Hầu hết kinh điển Mật Tông đều nhấn mạnh rằng: Những mật chú
đều là những chân ngôn của chư Phật và chư Bồ Tát có giá trị nhiếp tâm
và truyền giảng vô lượng. Mật Chú giúp đỡ cho chúng sinh xa lìa tham,
sân si, là những độc hại trong việc tu hành. Việc trì tụng những mật
chú sẽ tiêu trừ các tai ương, giải cứu những ách nạn, đưa con người
thoát khỏi cảnh giới sa đoạ. Thành thử, kiên tâm trì tụng với tất cả
tâm thành, kết quả tốt đẹp không biết đâu lường được.
Kinh Chuẩn Đề
Đà Ra Ni của Mật Tông dạy những phương pháp trì tụng và nói về công
năng của việc trì tụng những Chân ngôn. Có đến 10 bộ kinh dạy về Chân
ngôn, từ thấp đến cao, mà trong ứng dụng bất cứ trình độ nào cũng tu tập
được. Khi trì tụng lâu, sẽ được ứng hiện trong mộng tưởng.
Kinh
Chuẩn Đề dạy rằng: "Tu tập vững vàng sẽ tạo mộng lành. Hoặc mộng thấy
chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng, Thiên Nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên
hư không một cách tự tại. Hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, hay
lên lầu các, hoặc lên cây cao hoặc trèo lên núi tuyết, hoặc chế ngự
được voi, sư tử, hoặc thấy nhiều hoa thơm cỏ lạ. Cũng có thể mộng thấy
là vị tu hành, sa môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả ra hắc vật. Hoặc thâm nhập vào tinh tú, thiên hà...". Trong
khi trì tụng kinh điển này, thường phát ra ánh sáng lạ kỳ, do Phán nhãn
mang lại. Có người thấy lạc vào cõi Tịnh Độ, cảnh giới giải thoát hoàn
toàn. Cũng có người thấy được kiếp trước của mình.
Nội dung
Bộ kinh trên có giành phần lớn để nói về các Thần Chú: bản văn Thần Chú và công năng của Thần Chú. Thần Chú không sử dụng tùy tiện được. Phải có đức giác ngộ mới đọc Thần Chú có
hiệu quả. Mật Tông nói về trường hợp nhiều đạo sĩ dùng những Thần Chú
không đúng hướng gây tác hại: chẳng những không đạt được kết quả theo ý
muốn, mà còn gây thêm những nguy hiểm khôn lường được. Nội dung các Thần chú này được phân chia ra 9 phẩm. Mỗi phẩm có sức nhiếp phục và sở cầu khác nhau:
Nội dung 3 phẩm đầu
Hạ Phẩm: nếu
thành tựu hạ phẩm của Thần Chú, thì có thể năng nhiếp phục tất cả tứ
chúng, phàm có sở cầu điều gì thì đạt được, sai khiến được nhiều hạng,
kể cả Thiên Long cũng thuần phục. Những Thần Chú này lại còn có thể hàng
phục được 45 loại trong các "trùng thú" và "quỷ mị".
Trung Phẩm: Khi thành tựu được việc dùng Thần Chú của Trung Phẩm, sẽ có công năng sai khiến được tất cả Thiên Long, Bát Bộ, khai mở những "bảo tàng" dấu kín. Cũng có thể đi vào trong Tu La Cung, Long Cung... bất cứ trong trường hợp nào.
Thượng Phẩm: Nếu thành tựu được phần Thượng Phẩm, sẽ có được những khả năng phi thường: hoặc dùng phép khinh thân để chu du khắp nơi, cũng có thể dùng đến thuật "tàng hình" để tránh tai biến.
Nội dung 3 phẩm giữa
Hạ phẩm: Nếu thành tựu hạ phẩm của phần này (Trung Độ) sẽ điều hành được nhiều cảnh giới, tái sinh trong vô lượng kiếp, phúc huệ chiếu sáng trong 3 cõi, hàng phục chúng ma.
Trung phẩm: Nếu thành tự phẩm này, thì có sức thần thông qua lại các thế giới khác, có khả năng chuyển hoá Luân Vương, trụ thọ trong nhiều kiếp sau này.
Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, sẽ hiệu
chứng được nhiều phép lạ, từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên.Trung độ là trình độ
khó thành; chỉ những bậc cao tăng nhiều kiếp mới nhiếp phục được 3 phẩm
này.
Nội dung 3 phẩm cuối
Hạ phẩm: Nếu thành tự phẩm này, sẽ đạt được Đệ Ngũ Địa Bồ Tát trở nên.
Trung phẩm: Nếu thành tựu phẩm này sẽ đạt được từ Đệ Bát BồTát Địa trở lên.
Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, thì Tam Mật sẽ biến thành Tam Thân. Trong cảnh giới hiện tại thì có thể chứng quả "Vô Thượng Bồ Đề".
Ứng dụng những Mật Chú
Những nhà tu hành Mật Tông dùng những Mật Chú trong những trường hợp cần thiết nhất và cũng hạn chế nhất để tránh những tác hại khác. Một trong những loại Mật Chú quan trọng và thông dụng là Mật Chú Đà Ra Ni (Dharani). Theo nguyên nghĩa thì Đà Ra Ni là bảo tồn, gìn giữ, chống lại những lôi cuốn khác bất cứ từ đâu tới. Những Mật Chú này dùng để khống chế vọng tưởng và vọng động. Trong một giá trị khác, Mật Chú Đà Ra Ni sẽ phát huy đạo tâm của hành giả đứng
trước những thử thách nghiêm trọng. Tà ma, ngoại đạo đều bị Mật Chú Đà
Ra Ni chế ngự ngay từ bước đầu. Dùng Mật Chú không thể khinh thường và
thiếu cẩn trọng. Chỉ trong những trường hợp khổn cùng, cấp bách, không thể thoát khỏi tai kiếp thì mới đọc lên.
Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là "chân ngôn" hay "chân kinh" tức là những câu nói ngắn nhưng rất vi diệu, chân
thật, "bất khả tư nghị" của chư Phật hay chư Bồ Tát. Mật Chú không thể
giải nghĩa được hay lý luận được. Những buổi lễ quan trọng nhất của Mật
Tông mới được dùng những Mật Chú này. Công dụng chính là đưa những sức
huyền diệu, anh linh của vũ trụ đi vào trong nội tâm của con người. Mật
Chú cũng có thể tiêu trừ những bệnh khổ do Tứ Đại gây ra. Những bệnh do
Ngũ uẩn, hay do quỷ thần gieo rắc cũng có thể giải cứu bằng Mật Chú
được. Cũng như Đàn Tràng (hay Đàn Pháp) (Mandala), Mật Chú có công dụng
vô biên, khó lường được. Nhiều người coi thường Mật Chú và Đàn Tràng,
cho nên khó giải thoát. Hiển Mật Viên Thông có chép rằng: "Ba đời của
đức Như lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn Pháp mà thành Phật Đạo".
Lời dạy này mang hai ý nghĩa: (a) Mật Chú và Đàn Pháp vốn rất huyền diệu (b) Chỉ dùng đến hai loại này trong trường hợp cần thiết nhất mà thôi.Giá trị của Mật
Chú Đà Ra Ni không thể lường được. Chẳng hạn như một cao tăng tụng Mật
Chú với tất cả lòng thành của mình thì sẽ tiêu trừ những nghiệp chướng
rừng vướng mắc vào nội tâm hay từng gây tai họa lớn lao. Sức tiêu trừ
này khó hình dung được, nhưng giải toả được những nguy hiểm do tha nhân
tạo nên.
Những cao tăng Tây Tạng ít khi nói đến những Mật Chú. Theo họ, một giới tử nào vọng động trong việc dùng Mật Chú, tưởng là cứu cánh tu hành, sẽ bỏ mọi khả năng tu tập chính của mình để học Thần Chú. Mật Chú chỉ được dùng như là cẩm nang tối hậu chỉ được mở ra thực hiện trong một thời điểm cần thiết nhất. Một giới tử sau khi được Điểm Đạo hay Quán Đỉnh thì được nhắc nhở điều này.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm trong phần nói về công năng của những loại Thần Chú của Kim Cang Thừa (Tantra) có đoạn viết:- "Mật Chú của chư Phật vốn là phép bí
mật. Chỉ có đức Phật với Phật tự biết với nhau mà thôi; các vị Thánh
cũng không thể nào thông đạt về Chú được. Chỉ trì tụng là diệt được tội
lỗi, nhanh chóng đạt được Thánh Vị" (Phẩm Chú Hạnh).
Trong một đoạn khác có viết: "Thần Chú là mật ấn của chư Phật: Những vị Phật và Phật truyền cho nhau, người khác trong cảnh giới nào cũng không thể nào thông hiểu được..."
Trong
Hiển Thủ Bát Nhã Sớ viết: " Chú là Pháp môn bí mật của chư Phật, không
thể nào thấu hiệu được nhân vị của những lời Chú". Viễn Công Niết Bàn Sớ
khi luận về Thần Chú cũng viết: "Chân Ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Nếu đem ra phiên dịch thì lại không hiểu nổi, vì lẽ đó cho nên không thể nào phiên giải được...".
Thiên Thai Chỉ Quán của Thiên Thai Tông cũng viết về các Thần Chú như sau: "Chỉ
có bậc Thánh Thượng thì mới có thể nói đến (giải lý đến) 2 pháp: Mật và
Hiển. Những kẻ phàm nhân chỉ có thể xưng tán được những lời kinh trong
Hiển Giáo; còn về Mật Giáo thì không giải thích được. Đà Ra Ni, nhân vị của Thánh Hiền không thể nào hiểu giải được, chỉ có thể tin mà thọ trì mà thôi. Trì Chú thì
có thể diệt được mọi nghiệp chướng, kết tựu được phước đức". Theo những
cao tăng của Mật Giáo, những Mật Chú (Mantras) là Viên Mãn, nếu giải thích ra chỉ là phiến diện, có thể sai lầm nữa. Thành thử không nên tìm cách để giải thích. Những kinh sách cho rằng: đây là guyên nghĩa của những câu Thần Chú chỉ là ngụy ngôn.
Mật
nghĩa chỉ là "bất khả tư nghị". Trong Pháp Hoa Sao Sớ có đoạn nêu rõ
rằng: "Về Bí Pháp của chư Phật, thì không thể nào hiểu được ý nghĩa, cho
nên được gọi là Mật ngôn". Bát Nhã Tâm Kinh viết: "Tổng trì cũng như
loại thuốc thần, như Cam Lộ, uống vào thì lành bệnh, nhưng khi phân tích trong đó có gì, là điều sai lầm. Tuy là mật ngôn, nhưng công dụng, giá trị của những lời Thần Chú này thật bao la".
Theo Đà Ra Ni Kinh thì: "Thần Chú
vốn là tối thắng, có thể giải trừ được tội lỗi của chúng sinh, giải
thoát được sinh tử luân hồi, chứng quả Niết Bàn, an lạc pháp thân...".
Khi tụng những câu Thần Chú, phải chú ý đến toạ bộ. Chẳng hạn như trì tụng Đại Tam Muội Ấn thì: "Lấy hai tay ngửa ra, rồi tay hữu để lên trên tay tả, hai đầu ngón cái giáp lại với nhau, để ngang dưới rốn". Thực hiện việc trì tụng này, kết quả không lường được: Ấn này có thể diệt được tất cả cuồng loại, vọng niệm, điên đảo, tư duy tạp nhiễm. Còn khi chấp thủ về Kim Cang Ấn Quyền thì kết ấn như sau đây: "Lấy ngón cái để trong lòng bàn tay bấm tại đốt vô danh chỉ giáplòng bàn tay, rồi nắm chặt; sau đó tay phải cầm chuỗi ký số, miệng tụng: "Tịnh pháp giới chân ngôn" (108 biến).
Ấn này trừ được nội ngoại chướng hiện ra hay nhiễm phải; thực hành đúng đắn thì thành tựu tất cả công đức. Về Chuẩn Đề Chú thì kết ấn như sau: "Sau khi đảnh lễ (3 lạy) xong, thì hành giả ngồi kiết già. Lấy ngón tay áp út và ngón út bên mặt và bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón áp út bên mặt. Để ấn này ngang ngực.
Sau đó chí tâm tưng 108 lần câu chú "Chuẩn Đề" và chú "Đại Luân Nhất Tự" như sau: "Nam Nô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chủ Lệ, Chủ Lệ, Chuẩn Đề, Ta Bà Ha - Bộ Lâm."
Có thể trì tụng nhiều hơn nữa. Khi niệm số đã ấn định, muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đỉnh, kế đó dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyền mà ấn theo thứ tự 5 vị trí như sau: 1) Trên đảnh đầu 2) Nơi vai bên trái 3) Ở vai bên mặt 4) Tại ngang ngực 5) Nơi yết hầu
(Còn tiếp)
Nguồn: PTVN