Hôm nay là thứ 7 ngày 7 tháng 7
năm 2007, ngày được thế giới quan niệm là ngày may mắn đặc biệt trong
hôn nhân. Cứ mỗi một trăm năm chỉ có một ngày 7 tháng 7. Bản chất con số
7 được phần lớn các nền văn hóa quan niệm tượng trưng cho sự may mắn.
Theo thống kê của công ty môi giới hôn nhân, theknot.com, tại Hoa Kỳ có
đến 65,000 cặp trai gái đăng ký đính hôn trong ngày này.
Ước muốn một đời sống hôn nhân hạnh phúc
trên nền tảng biểu tượng của con số 7, phản ánh thái độ và lòng quyết
tâm duy trì cuộc hôn nhân như một khế ước xã hội lâu dài. Nhưng bản chất
của sự lâu dài với hiểu biết của hai trái tim yêu thương đến mức độ nào
thì đời sống sẽ kéo dài đến mức độ đó, nó tồn tại theo ý muốn chủ quan
của con người. Nương vào quan niệm phong thủy của các con số chỉ có ý
nghĩa biểu tượng cho sự ước muốn. Để biến ước muốn đó thành công thì
phải cần đến rất nhiều yếu tố khác mà nhà Phật gọi là nhân quả.
Từ
góc độ Phật giáo, chúng ta nên sử dụng ý niệm biểu tượng này là nỗi
niềm mong đợi của con người trong cuộc đời hơn là những sự thật. Bản
chất của ước muốn theo nhà Phật là động năng, đẩy con người tới phía
trước. Lực đẩy đó trở thành một trong những yêu cầu đầu tiên mà nếu
thiếu nó, chúng ta không thể tiến xa và thành công được. Trong Ba mươi
bảy phẩm trợ đạo, nó được gọi bằng khái niệm “Dục như ý túc”. Một ước
muốn chân chính phù hợp với đời sống đạo đức kết hợp với các yếu tố tâm
linh sẽ tạo ra sự thành công và làm cho người nỗ lực được hài lòng. Bản
chất của ước muốn hoàn toàn không xấu nếu chúng ta biết sử dụng nó cho
những mục tiêu tích cực.
Nguyện ước ngày đính hôn là làm thế nào
để các cuộc hôn nhân được bền bỉ trong hạnh phúc, còn các quan niệm mê
tín thông thường chỉ dựa trên con số mà không có sự chuẩn bị về đời sống
tinh thần, tri thức và đạo đức, thì dù sử dụng bài toán cấp số cộng để
có nhiều con số 7 vẫn không có giá trị gì, ngược lại nó có thể để lại
nhiều sự tiếc nuối khi gặp thất bại về sau.
Có rất nhiều lý do xã hội, gia đình, cá
nhân dẫn đến sự đổ vỡ trong hôn nhân. Nếu chúng ta không quan tâm để ý
thì dù có tổ chức đính hôn vào những ngày có hàng loạt con số 7 cũng
không bảo đảm được hạnh phúc.
Một vài tác động điển hình ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ hôn nhân
Ngoại tình
Phản ứng phổ biến trước tình huống bị
ngoại tình là thái độ “ông ăn chả, bà ăn nem”. Hôn nhân giới tính theo
cái nhìn của Phật giáo là một sự ích kỷ, có thể chấp nhận dưới góc độ
của con người với hạnh phúc giác quan giới hạn cần phải có. Tính chất
ích kỷ đó không cho phép con tim của một trong hai người đã kết hôn được
quyền nghĩ tưởng đến người thứ ba ngoài vợ hay chồng mình. Trong tình
yêu mà không có sự ích kỷ thì không thể nào bền bỉ vì nó thiếu yếu tố
yêu thương nhau tha thiết. Vì vậy thái độ ghen tuông trở thành yếu tính
“bóng không rời hình” và nó gần gũi với tình yêu.
Phụ nữ có khuynh hướng sống về cảm xúc,
cho nên khi cơn ghen xuất hiện làm cho tình cảm vợ chồng bị thách đố rất
lớn. Nếu không biết thể hiện thì nỗi ghen đó trở thành sự đe dọa, khiến
người thương cảm thấy ngột ngạt khó thở và phát sinh nhu cầu tìm kiếm
nơi khác bình yên hơn. Giải quyết bế tắc về tính hoa nguyệt, chúng ta
phải tạo cơ hội cho người kia quay về và đừng khơi gợi hay cường điệu
hóa nỗi đau vốn đã từng xảy ra trong quá khứ.
Vừa qua, một anh chồng ở Melbourn, Úc
châu, khóc sướt mướt khi tâm sự với chúng tôi rằng hôn nhân của họ đã
kết thúc sau mười năm chung sống. Lý do chính yếu vì người vợ quá ghen.
Sự ghen tuông làm cho người vợ không thể nào chấp nhận sơ xuất của anh
chồng. Có lần khi mối quan hệ của vợ chồng anh đang lận đận, nỗi khổ
niềm đau kéo dài khiến anh mỏi mệt. Ngay lúc đó, một người phụ nữ khác
đã xuất hiện nâng đỡ và lấp đầy nỗi trống vắng trong anh. Anh đã rơi vào
tình cảm và mối quan hệ bất chính với cô này. Sau đó anh biết đây là
điều sai lầm. Anh ăn năn hối lỗi kể lại cho vợ mình. Nhưng ngờ đâu cô vợ
không thể vượt qua cú sốc khi biết sự thật. Cô nhất quyết không tha
thứ. Cuối cùng, cuộc hôn nhân của họ bị đổ vỡ hoàn toàn. Anh chồng khóc
lóc vì nghĩ rằng, nếu không chân thật báo cáo cho vợ thì có lẽ đâu dẫn
đến kết thúc bế tắc như hiện nay.
Bản
chất tình yêu cần sự hiểu biết rộng lượng để hai bên có thể tha thứ
những lỗi lầm của nhau. Sai lầm là thuộc tính của người phàm. Vấn đề ở
chỗ người đó có nhận diện sự sai lầm của chính mình và không tái phạm.
Nếu chúng ta may mắn gặp được người như thế thì hãy tạo cơ hội để người
đó trở về, hơn là đẩy họ đi đến với một người khác mà vốn chúng ta không
muốn.
Kinh điển của nhà Phật dạy, có hai hạng
thánh trong cuộc đời. Hạng thứ nhất là chưa từng tạo tội lỗi, sơ xuất
cũng như lỗi lầm. Hạng thứ hai là người biết đứng dậy sau khi vấp ngã,
cảm nhận đó là một vết nhơ trong lương tâm, và không bao giờ tái phạm.
Đức Phật nói, hạng thánh nhân thứ hai mới đáng tôn kính và tán thán hơn
cả. Điều này khiến rất nhiều người ngạc nhiên, đặc biệt những người có
thái độ tâm lý nghiêm túc, muốn chuyện gì ra chuyện đó, chỉ cần một lần
sai phạm thì con người đó không còn được sử dụng trong tương lai. Người
mang thái độ tâm lý như thế khó có thể chấp nhận đạo lý vừa nêu.
Đức Phật thấy rõ tâm lý con người có
những lúc rất yếu. Trong lúc phần tâm lý bị sa sút tới mức độ yếu nhất
thì bất kỳ cái gì khác đến sẽ trở thành cái nêm gài vào sự trống vắng
dẫn dắt con người đến với những sai lầm. Vấn đề ở chỗ nhận ra sai lầm,
không tái phạm mới là con người đáng quí, đáng trân trọng. Tất cả các
sai lầm đều có khả năng chữa trị và làm mới. Nhận dạng điều này thì tất
cả những tình huống ngoại tình đều có cơ hội quay về, trở về với con
người trước kia của chính mình. Quên đi quá khứ của nhau trở thành yếu
tố vô cùng quan trọng.
Nhiều người có cái “tôi” rất lớn. Cái
“tôi” đó cho rằng mình phải là cuộc tình đầu tiên của vợ hay chồng. Sau
thời gian vui vẻ với nhau, khi tình cờ biết hay được khơi gợi lại chuyện
tình cũ của bạn đời, họ đã nổi cơn ghen. Cái “tôi” đòi hỏi sự trọn vẹn
làm cho người ta không còn rộng lượng và tha thứ, dù trên thực tế, trước
cuộc hôn nhân diễn ra như một khế ước xã hội thì ai cũng được quyền yêu
người khác, thậm chí có thể yêu vài ba lần mới có thể chọn ra mẫu người
lý tưởng nhất. Miễn không vi phạm tinh thần đạo đức của nhà Phật thì
không có gì được coi là lỗi lầm. Tuy nhiên, với người xem yếu tố đầu
tiên là quan trọng thì khi phát hiện người bạn đời đã từng có những mối
tình trước đó, họ phản ứng gay gắt và không thể chấp nhận.
Tảo hôn
Phần lớn các hôn nhân tảo hôn đến với
nhau vì thiếu sự chuẩn bị tâm sinh lý. Cả vợ lẫn chồng chưa chín chắn
trong tình cảm và nhận thức. Kết thúc của các cuộc hôn nhân này là tờ
đơn li dị và những đứa con dại khờ, mồ côi dù cha mẹ chúng vẫn còn đang
sống.
Ấn Độ là quốc gia có tỷ lệ tảo hôn lớn
nhất thế giới. Ngày nay, nữ mười ba tuổi vẫn được quyền làm mẹ. Phụ nữ ở
tuổi năm mươi đã trở thành bà nội hoặc bà ngoại. Khi sự chuẩn bị tâm
sinh lý và kiến thức nuôi dưỡng con cái không được đảm bảo sẽ kéo theo
nhiều hệ lụy. Rất may tỷ lệ ly dị ở nền văn hóa này vẫn không cao. Khi
áp lực của sự dị biệt giữa hai bên đã lên tới mức độ đỉnh điểm thì tuổi
trẻ với các cuộc tảo hôn có khuynh hướng dùng kim nhọn đâm vào bong bóng
của hôn nhân để nó vỡ tung.
Những
quốc gia xem trọng hôn nhân thường khuyên các cặp vợ chồng trẻ phải giữ
lời, giữ ý tứ với nhau, rộng lượng thông cảm và vượt qua những sơ xuất.
Còn theo nền văn hóa đề cao sự tự do thì dù một xúc phạm nhỏ chẳng đáng
cũng trở thành vấn nạn lớn dẫn đến ly dị.
Lệch lạc về vai trò vị trí xã hội
Phần lớn mâu thuẫn phát sinh khi người
vợ thành công hơn chồng. Họ không còn nhu cầu lệ thuộc kinh tế vào chồng
như trước đây. Do đó người vợ có suy nghĩ mình phải được ứng xử bình
đẳng trong gia đình. Điều này làm cho người chồng bắt đầu cảm thấy bị va
chạm.
Khuynh hướng những người vợ thường đòi
hỏi chồng có học thức cao hơn, mạnh mẽ về mọi phương diện để có thể làm
điểm tựa. Ngay trong cách thức xưng hô của Việt Nam đã cho thấy rất rõ
điều đó, người vợ luôn là người em gái cho nên xưng hô là “em” và chồng
là “anh”. Thấy rõ nhu cầu cần được bảo bọc ở mọi phương diện, nên mối
quan hệ giữa tiếng “anh” và “em” trong vợ chồng làm cho cặp hôn nhân đó
bền bỉ hơn. Nhưng khi người vợ có vai trò xã hội cao thì quan hệ này có
thể bị mất. Nếu vợ không khéo ứng xử thì cái “tôi” của người chồng bị
thách đố, người chồng sẽ cảm thấy vai trò của mình thương tổn và mình
không là gì trong xã hội.
Sự thay đổi vai trò vị trí của người vợ
gây khó khăn cho người chồng, nếu người chồng không thông cảm, hoan hỉ
với sự thành công của vợ, đặc biệt khi vai trò vị trí xã hội của chồng
xuống dốc, ức chế tâm lý xảy ra hằng ngày, hằng giờ. Vì luôn muốn vợ con
và người thân tôn trọng mình như ngày nào nên chỉ cần một lời nói lầm
lỡ vô tình nào đó có thể tăng mức độ căng thẳng của người chồng. Anh ta
sẽ nghĩ rằng mình không còn chức vị nên mới bị lấn lướt khinh thường,
con cái không coi ra gì. Mặc dù trước đây cũng với những câu nói vô tình
ấy, anh đã không để tâm. Trong tình huống như vậy, không ai khác hơn
người vợ phải khéo léo giải thích và giúp chồng vượt qua khó khăn.
Ngoài ra còn hàng trăm ngàn lý do dẫn đến sự ly dị và hôn nhân không hạnh phúc.
Giải quyết tình trạng ngoại tình và ly dị theo kinh điển nhà Phật
Thực tập phương thức quán không nắm giữ tướng chung và tướng riêng
Tướng chung là đặc điểm chung của một
chủng loại nào đó, chẳng hạn chủng loại động vật, chủng loại con người,
chủng loại chư thiên, chủng loại ngạ quỷ v...v... Trong mỗi quốc gia có
nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có một chủng loại khác nhau. Chẳng hạn người
Việt Nam da vàng, mũi tẹt, thấp bé... Người châu Âu, châu Mỹ da trắng,
tóc vàng, mắt xanh... Tất cả các chủng loại đó được gọi là đặc điểm
chung. Khi nhãn thức con người tiếp xúc với thẩm mỹ, văn hóa y phục thời
trang, các trang sức phẩm, ngoại hình, nhà cửa,… thì tướng chung sẽ dễ
dàng thu hút. Nhiều người đặt nặng tướng chung nên khi gặp người ngoại
quốc, họ có thiện cảm hơn.
Bám
vào tướng chung thường không dẫn đến đổ vỡ hôn nhân nhiều như việc bám
vào tướng riêng, vì tướng riêng thường để lại ấn tượng. Chẳng hạn, đôi
mắt bồ câu, mũi dọc dừa, má nũng nịu đồng tiền, nước da hồng hào, tướng
đi yểu điệu thướt tha..v.v. trở thành một hấp lực giới tính đối với phần
lớn người nam là điều không thể phủ định. Bám vào tướng riêng, con
người sẽ khởi tâm niệm so sánh đối chiếu với bạn đời của mình. Càng so
sánh đối chiếu, sự ám ảnh của tướng riêng và tướng chung đó càng trở
thành cơ hội đầu tiên của ngoại tình tâm tưởng.
Hành giả Phật giáo cần thực tập quan
sát, không chấp lấy tướng chung cũng không bám víu tướng riêng. Hãy quan
niệm đơn giản rằng, đó chỉ là một người nam hay người nữ không có đặc
điểm gì. Thái độ liên hệ đến tính từ đẹp xấu, hấp dẫn hay không hấp dẫn,
trắng đen v...v... ở tướng trạng của người khác phái không được ý thức
chúng ta diễn dịch, phân tích, so sánh, quy nạp, loại suy, thì lúc đó
yếu tố của sự chấp trước về tướng riêng không được thiết lập. Nhờ thế,
con người có thể giao du tiếp xúc với nhiều thành phần khác nhau trong
xã hội, thậm chí với người đẹp hơn, giàu hơn, hấp dẫn hơn bạn đời của
mình, nhưng mình vẫn không cần ghé mắt, để tai. Do hài lòng và hiểu biết
bản chất của hạnh phúc không phải chỉ dựa trên giá trị thẩm mỹ như vừa
nêu mà nó còn bao gồm cả tổng thể của tình cảm, tình yêu, tình thương,
sự chăm sóc, tương trợ, cộng nghiệp, và biệt nghiệp khác nhau, mà các
yếu tố kia không trở thành sự đe dọa ám ảnh.
Thực tập Bát quan trai
Ngày Bát quan trai thường được diễn ra
vào những ngày thập trai. Theo nền văn hóa Ấn Độ, ngày thập trai là ngày
ma hiện hồn về phá phách con người. Đức Phật đã sử dụng dữ liệu nền văn
hóa đó để tạo cơ hội cho cả nam lẫn nữ, cả vợ lẫn chồng cùng tu tập
vượt qua nỗi khủng hoảng sợ ma, và thấy rằng hồn ma đang có nhu cầu tâm
linh cần sự hỗ trợ của những người còn sống thông qua các lễ thức cầu
siêu. Trong ngày thọ Bát quan trai, vợ lẫn chồng cần được thực tập
chuyển hóa năng lực khát ái của tình dục như là nỗi ám ảnh của rất nhiều
cuộc hôn nhân và tình yêu.
Nếu trong một tháng, cả vợ lẫn chồng
thực tập Bát quan trai được một ngày thì ngày đó, chúng ta trở thành tu
sĩ khống chế nỗi ám ảnh của hoạt động tính dục đang đe dọa. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến ly dị ở thế giới phương Tây là vì không thỏa
mãn được nhu cầu này. Cho nên thực tập tiết hạnh và sự thanh tịnh trong
một ngày sẽ làm cho nhu cầu hưởng thụ đó giảm đi và không còn là yêu cầu
tiên quyết.
Những
triệu phú, tỷ phú rất thành công trong nhiều phương diện khác nhau. Đối
với họ, giá trị thẩm mỹ và giá trị tính dục là quan trọng nhất vì những
thứ còn lại, họ đều không thiếu. Nếu có người tình gợi cảm và hưởng thụ
cái đẹp đó thông qua sự thỏa mãn tính dục sẽ làm cho cái “tôi” của họ
được thỏa mãn. Từ đó có khuynh hướng “giàu sang đổi vợ” khá phổ biến.
Thực tập Bát quan trai để thấy rằng, yếu
tính của hạnh phúc liên hệ đến nghệ thuật thăng bằng cảm xúc. Cảm xúc
con người thường đi theo hai khuynh hướng, một là hưng phấn dẫn đến chấp
trước và tư hữu hóa; hai là ức chế dẫn đến chối bỏ, chán nản, thất
vọng. Cả hai thái độ này đều là hai phản ứng khác nhau về cái “tôi”,
khống chế, làm mất thăng bằng về phương diện cảm xúc. Thấy rõ điều này
thì nhu cầu hưởng thụ tính dục sẽ giảm bớt, con người sẽ vượt qua được
những nỗi ám ảnh.
Thực tập quán tình thân
Đức Phật dạy phương pháp này cho tất cả
người tại gia và xuất gia để không có những ái cảm diễn ra đối với người
khác phái. Gặp tất cả những người nam thì người nữ phải quan niệm rằng
họ đã từng là ông, bác, cha, chú, cậu, anh trai, em trai của mình ở một
kiếp nào đó. Quan niệm về tình thân giúp chúng ta giữ được lương tâm con
người và không rơi vào tình trạng loạn luân. Người ta thường nghĩ quan
niệm loạn luân chỉ có trong họ tộc huyết thống ngay đời hiện tại mà
không để ý đến loạn luân khác mang tính gián tiếp. Khi quán tất cả người
nam và nữ đều là thân thuộc của mình, thì ngoài vợ hay chồng chính
thức, chúng ta không còn ý niệm muốn thoả mãn tính dục, tình yêu với
người khác, do đó hạn chế được tối đa thói quen ong bướm dẫn đến ngoại
tình.
Đạo Phật dạy, hãy lấy sự nghiệp làm đầu,
trí tuệ là sự nghiệp. “Duy Tuệ Thị Nghiệp” không chỉ là phương châm cho
những người xuất gia mà còn cho cả người tại gia. Muốn có cuộc hôn nhân
bền bỉ lâu dài, chúng ta phải lấy tuệ giác làm đầu. Trong nhận thức của
tình yêu, trái tim có phần nghiêng nặng đặc biệt, mọi sự phán đoán của
chúng ta đa phần có nhiều cảm xúc, và do đó sự lựa chọn trong trường hợp
này thường mang tính thiên vị về những gì mình thích và không thích.
Cho nên việc tuyển chọn sai người, người không phải là mẫu lý tưởng sẽ
diễn ra ở mức độ cao và bi kịch tất yếu xảy đến sau khi nhận diện rằng
người mình thương yêu không thật sự là người mà mình mong đợi.
Lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì chúng ta
lo cho bản thân ổn định kinh tế, mọi thứ chín chắn về nhận thức, cảm xúc
và đời sống trong xã hội, tới lúc đó việc đính hôn mới thật sự bền
vững. Đây là phương châm đạo Phật dạy.
Thực tập tăng cường sự truyền thông giữa vợ chồng
Kém truyền thông là một bế tắc mỗi khi
có hiểu lầm va chạm cá tính và cái “tôi” diễn ra giữa hai bên. Phản ứng
thông thường là rút cảm xúc, nhận thức và sự ứng xử của bản thân vào
mai, biến mình thành con rùa để tìm cảm giác trấn an, nỗi khổ đau tạm
thời được nguôi ngoai.
Vừa rồi, chúng tôi có dịp trở lại thăm
một gia đình Phật tử quen đã trên mười năm. Hai vợ chồng vừa mới ly dị
chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong việc dạy dỗ con cái. Người mẹ theo văn
hóa phương Tây, chiều con quá mức, hễ nó muốn gì thì được đó. Trong khi
người cha lại sống theo truyền thống Việt Nam, muốn con cái phải nối
theo truyền thống của mình. Bất đồng quan điểm khiến vợ chồng tự ái dồn
dập, mỗi khi nói chuyện thường lớn tiếng cãi vã nhau. Cuối cùng không ai
chịu nói với ai và việc này kéo dài ba năm trời. Ai cũng nghĩ rằng nếu
làm lành trước thì vô tình đã tự thừa nhận mình có lỗi và người kia là
người chiến thắng. Cho nên thà im lặng còn hơn chấp nhận mình có lỗi.
Người vợ lý luận rằng, nếu anh chồng thật sự là người chồng lý tưởng và
thương yêu vợ thì anh ta phải xin lỗi trước, vì trong nền văn hóa Hoa Kỳ
“lady first” chứ không phải là đàn ông. Cả hai bên cứ chờ đợi lời xin
lỗi mà không cần thanh minh, cuối cùng người vợ đương đơn li dị vì cho
rằng chồng không còn xem mình là quan trọng nữa.
Một câu rất hay trong luận Bảo Vương tam
muội, nhưng nếu không khéo sử dụng sẽ dẫn đến bế tắc, “Oan ức không cần
biện bạch vì biện bạch là hèn nhát”. Oan ức nếu biện bạch không đúng
tình huống sẽ làm cho vấn đề rắc rối hơn. Mọi người thường cho rằng nếu
không có tật thì đâu cần phải sốt sắng thanh minh, cho nên thanh minh là
che đậy tội lỗi. Thật ra, khi gặp đúng tình huống, đúng người, đúng
thời điểm thì chúng ta nên giải bày để cơ chế bị hiểu lầm đó được tháo
gỡ. Đương nhiên cũng có những tình huống không cần thanh minh nếu yếu tố
thanh minh đó không cần thiết, còn khi được hỏi thì hãy nói, nói cho
việc hiểu lầm không tiếp tục diễn ra.
Vợ và chồng nên bằng lòng ngồi với nhau,
thuận vợ thuận chồng để giải quyết, thì chỉ cần năm giờ, năm ngày hay
tối đa là năm tháng, bế tắc sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng. Nếu
nói lần thứ nhất mà người kia chưa hiểu thì lần thứ hai trong cơ hội
người kia đang hạnh phúc hay khổ đau, muốn có người tri kỷ cùng chia sẻ,
chúng ta đến bằng cả trái tim và tấm lòng. Trách nhiệm của chúng ta là
tháo gỡ sự hiểu lầm. Tuy nhiên, giống như gỡ mìn, nếu không biết cách,
chúng ta cũng sẽ bị vỡ tung trong trách móc, đổ lỗi và quy kết tội, như
thế vấn đề trở nên phức tạp hơn.
Truyền
thông là nghệ thuật tháo gỡ bế tắc. Con người có phước hơn các loài
động vật khác ở khả năng truyền thông. Thắng thua, thành công thất bại
lệ thuộc vào lời ăn tiếng nói. Nói để hai bên cùng hiểu và chia sẻ với
nhau, không phải để chỉ trích, hơn thua, quy trách nhiệm. Nếu mẫu số
chung của cả hai được tôn trọng thì nó sẽ trở thành ranh giới với sự
tương nhượng. Hai bên phải thấy rằng cần tôn trọng và đừng xúc phạm lẫn
nhau.
Thực tập quan niệm vợ hoặc chồng như người bạn đồng hành
Kinh mô tả đức Phật từng có thời pháp
ngắn giảng cho cô con dâu cư sĩ Cấp Cô Độc. Vì cô dâu này ngỗ nghịch,
bất hiếu với cha mẹ chồng, nên nhân cơ hội đức Phật đi ngang qua nhà và
nhận phẩm vật cúng dường, Cấp Cô Độc đã thỉnh cầu Ngài dành chút thời
gian giáo dục đứa con dâu của mình. Như Lai Thế Tôn đã giảng một bài
kinh ngắn rất ấn tượng về bảy loại vợ đối chiếu với bảy loại chồng.
Trong đó, loại vợ thứ tư được xem là lý tưởng nhất, “người vợ là bạn
đồng hành cùng người chồng”. Trong hôn nhân, ai quan niệm cần nhận được
nhiều hơn cho thì cuộc hôn nhân đó xem như bị đổ vỡ ngay từ cách thức
đặt vấn đề. Đây là yếu tố dẫn đến tình trạng ly dị cao nhất của nền văn
hóa phương Tây khi nền tảng kinh tế không còn đứng vững.
Xem chồng như người bạn đồng hành, chúng
ta không chỉ quý người đó như người bạn thân, người tâm giao hoặc tri
kỷ mà còn thể hiện trách nhiệm bình đẳng giữa hai bên. Điều này hoàn
toàn phù hợp với học thuyết bình đẳng về giới tính mà cuộc cách mạng
Pháp trở thành niềm hãnh diện nhất của dân tộc nước họ. Nhờ đó, thế giới
phương Tây nương theo, tạo ra sự bình đẳng giữa nữ giới so với nam
giới. Đôi khi sự bình đẳng đó đi quá đà, thay vì hiểu vai trò vị trí xã
hội của hai bên ngang nhau thì một số người nữ có khuynh hướng đánh đồng
mình như nam giới, làm mất đi phong cách dịu dàng, mềm mại vốn có.
Khái niệm đồng hành trong thế giới
phương Tây có thể hiểu theo cách thức rất thoáng ở chỗ người ta đến với
nhau không cần hôn thú, không cần trách nhiệm gia đình. Hưởng thụ tính
dục trước hôn nhân là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ly dị. Đồng hành trong
nền văn hóa Phật giáo là phải hiểu cả hai có vai trò trọng trách ngang
nhau trong việc thiết lập hôn nhân. Không nên lý tưởng hóa rằng “túp lều
tranh hai quả tim vàng” mà phải sống bằng trí tuệ, thiết thực, hiểu
biết và cảm thông để tháo gỡ những bế tắc.
Chúng tôi có quen một gia đình rất thuần
từ, hiền lương ở Sacramento. Gia đình này có thói quen tổ chức thỉnh
mời các vị thầy hoặc sư cô đến thuyết pháp dù vị giảng sư đó thuộc bất
kỳ truyền thống tông môn pháp phái nào từ Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa
v.v... Nhìn bề ngoài có vẻ đây là gia đình hạnh phúc và đồng thuận. Vợ
phát tâm tổ chức, còn người chồng phụ giúp âm thanh, ánh sáng, bàn ghế
v.v... Sau mỗi buổi giảng, gia đình này tổ chức bữa tiệc chay nhỏ với
những món ăn khá ngon, miễn phí mời người tham dự chỉ để khích lệ tinh
thần. Nhưng đằng sau vẻ hạnh phúc đồng thuận ấy lại là cuộc sống băng
giá giữa quan hệ vợ chồng. Về nhà hai vợ chồng không nói chuyện với
nhau, việc ai nấy làm.
Chúng tôi đã mời cả hai vợ chồng đến để
tâm sự và yêu cầu anh chị thay vì đóng kịch với nhau trước mặt mọi người
thì hãy làm thật với nhau khi chỉ có hai người. Cái “tôi” sợ bị mặc cảm
tự ti rằng vợ hoặc chồng mình không đồng lòng đã làm nhiều người phải
giả tạo và trong cái giả tạo đó, khổ đau trỗi lên. Hãy đóng kịch thật
với nhau một cách nhập vai, mà nhập vai theo Phật giáo không gì khác hơn
là nhập tâm. Tức là thể hiện bằng tấm lòng thật sự, thấy rõ hai người
thương yêu nhau đắm đuối và cần nhau trên mọi nẻo đường trong sinh tử
luân hồi. Phải hài lòng với hạnh phúc như vậy. Cần để ý tới nhu cầu cảm
xúc, nhu cầu tình thương, nhu cầu chăm sóc và được chăm sóc của người
khác khi chúng ta xem người đó như bạn đồng hành suốt cuộc đời của mình.
Khi nhu cầu này được tưới tẩm thì không có việc gì mà hai bên không
thông cảm với nhau được.
Mạnh dạn bày tỏ tình cảm chân thật
Nói với nhau bằng tình thông cảm của
trái tim yêu thì mỗi sự giao lưu tiếp xúc sẽ tạo ra một giá trị nồng
nàn. Khi nỗi đau có mặt, nếu được nói những gì mình muốn thì nỗi đau đó
sẽ được phóng thích. Đây là phương pháp xả hơi trong tâm lý học trị liệu
của phương Tây.
Đừng để cho tình trạng lặng tắt kéo dài
quá lâu sẽ gây ngạt thở. Hai người cần thực tập hạnh Bồ tát, nghĩa là ôm
phần lỗi về phía mình mặc dù mình không có lỗi. Nhận mình có lỗi để
người kia có cơ hội nối kết và hàn gắn, còn hơn là lặng thinh. Tịnh khẩu
theo Phật giáo không phải là sự ngưng nói, mà là nói những điều có đạo
đức, có giá trị đoàn kết, thương yêu, xây dựng, hỷ xả, bao dung. Nói
cách khác, tịnh khẩu là nói những điều tích cực.
Trong kinh Tăng Chi, đức Phật nói: không
có sự hấp dẫn giới tính nào bằng giọng nói ngọt ngào của người nữ dành
cho người nam, và lời nói của người nam đối với người nữ. Sự thu hút
giới tính, sắc thái và lời lẽ qua âm thanh đóng vai trò rất quan trọng.
Khó ai có thể thương một người câm, vì thiếu sự truyền thông để biểu đạt
tình cảm. Hành động là yêu cầu không thể thiếu nhưng phải thể hiện bằng
lời nói để người khác cảm nhận sâu sắc hơn. Không phải ai cũng có được
sự tinh tế của tâm lý học để thấy não trạng và sự vận hành cảm xúc cũng
như tâm tính của người kia, do đó chúng ta phải thể hiện.
Nên nói đủ lời, đủ câu, tròn chữ, nói
những điều cần nói và có giá trị thì lời nói đó tăng cường nội dung của
tình yêu, tình thương, chất liệu hạnh phúc. Nhờ sử dụng ngôn ngữ, con
người mới hơn động vật. Các động vật thương con cái của chúng nhưng
không thể bày tỏ bằng lời. Phạm vi truyền thông của động vật kém hơn thế
giới loài người và con người phải tận dụng giá trị truyền thông bằng
ngôn ngữ này để giải quyết các bế tắc với nhau. Trong gia đình nếu có
người ít nói và người nói quá nhiều thì nó chỉ hấp dẫn nhau trong giai
đoạn đầu, nhàm chán nhau trong giai đoạn phát triển và phải ly thân
trong giai đoạn cuối vì hai bên không hợp. Truyền thông cần đi hai
chiều, không phải bên này nói còn bên kia chỉ im lặng và ngược lại. Nói
với nhau đúng phương pháp có thể tháo gỡ những bế tắc trong xã hội và
cộng đồng.
Duy trì ngọn lửa yêu trong hôn nhân
Sẵn
sàng đầu tư một phần tiền bạc, thể hiện qua một món quà hoặc một chuyến
du lịch xa để hai vợ chồng có không gian riêng tư hâm nóng lại những kỷ
niệm đẹp trong tình yêu hôn nhân. Hình thức này rất phù hợp với đạo
Phật và đây cũng là nhu cầu tâm sinh lý của con người. Kinh Thiện Sanh
có nêu ra một trong năm yếu tố dẫn đến hạnh phúc hôn nhân lâu dài, đó là
người chồng nên dành ra khoản tiền nhỏ tô điểm cho vợ mình trở nên xinh
đẹp hơn bằng phần quà hay những trang sức.
Người nữ thường cảm thấy hạnh phúc và
đặc biệt các cô có thể cảm nhận được từ sự chăm sóc dù nho nhỏ nhưng cụ
thể. Khi bế tắc diễn ra, người chồng hiểu tâm lý hiện đại từ lời kinh
Phật dạy có thể mua một phần quà nào đó gợi kỷ niệm đẹp của nhiều năm
về trước hoặc kỷ vật nào đó mà người bạn đời của mình không thể nào quên
khi nhìn thấy. Kỷ niệm ngày xưa sẽ tái hiện trong tâm thức hai người.
Đèn xanh của hòa bình, hàn gắn, sẽ khiến hai bên đều đi tới phía trước
chứ không dừng lại ở đèn vàng hay đỏ. Đây là dấu hiệu cần thiết và là
khởi điểm không thể thiếu.
Biểu tượng tình yêu phải thể hiện qua
hành động cụ thể. Trong các ngôi chùa thường thờ rất nhiều hình tượng
của Quan Âm, đôi khi có đức Thiên thủ thiên nhãn như một biểu tượng.
Trong mỗi bàn tay của Quan Âm đều có một con mắt. Con mắt tượng trưng
cho nhãn thức hay tuệ giác, còn bàn tay tượng trưng cho hành động cụ thể
bằng tình thương yêu. Như vậy, yêu một người nào đó thì không thể không
có sự chăm sóc lo lắng, bảo hộ, nâng đỡ, tặng biếu .v...v.
Với tư cách người tại gia, chúng ta có
thể sử dụng các kỹ năng này mặc dù biết rằng bản chất của tình yêu là
đắm trước, dính mắc một cách ghê gớm. Trong sự dính mắc đó, con người
nảy sinh nhiều hận thù với nhau. Người ngoài đôi khi không gây hận thù
cho chúng ta nhiều bằng những người thân yêu nhất. Lúc đó phải biết thực
tập buông xả để khi người ta thể hiện thiện chí muốn quay trở về thì
chúng ta đừng bao giờ bật đèn đỏ khiến sự nối kết đó lẽ ra trở thành
hạnh phúc cho cả hai, cho gia đình, cho những người thân và họ tộc trở
thành vết đau khó chữa lành.
Cho nên một khi đã nỗ lực hàn gắn thì
phải nêu quyết tâm lớn dẫn đến thành công, không bao giờ cho phép mình
bỏ cuộc nửa chừng. Đây là nghệ thuật tâm lý rất quan trọng, và khi đã
thành công thì tình cảm đó sẽ không còn phải hàn gắn thêm lần nào nữa.
Nền văn hóa phương Tây có lệ tổ chức kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới như
là nghệ thuật làm mới. Đôi khi hôn nhân lâu dài bền bỉ khiến người ta
cảm thấy nhàm chán thì vào những dịp mười năm, hai mươi năm, ba mươi,
bốn mươi, năm mươi năm, người ta tái hôn, mặc dù vợ chồng đó chưa từng
ly dị nhau. Đây là truyền thống văn hóa khá hay mà chúng ta có thể tham
khảo.
Bản chất của tình yêu không có gì xấu,
đạo Phật không bao giờ kháng cự lại tình yêu. Có lẽ chúng ta sẽ ngạc
nhiên khi đọc lại những trang kinh của đức Phật nói trong suốt bốn mươi
chín năm hoằng pháp của Ngài. Trong số đó có vài chục bài kinh đức Phật
dạy về các kỹ năng xây dựng hạnh phúc hôn nhân tình yêu gia đình. Điều
đó khẳng định chính xác rằng đạo Phật có số lượng bài kinh đề cập đến
bản chất của tình yêu và các nghệ thuật xây dựng hạnh phúc nhiều nhất
trong các loại văn học tôn giáo.
(Phiên tả và biên tập: Minh Cường – Giác Minh Duyên)
Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay