Kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn Di Đà nói: Đức Phật Thích Ca nói với ông Xá Lợi Phất rằng “ Từ đây đi qua Tây phương cực lạc cách mười muôn ức cõi Phật, có nước cực lạc, đức Phật nước ấy hiệu là A- Di Đà đương giảng dạy cho chư Bồ –tát, Duyên Giác và Thinh văn tu theo Tịnh độ.
Tại nước Cực lạc, những nhà cửa đều dùng bảy báu làm ra, tốt hơn chỗ của Thiên Đế cõi rời gấp trăm lần. Dân nơi ấy, muốn một món chi thì có món ấy hiện tới. Suốt ngày nghe ân nhạc vang rền khắp đó đây. Duy khác mộ điều, ai gắng công tu nhiều thì được lâu đài cao lớn. Ai tu ít thì nhà cửa không được cao lớn nhưng không tiện nghi.
Khắp nơi nơi, có ao suối và có một hai món báu nơi ấy, vàng thì nhiều như cát, còn bạt thì ở dưới đáy nước, lấp lánh trông rất đẹp. Ao thủy tinh thì quanh ao có cát báu, dưới đáy ao có lưu ly phản chiếu. Nước trong ao thì quý báu vô cùng, uống vào hưởng được tám điều quý.
1. Trong sạch, 2. Mát, 3. Ngọt ngon, 4. Thơm nhẹ, 5. Thông Trơn cổ, 6. Khỏe, 7. Hết khát khỏi đói, 8. Giúp cho lục căn được thanh khiết. Nước nầy tính chất cao quý chẳng khác chi nước Cam Lồ.
Lại có hàng trăm thứ kỳ hoa, dị thảo. Mỗi nhành có muôn ngàn hoa, lá đủ sắc tươi xen nhau trổ, tỏa mùi hương thơm, làm cho lòng người lâng lâng, khỏe khoắn. Đường đi dựa mé sông, hồ ao đều có cây Chiên đàn thơm ngát. Bông và trái kiết tường thơm ngào ngạt. Trong hồ, ao có bông sen năm sắc khoe màu, lại có cây có bảy thứ báu, mỗi cây đều có một hay hai món báu.
Cây nào toàn một món báu, thời rễ, gốc, nhánh, lá, bông và trái đều mợt màu. Cây nào hai món báu hiệp lại, thì có hai sắc bông trái. Những cây ấy mọc ngay hàng và giao cành cùng nhau. Bông trái cũng đối diện nhau. Khắp cùng cà nước đều một cảnh ấy xem đẹp vô ngần.
Dưới đất nơi nào cũng có vàng, ngày đêm giờ nào cũng có bông Thiên Mạn, bông Đà la rơi xuống như mưa. Mùi thơm không thể tả nỗi, mỗi lần mưa, hoa ngập đầy cả mặt đất. Chân đi êm như nệm gấm. Tuần tự trước sau hoa ấy héo dần, mặt đất trở lại sạch sẽ. Ngày đêm có sáu lần cảnh tượng ấy, người trong nước sáng ra hái thứ bông đó ( Chiên mạn và Đà la) đem cho dân nghèo, đói khổ. Ở các nước khác ăn thay cơm vì mùi thơm ngon và có hiệu lực làm cho hết đói. Sau khi đi thí hoa rồi, về nước Cực Lạc độ cơm giờ ngọ.
Tới giờ dùng cơm ai cũng dùng chén bát thường bằng đồ thất bảo. Muốn ăn món chi đều hiện cả, sau khi dùng xong, chén bát tự nhiên biến mất, khỏi rửa. Lâu lâu tiêu thực một lần bay ra mùi thơm. Tới bữa khác, muốn dùng món chi đếu có như ngày hôm trước.
Cảnh sắc của nước Cực Lạc thực là thoát tục, nơi đây mỗi khi có gió thì bảy vòng cây rào ngoài, cây báu lưới báu, đều khua nhau nghe như muôn ngàn tiếng nhạc, hòa lẫn nhau rất êm tai. Vì thế, mà khởi sang tánh thiện thường vui hay nghĩ đến niệm Phật, ham nghe Pháp.
Ở Cực lạc có riêng ao báu để tắm, ai xuống tắm muốn nước sâu cạn, ấm, lạnh độ nào tùy theo. Khi tắm xong trên mình tỏa ra hương thơm, nghe tiếng nhạc trổi du dương, xen hoa khoe màu trước gió. Nếu ai không muốn nghe, tiếng nhạc tự nhiên không vào tai. Tóm lại: Ai muốn điều gì cũng được toại nguyện cả
Nước Cực Lạc có nhiều thứ chim khác sắc nhau. Hạc trắng, chim công, Anh võ, Xá Lợi, Ca lăng Tầng Già, Cộng Mạng, bảy thứ ấy nhiều vô kể. Ngày đêm kêu hót tiếng giống như ngâm kệ, giảng kinh, tiếng lanh lảnh. Ai nghe cũng nhớ mà niệm Phật. Các chim ấy do Phật A di đà dùng thần thông hóa hiện để nhắc nhở người ấy tinh tấn, phát tâm tu niệm chớ không phải là chim thật.
Trong nước mọi người đều hiền lành, sống đời đời kiếp kiếp, ở xa bao nhiêu cũng thấy, nói chuyện đều nghe. Mỗi người đều không đau ốm, bệnh hoạn, có sắc diện xinh đẹp. Không xấu như hồi còn xác phàm. Người thì khỏe mạnh, thông thái, cả nước không ai ngu dốt. Trong lòng thường tưởng việc đạo đức, nói ra những điều chánh lý, nên dễ yêu thương nhau, không ai ganh ghét, đều biết tiền căn muôn kiếp, lại biết việc hiện tại, quá khứ, và vị lai cõi thế gian. Trong lòng người nào tính chuyện chi, ta đều biết trước, lại biết kẻ bị đọa chừng nào đầu thai làm người. Người chừng nào đắc quả vị Phật. Sỡ dì, biết trước được như vậy là vì người nước Cực lạc đều có Lục thông.