Phật đã thực hiện hoàn chỉnh 1 dạng về phân tích và tìm thấy
nguyên nhân gây ra phiền não, sau đó chữa trị thành công nỗi khổ đau tâm
lý đặc thù và đưa đến sự giải thoát tinh thần hoàn toàn cho con người.
Trong sự phân tích này Ngài đã đi vào những đời sống quá khứ. Trị liệu
bằng đời sống của quá khứ gọi là sự trị liệu hồi quy.
Ngày nay, Trị liệu Đời sống Quá khứ (PLT) rất phổ biến ở thế giới
phương Tây và nó cho phép bệnh nhân giải quyết những vấn đề quá khứ
trong một phương pháp trị liệu lâm sàng. Nhà trị liệu đời sống quá khứ
nổi tiếng nhất của phương Tây là Edgar Cayce đã chữa cho hơn 14.000
người bằng phương pháp “đoán” trong thời gian bốn mươi ba năm. Edgar
Cayce đã chứng minh khả năng kỳ bí và đặt mình vào trong một loại giấc
ngủ tự điểu khiển, trong lúc ấy ông có thể trả lời những câu hỏi do
những bệnh nhân của ông ta đặt ra về bệnh tình của họ.
Trị liệu Nhận thức dựa trên khả năng "quán chiếu" vào trong tiềm
thức của cảm xúc và đưa đến sự tập trung cho tư tưởng, tính tình và lòng
tin. Albert Ellis của trị liệu cảm xúc hợp lý là một ví dụ của liệu
pháp nhận thức. Ellis xem xét những "cảm xúc mạnh" có được từ tương tác
giữa sự kiện ngoại cảnh-niềm tin- sự mong đợi.
Quan điểm của Phật giáo, đau khổ không phải do bởi những sự kiện
khổ não ngoại tại, mà xuất phát từ tâm thức, tâm thức định hình nhận
thức của chúng ta và phản ứng lại ngoại cảnh. Những từ ngữ giống như
thế được nhà Tâm lý học Albert Ellis lặp lại năm 1953, khi ông giới
thiệu phương pháp tiếp cận trị liệu của ông – Phương pháp Trị liệu Cảm
xúc Lý trí. Theo Ellis : không phải những sự kiện làm nên những nổi
buồn khổ tâm lý mà ông tin rằng đó là do nơi bệnh nhân chấp trước. Ông
tranh luận xa hơn rằng cảm xúc buồn khổ của một người thật sự do nơi suy
nghĩ thảm thương của họ. Lý thuyết của Ellis cho rằng họ nhìn nhận về
khổ đau là không đúng với thực tại và căng thẳng tâm lý phát sinh từ sự
chấp trước đó.
Nhà tâm lý học Aaron T. Beck – nhà phát huy Phương pháp Trị liệu
Thái độ Nhận thức (CBT) nhấn mạnh vai trò của sự bóp méo nhận thức trong
chán nản và băn khoăn. (CBT) là một trong những định hướng lớn của
tâm lý trị liệu và đại diện cho một thể loại độc đáo của việc chữa trị
những bệnh về tâm lý bởi vì nó xuất phát từ nhận thức và hành vi tâm lý
của con người.
Đức Phật đã dùng vô số loại phương pháp trị liệu nhận thức. Trong
câu chuyện của Kisagotami, Đức Phật đã dùng một kiểu nhận thức về hành
động để đánh thức tuệ giác nội quán trong bà mẹ trẻ vừa mất đứa con trai
bé nhỏ. Bà vừa bị suy sụp tinh thần với đau buồn thương tiếc kinh
khủng. Bà đến gặp Đức Phật mang theo xác đứa con trai và thỉnh cầu
thuốc phục sinh cho đứa con của bà. Đức Phật đã nói với bà hãy đi xin
một số hạt cải trong một ngôi nhà chưa từng có người nào chết.
Kisagotami đã đi từ nhà này đến nhà kia nhưng không thể tìm ra một ngôi
nhà nào mà chưa từng có sự chết. Bà dần dần phát sinh nội quán tỉnh
thức và nhận thấy ý nghĩa của sự chết. Bà nhận ra sự chết là một hiện
tượng phổ biến.
Đức Phật thường dùng Phương pháp Socrates để dạy giáo thuyết của
Ngài. Socrates (470-399) là một triết gia Hy Lạp, người đã tham gia hỏi
đáp với học trò của mình trong sự tìm kiếm bất tận cho chân lý. Ông đã
tìm kiếm để đạt đến những quan niệm nền tảng của học trò và những đồng
nghiệp của ông bằng những câu hỏi liên tục cho đến khi sự mâu thuẫn bùng
nổ, điều này minh chứng cho sự sai lầm từ những giả định ban đầu. Đó
là Phương pháp Socrates.
Khi tên sát nhân Vô Não hét lên gọi Đức Phật dừng lại, Đức Thế
Tôn đã quay lại và nói Vô Não rằng: Đức Phật đã dừng lại rồi, và Vô Não
cũng hãy làm như thế. Điều này đã làm phát khởi nhận thức bên trong đầu
của tên sát nhân Vô Não . Vô Não nhận ra rằng Đức Thế Tôn đã dừng lại
nghĩa là Ngài không phạm phải bất cứ sự bạo động nào nữa vì thế bây giờ
cũng là lúc cho Vô Não từ bỏ bạo động. Vô Não (Ương Quật Ma La) đã vất
gươm và trở thành một sư thầy.
Patachara là một thiếu phụ trẻ phát sinh một sự phản ứng căng
thẳng kịch liệt khi cô chứng kiến cái chết của người chồng, hai đứa con
và cha mẹ của cô ta. Cô đến với Đức Phật khóc lóc với bối rối vô cùng
tận. Sau khi cô ta đã dịu xuống, Đức Phật đã giải thích với cô ta về ý
nghĩa chân thật của khổ đau và tính tự nhiên của vô thường. Câu chuyện
của Patachara là một trường hợp nghiên cứu tuyệt diệu về cố vấn chấn
thương tâm lý. Cố vấn chấn thương tâm lý cung ứng một sự hỗ trợ thực
tiễn trong tất cả những vấn đề trên để giải quyết phản ứng thảm thiết
của Patachara.
Có những điểm tương đồng giữa thái độ của Đức Phật và sự đồng cảm
của Roger Carl. Carl Roger đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển Phương pháp trị liệu Vấn tâm Bệnh nhân và ông là một trong những
người thiết lập phong trào tâm lý nhân loại. Giống như Carl Roger, Đức
Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã chấp nhận hỗ trợ tích cực không điều kiện với
sự đau khổ của con người. Những nhà Tâm lý học cho rằng sống một cuộc
sống đích thực là không thể phát triển mà không có sự đồng cảm. Đồng
cảm là một khả năng cơ bản để có thể phát triển quan hệ với người khác,
và từ đó phát triển nhân cách của một người
Đức Phật tin tưởng vào tự do của con người. Rogers nghĩ rằng
không có mối liên hệ nào cho dù con người thật sự có tự do hay không.
Ông nói thêm, chúng ta sẽ cảm thấy tự do khi chúng ta có sẵn sự lựa
chọn. Rogers chỉ ra rằng: những người có đầy đủ các chức năng thừa nhận
là có cảm giác tự do và có ý thức trách nhiệm trong sự lựa chọn của
mình. Đức Phật không phủ nhận sự tự do của con người và ý thức trách
nhiệm với hành động của mỗi người.
Robert Carkhuff – một trong những nhà tiên phong của Phương pháp
Vấn tâm Trị liệu nghiên cứu và hoạt động với Carl Rogers. Ông phát hành
một quyển sách nổi tiếng về Hướng Tới Sự Khuyên Bảo Hiệu Lực và Tâm Lý
Trị Liệu vào năm 1967. Robert Carkhuff giới thiệu 7 điều kiện hỗ trợ
như thấu cảm, tôn trọng, cụ thể, chân thành, tự hiển hiện, đối diện, và
thân cận trực tiếp. Trong tâm lý trị liệu, thân cận trực tiếp là vấn đề
sống còn. Câu chuyện của Rajjumala – một người giúp việc trong gia
đình định tự tử, tiếp theo một sự quấy nhiễu của bà chủ nhà, và được Đức
Phật cứu thoát. Đây là một ví dụ tuyệt vời về sự khuyên bảo ngăn ngừa
tự tử và là điều hỗ trợ thứ bảy của Robert Carkhuff : “thân cận trực
tiếp”.
Sự giảng dạy về thiền quán của Đức Phật có một vị trí đặc biệt.
Thiền quán Phật giáo là một tiến trình tịnh hóa tinh thần và đưa đến một
nhận thức trực tiếp. Do vậy, mục tiêu thiền quán của Đạo Phật là để
đạt được sự thấu hiểu tuệ giác về chân lý. Thiền quán hay Thiền Minh
Sát của Phật giáo cho một sự thể chứng về : vô thường, khổ não và vô
ngã. Từ bi quán giúp giảm thiểu sân hận và là một phương pháp hoàn
thiện để kiểm soát những cảm giác hung hăng. Nói chung thiền giúp giảm
stress và lo lắng. Ngày nay, những trung tâm tâm lý trị liệu ở phương
Tây và phương Đông dùng thiền quán như một kiểu điều trị tâm lý thành
công.
‘Phương pháp tâm lý trị liệu hiện sinh’ là một hình thức tâm lý
trị liệu, mục tiêu là đề cao sự tự nhận thức. Điều này được diễn tả phổ
biến trong giáo thuyết của Đức Phật. Phật giáo đưa lên những vấn đề
đạo đức học và tính tự nhiên về sự hiện hữu của chúng ta. Các mục tiêu
của liệu pháp hiện sinh là để cho phép mọi người trở nên trung thực với
bản thân, để mở rộng quan điểm của họ về bản thân và thế giới xung
quanh họ, để định hướng cho sự việc trong tương lai từ các bài học ở quá
khứ và tạo ra một cái gì đó có giá trị sống cho trong hiện tại. Ngoài
ra, nó hỗ trợ ta khám phá không gian xã hội, vật lý, tâm lý và tâm linh
của bệnh nhân.
Câu chuyện của Mattakundali – một chàng trai trẻ, cuối cùng bệnh
hoạn và đau khổ mà không có một sự giúp đỡ thuốc men nào và chết yểu vì
sự tham ăn của người cha. Sau khi Mattakundali chết, cha chàng trở nên
buồn khổ vô cùng và thường đến nghĩa trang mỗi ngày để than khóc. Ý
nghĩa về cái chết được phơi bày trong câu chuyện của Mattakundali là một
hình thức hiện sinh. Cuối cùng sự buồn thảm của người cha được giải
quyết. Câu chuyện này có thể được diễn giải như một thí dụ tốt về lời
khuyên bảo cho sự tiếc thương.
Đức Phật là một nhà tâm lý trị liệu vô song. Phương pháp trị liệu
của Ngài đã giúp cho hàng triệu người qua hàng thế kỷ. Ngày nay, thế
giới phương Tây đã nhận ra cốt lõi tâm lý của Phật giáo. Nhiều hệ thống
tâm lý trị liệu ở phương Tây phát sinh từ giáo thuyết của Đức Phật.
Đức Thế Tôn cho thấy sự đồng cảm và không phán xét bất cứ ai đến với
Ngài. Ngài đã giúp con người có được cái nhìn sâu sắc và giúp đỡ trong
việc loại bỏ những cảm xúc phiền não và đau đớn. Phương pháp điều trị
của Ngài rất đặc biệt và có thể được áp dụng cho mọi thời đại.
Tuệ
Uyển chuyển ngữ
05-04-2010
Gautama Buddha the Unique
Psychotherapist
http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=7,9027,0,0,1,0