Mục lục
Lời Phi Lộ
Chương 1: Niệm Phật phải vì giải thoát sanh
tử
Chương 2: Niệm Phật phải phát
lòng Bồ Đề
Chương 3: Niệm Phật phải dứt
trừ lòng nghi
Chương 4: Niệm Phật phải quyết
định nguyện
Chương 5: Niệm Phật phải hành trì cho thiết
thật vãng sanh
Chương 6: Niệm Phật phải đoạn
tuyệt phiền não
Chương 7: Niệm Phật phải khắc
kỳ cầu chứng nghiệm
Chương 8: Niệm Phật phải bền
lâu không gián đoạn
Chương 9: Niệm Phật phải an
nhẫn các chướng duyên
Chương 10: Niệm Phật phải dự
bị lúc lâm chung
Lời sau cùng
Lời Phi Lộ
Bản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba đại
đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:
- Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông,
dường như có ý bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển Sáu
Cửa Vào Động Thiếu Thất có câu: ỏNiệm Phật tụng kinh đều là
vọng tưởngõ. Còn trong đây lại bảo: ỏMôn Tịnh Độ hợp thời
cơ, gồm nhiếp ba cãn, ki? thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mậtõ. Xem ra
cũng dường như có ý cho Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như
thế nào?
Đáp: Không phải thế đâu? Mỗi môn đều có tông
chỉ ri?g. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao
nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như
b? Thiền lấy: ỏChỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phậtõ
làm tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: ỏMột đời v?g sanh, được bất
thối chuyển?làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: ỏLìa thế gian nhập pháp
giớiõ làm tông. Thiên Thai giáo lấy: ỏMở, bày, ngộ vào tri
kiến Phậtõ làm tông. Bên Tam Luận lấy: ỏLìa hai bên, vào trung
đạoõ làm tông. Pháp Tướng môn lấy: ỏNhiếp muôn pháp về Chân
Duy Thứcõ làm tông. Mật giáo lấy: ỏTam mật tương ưng, tức thân
thành Phậtõ làm tông. Và Luật môn lấy: ỏNhiếp thân ngữ ý
vào Thi La Tánhõ làm tông.
Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác
Tịnh Độ, hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp
kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh
là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích Tôn cho đến chư Bồ
Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuy? dạy tụng kinh niệm Phật? Nên biết,
Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi
ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am đại sư cũng nhân
tụng kinh Hoa Nghi? mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo b? Tịnh
Độ cũng thế, không phải bác phá Thiền Tông, chỉ nói l? chỗ
đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét tìm hiểu
sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thú nhập.
Lại, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là
phương tiện dẫn chung về Phật Tánh. Như một đô thành lớn có tám
ngõ đi vào, mà nẻo nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông
đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ
phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng
đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận c?g thì dung hội tất cả, sự tức
lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách
khác: ỏsắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc
chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham thiền ngộ
đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó
chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp v?g sanh. Một vị thiền giả
bỗng lên tiếng hỏi: ỏCực Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại
cầu về làm chi?õ Đại sư quát bảo: ỏNgươi nói vô vi ngoài hữu
vi mà có hay sao?õ Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền
và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy
dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.
Đến như nói: ỏTịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba
cãn, ki? thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mậtõ, chính là lời khai thị
của chư cổ đức như: ỏLiên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật.
Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi
tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh Độ pháp
môn. Như Triệt Ngộ đại sư, trong tập Ngữ Lục, đ?bảo: ỏMột câu
A Di Đà, tâm yếu của Phật ta. dọc quán suốt nãm thời, ngang gồm
thâu tám giáõ. Và Kiên Mật đại sư sau khi quán sát thời cơ,
trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: ỏĐời nay tham thiền chẳng n? không
kiêm Tịnh Độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng
kinh sợ lạnh lòng?õ Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc
thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề
khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi
kém thiếu!õ Thế nên, thuốc không quí tiện, lành bệnh là thuốc
hay; pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền
Tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về cãn cơ, thì Thiền
Tông duy bậc thượng cãn mới có thể được lợi ích; cịn môn
Tịnh Độ thì gồm nhiếp cả ba cãn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ
thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người
trung, hạ căn nhiều, bậc thượng cãn rất ít nếu muốn đi đến
thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về
Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi lịng đại bi của Phật, Tổ, vì quán
thấy rõ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi,
nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một
sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật!
Tuy nhiên, như trong kinh nói: chúng sanh sở thích và
tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở
vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy
Tịnh Độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể
hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có
Thiền Tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích,
và Phật Pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho n? dù đã tùy căn
cơ, sở thích của mình mà chọn môn Tịnh Độ, thâm ý bút giả vẫn
mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền rộng tr? đất
nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một
điểm lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ.
Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ
nói riêng, đồng cùng đi về chân tánh, tuy hai mà một, đều nương
tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều rất cần có
mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.
Mấy vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán
đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão
nhơn để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng
quan điểm ấy:
Tức tâm là độ lý không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu
Không kiêm vô ngại cõi hằng sa
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mỗi vào ra!
Thích Thiền Tâm
cẩn chí
Mục
lục chi tiết
Chương 1 : Niệm Phật phải vì giải thoát sanh tử
Mục A.
Môn Tịnh Độ, Một Pháp Hợp Thời Cơ 3
Tiết 1 Bắc Phương Phật Giáo Với Nhân Duyên Tịnh Độ 3
Tiết 2 Những Huyền Ký Về Tịnh Độ 4
Tiết 3 Sự Chuyển Hướng Từ Thiền Sang Tịnh 6
Mục B.
Môn Tịnh Độ Với Vấn Đề Sanh Tử 10
Tiết 4 Niệm Phật Thế Nào Mới Hợp Với Bản Ý Của Phật? 10
Tiết 5 Tám Mối Khổ Lớn 14
Mục C.
Biết Khổ Phải Ý Thức Đến Sự Giải Thoát 20
Tiết 6 Quán Về Sự Khổ Luân Hồi 20
Tiết 7 Muốn Sớm Thoát Khổ, Nên Tu Tịnh Độ 23
Chương 2: Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề
Mục A. Luận
Về Bồ Đề Tâm 33
Tiết 8 Ý Nghĩa Của Bồ Đề Tâm 33
Tiết 9 Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ 36
Mục B. Những
Công Hạnh Của Bồ Đề Tâm 39
Tiết 10 Làm Thế Nào Để Phát Lòng Bồ Đề 39
Tiết 11 Những Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm 48
Mục C. Ba
Sự Kiện Thiết Yếu Đối Với Bồ Đề Tâm 55
Tiết 12 Đường Sanh Tử Nhiều Nguy Hiểm 55
Tiết 13 Cần Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp 58
Tiết 14 Làm Thế Nào Để Thành Mãn Bồ Đề Tâm 64
Chương 3: Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi
Mục A. Lòng
Tin, Cửa Vào Tịnh Độ 71
Tiết 15 Sự Trọng Yếu Của Lòng Tin 71
Tiết 16 Những Điều Làm Giảm Phá Niềm Tin 76
Mục B. Giải
Thích Các Điều Nghi 82
Tiết 17 Những Mối Nghi Thông Thường Về Tịnh Độ 82
Tiết 18 Những Mối Nghi Thiệp Lý 87
Tiết 19 Những Mối Nghi Cãn Cứ Theo Kinh Điển 102
Tiết 20 Cần Phá Lối Chấp Nhị Biên 109
Chương 4: Niệm Phật phải quyết định nguyện
Mục A. Nguyện
Thiết, Động Lực Chánh của Sự Vãng Sanh 117
Tiết 21 Tánh Cách Trọng Yếu Của Sự Phát Nguyện 117
Tiết 22 Kinh Vãn Khuy? Phát Nguyện 120
Tiết 23 Thử Xét Qua Những Tâm Nguyện Cầu Vãng Sanh 122
Mục B. Giới
Thiệu Lời Vãn Phát Nguyện Của Tiền Nhơn 129
Tiết 24 Vãn Phát Nguyện Của Ngài Liên Trì Và Từ Vân 129
Tiết 25 Phát Nguyện Cần Phải Khẩn Thiết 134
Chương 5: Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật vãng sanh
Mục A. Môn Niệm Phật Với Tứ
Đoạt Và Tứ Hạnh 141
Tiết 26 Hạnh Tinh Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu 141
Tiết 27 Niệm Phật Với Tứ Đoạt 143
Tiết 28 Niệm Phật Với Tứ Hạnh 146
Mục B. Khái Luận Về Các Phương
Pháp Niệm Phật 149
Tiết 29 Bốn Môn Niệm Phật 149
Tiết 30 Mười Phương Thức Trì Danh 153
Mục C. Đi Vào Đường Lối Thật
Hành 163
Tiết 31 Bốn Môn Tam Muội 163
Tiết 32 Ba Phần Hành Trì 167
Tiết 33 Cách Đối Trị Hôn Trầm Tán Loạn 175
Chương 6: Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền não
Mục A. Lược Đàm Về Tham Phiền Não
183
Tiết 34 Phương Diện Khai Tâm 183
Tiết 35 Đối Trị Dục Nhiễm 186
Tiết 36 Đối Trị Tham Vi Tế 190
Mục B. Lược Đàm Về Sân Phiền
Não 194
Tiết 37 Phương Pháp Đối Trị Sân 194
Tiết 38 Cách Đoạn Tuyệt Thị Phi 196
Tiết 39 Những Lời Khuyên Răn Về Việc Thị Phi 199
Mục C. Lược Đàm Về Si Phiền Não
207
Tiết 40 Nói Chung Về Nghiệp Si 207
Tiết 41 Phải Diệt Niệm Buồn Chán 210
Tiết 42 Cách Đối Trị Tổng Quát 215
Chương 7: Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng
nghiệm
Mục A. Nên Định Kỳ Kiết Thất 221
Tiết 43 Sự Sống Chết Lớn Lao 221
Tiết 44 Ý Nghĩa Kiết Thất 223
Tiết 45 Cách Đả Thất 226
Mục B. Quyết Định Cầu Nghiệm 230
Tiết 46 Sự Và Lý 230
Tiết 47 Sự Trì, Lý Trì 233
Tiết 48 Sự Nhứt Tâm, Lý Nhứt Tâm 243
Mục C.
Cảnh Giới Phát Hiện 247
Tiết 49 Nội Cảnh Giới 247
Tiết 50 Ngoại Cảnh Giới 253
Tiết 51 Biện Ma Cảnh 257
Tiết 52 Các Loại Ma 263
Chương 8: Niệm Phật phải bền lâu không gián
đoạn
Mục A. Yếu Điểm Của Môn Tịnh Độ
281
Tiết 53 Phải Nhớ Chí Nguyện Để Tinh Tấn 281
Tiết 54 Pháp Môn Thoát Sanh Tử Trong Một Đời 283
Tiết 55 Niệm Phật Chớ Sợ Cười, Đừng Chờ Hẹn 287
Mục B. Làm
Thế Nào Niệm Được Bền Lâu? 292
Tiết 56 Phải Tuần Tự Tiến Tu 292
Tiết 57 Nên Cầu Tinh Thuần, Đừng Tham Nhiều 295
Tiết 58 Chớ Để Mất Phần Nhập Phẩm 298
Mục C. Tịnh Độ, Môn Giải Thoát
Đặc Biệt 302
Tiết 59 Niệm Phật, Phương Pháp Dễ Tu 302
Tiết 60 Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm 304
Tiết 61 Mười Phương Tịnh Độ Và Đâu Suất Tịnh Độ 309
Chương 9: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng
duyên
Mục A. Nói Lược Về Các Duyên
Khảo 317
Tiết 62 Vài Nguyên Nhân Của Các Chướng Duyên 317
Tiết 63 Các Duyên Ma Khảo 321
Mục B. Phương Thức Hóa Giải
Chướng Duyên 333
Tiết 64 Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức 333
Tiết 65 Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển 341
Mục C. Những
Gương Về Sự An Nhẫn 349
Tiết 66 Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật 349
Chương 10: Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung
Mục A. Những Dự Bị Cần Thiết
Cho Lúc Lâm Chung 359
Tiết 67 Dự Bị Về Ngoại Duyên 359
Tiết 68 Dự Bị Về Tinh Thần 361
Mục B. Sự Khẩn Yếu Lúc Lâm
Chung 369
Tiết 69 Thỉnh Bậc Tri Thức Khai Thị 369
Tiết 70 Cách Thức Trợ Niệm 372
Mục C. Điều Khẩn Yếu Sau Khi
Mãn Phần 378
Tiết 71 Khi Tắt Hơi Cho Đến Lúc Truy Tiến 378
Tiết 72 Những Gương Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm 382
Lời sau cùng
---o0o---
Lời Sau Cùng
Người xưa bảo: Trứ thơ nghi tại vãn niên . Đây là
ý nói: Viết sách nên đợi lúc tuổi già, vì tuổi càng lớn càng
đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách viết ra giá trị mới có
thể được thành toàn. Bút giả chưa phải tuổi già muộn, chỗ kinh
nghiệm cùng sự hiểu biết tất còn nhiều thiếu sót, song vì cấp
thiết trong sự lợi tha, lại chẳng biết vô thường sẽ đến ngày
nào, nên gắng gượng xin đem chút ngu thành hiến dâng hàng thức
giả. Đây tuy nói là trứ tác song hầu hết phần lớn đều rút
lời trong kinh Phật, ý kiến của chư cổ đức c?g các bậc thiện tri
thức mà góp thành. Nên thiết tưởng cũng có thể đem lại lợi
ích phần nào cho bạn đọc.
Khi xưa Sở Thạch đại sư có hai câu thi:
Nhơn sanh bá tuế thất tuần hy.
Vãng sự hồi quan tận giác phi!
Lời này thốt ra trong lúc Ngài đã thất tuần, ý
than: kiếp người tuy nói trăm nãm, nhưng sống được bảy mươi tuổi
cũng rất ít có, và tuổi đ?bảy mươi như Ngài khi quy nhìn việc
cũ, thấy mình đều lỗi lầm. Một bậc cao tãng mà còn tự phê
kiểm dường ấy, thì hạng người phàm thường sự lầm lỗi biết
là bao nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình tội chướng còn dẫy
đầy, tự độ chưa xong mà mạo muội nói đến chuyện khuy? nhắc
người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng hoàng ngập ngừng không muốn
viết. Nhưng nghĩ lại danh từ khuyến hóa thật ra mình chẳng dám
đương, nhưng lấy tánh cách người trong biển khổ gắng kêu nhắc
đồng bạn cùng vượt qua biển khổ, để mong cho mình nhờ chút ảnh
hưởng đó tiêu bớt phần nào tội chướng nên mới không ngần
ngại.
Nhớ lại thuở đời nhà Minh bên Trung Hoa, ông La
Điện có soạn bài thi ỀTỉnh thếỂ như sau:
Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu,
Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.
Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,
Lãng lãng quên quên thấy bạch đầu.
Thị thị phi phi không kết liễu,
Phiền phiền não não những bi ưu.
Rành rành rõ rõ một đường đạo,
Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu!
Lời vãn tr? tuy thô sơ, dường như không có đạo
lý chi sâu sắc, nhưng đ?đem tất cả hành vi và chướng nghiệp trong
đời sống của kiếp người mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể
tránh khỏi khuôn khổ của bài thi trên đây, và cố gắng tu hành,
mới gọi là người đi trên đường giải thoát.
Ông La Điện sở dĩ có lời than tr? đây, bởi thấy
biển tục dễ chìm, đường tu khó bước. Trong Kinh Tứ Thập Nhị
Chương, đức Phật dạy:
Nhơn sanh có hai mươi việc khó:
- Nghèo khổ bố thí là khó
- Giàu sang học đạo là khó
- Xả thân quyết chết là khó
- Xem được kinh Phật là khó
- Nhịn sắc lìa dục là khó
- Sanh gặp đời Phật là khó
- Thấy tốt không cầu là khó
- Bị nhục chẳng giận là khó
- Có thế không ỷ là khó
- Gặp việc vô tâm là khó
- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
- Trừ bỏ ngã mạn là khó
- Không khinh kẻ chưa học là khó
- Tâm hành bình đẳng là khó
- Chẳng nói việc thị phi là khó
- Được gặp thiện tri thức là khó
- Thấy tánh học đạo là khó
- Tùy duyên độ người là khó
- Thấy cảnh không động là khó
- Khéo biết dùng phương tiện là khó.
Trong hai mươi điều trên, nơi đây chỉ xin nói lược qua
ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là khó, bởi nghèo khổ dù muốn
bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu gắng gượng bố
thí tất ảnh hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó.
Hoặc như giàu sang học đạo khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí,
song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu
hành. Sanh gặp đời Phật là khó, như Luận Trí Độ nói: Ở thành
Xá Vệ gồm chín ức dân mà chỉ có ba ức người được gặp thấy
Phật, ba ức người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp, và
ba ức người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được
thấy. Đức Phật ở tại xứ này giáo hóa trước sau hai mươi lãm
nãm, mà còn có ba ức người không thấy gặp nghe biết, thì những
kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi
Phật ra đời, tất cơ duy? gặp Phật hoặc nghe Phật pháp là điều
không phải dễ. Nhưng tuy không gặp Phật mà y theo Phật pháp tu hành,
thì cũng như gặp Phật. Nếu không theo lời Phật dạy, dù ở gần
Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề Bà Đạt Đa là em họ của
Phật, Tỳ Khưu Thiện Tinh làm thị gia cho Phật hai mươi năm, vì không
giữ đúng theo đường đạo, n? kết cuộc đều bị đọa địa ngục.
Và bà lão ở phía đông thành Xá Vệ, sanh đồng nãm tháng ngày
giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn thấy gặp Phật.
Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải
là người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên. Nay Như Lai
đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương
đạo pháp, nếu thân cận nghe theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng
được giải thoát. Nhưng kẻ cãn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức
cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không
hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo,
thì cũng đều vô ích. Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu
thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ
chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ
tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người
thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với
bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có
khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy
cao song tập khí cịn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy. Nếu
chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không được lợi ích
tr? đường đạo. Khi Phật cịn tại thế, ngài Ca Lưu Đà Di có thói
quen miệng nhơi qua nhơi lại như trâu; Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa
soi gương trang điểm; một vị Tỳ Khưu thích leo lên cây nhảy chuyền;
một vị Tỳ Khưu khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối.
Nhưng sự thật bốn vị này đều đ?chứng quả A La Hán cả. Bởi
kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỷ nữ, một vị làm
thân khỉ, một vị là dòng quí tộc Bà La Môn, nhiều đời ở trong
hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả song tập quán dư thừa hãy
còn. Lại như đức Lục Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa
chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện
làm kẻ dốt, không biết chữ. Ngọc Lam thiền sư vì muốn tránh duyên
để tu hành, nên mới giả làm người điên cuồng, quần áo lôi
thôi, ãn nói không chừng độ. Hư Vân hịa thượng vì thấy người
thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia
nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc, mật ý chỉ cho
ỀđạoỂ không phải ở nơi đầu trịn áo vuông. Nhưng đương thời
của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai chỉ trích đức Lục Tổ
là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng nhơn là
người phạm quy luật thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri thức
khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu,
để bớt sự cố chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng Ni. Còn các
việc khó kia, có thể suy ra để hiểu.
Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đ?, trong khó có
dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc
khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ Bà
Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đổi mặc chung một
chiếc khố, khi chồng đi làm vợ phải lỏa thể đóng cửa ở nhà,
vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư tăng
đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh ngh? khổ, hai
vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao qua cửa sổ
bố thí, đành cam cùng chịu lỏa thể đóng cửa nằm chết trong nhà.
Do sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị quốc vương hay được,
đem y phục tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai
vợ chồng đều có y phục t? thân, và sau cùng đều chứng đạo
quả. Cho n? tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng nếu hiểu cái nhân
nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém
khổ cực đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có
thể làm. Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi sáu tuổi, hai
mươi bốn tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật
xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu sang tột bực, ở lầu rồng
gác phượng ăn hải vị sơn hào, phi tần có cả hàng ngàn trang
tuyệt sắc giai nhơn, quyền lực nắm cả thần dân trong một nước,
sự phú quí còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian
vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật
là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo là khó, song đã quyết tâm
tất cũng có thể thật hành. Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn
thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng phải không làm được. Như
thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo khổ,
ở mướn cho người từ hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi
cũng còn vất vả, ban ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng
phải giả gạo đến canh hai, gà gáy sáng đã thức dậy quây quần
bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không rãnh rỗi như thế, muốn
tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến
hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giả gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y
phục, ngồi tu niệm đến quá nửa đ? mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết
tâm cố gắng đó, mà sau khi chết bà được sanh lên làm vị thiên
tử ở cung trời Dạ Ma.
Kính thưa quí vị! Thân người khó được, pháp Phật
khó nghe. Nay quí vị đ?được thân người, và có duyên xem đến
quyển này, tức là đã gặp được pháp môn thành Phật mầu
nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn, xin quí vị nhận rõ duyên
đời khổ mộng, quyết chí tu hành, để hoa sen báu bên trời tây
được nở thêm những hàng thượng thiện.
Ngày Phật Đản 2515
Thích Thiền Tâm
Kính phụng
Hồi Hướng
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Cũng như những lần xuất bản trước, quyển Niệm
Phật Thập Yếu này được thực hiện là do một số Phật tử tùy
hỷ phát tâm đóng góp. Vì muốn công đức in kinh sách được viên
mãn, cho nên chúng tôi không liệt kê phương danh ấn tống.
Những kinh sách của Hòa Thượng Thiền Tâm đã
được xuất bản:
Tịnh Độ Quyết Nghi Luận – 1997
Lá Thơ Tịnh Độ - 1998
Niệm Phật Thập Yếu - 1999
Quý vị đạo hữu muốn biết th? chi tiết về kinh sách
hoặc bãng cassette ấn tống, xin li? lạc về địa chỉ sau đây:
Tịnh Liên Đồ Thư Quán
42 Boulder Creek Way
Irvine, CA 92602
(714) 573-0779
Thứ Đệ và Chương Yếu
Thứ đệ trong quyển này, chia thành Chương, Mục, Tiết,
Đoạn khác nhau, mỗi Chương có nhiều Mục, mỗi Mục có nhiều Tiết,
và mỗi Tiết có nhiều Đoạn.
Về Chương chỉ có mười, ghi số thứ tự La Mã
(I-II-III) từ Đệ Nhất Yếu đến Đệ Thập Yếu.
Về Mục, ghi số thứ tự theo A-B-C.
Về Tiết, ghi số thứ tự 1-2-3, nhưng lại tiếp tục
quán thông từ đầu đến cuối quyển, diễn thành từ số 1 cho đến
số 72. Tuy sắp thành Chương, Mục, Tiết, Đoạn, nhưng Tiết mới chính
là đơn vị, và thành phần cốt cán của toàn quyển. Và quyển này
là sự kết hợp hay thành phần của 72 Tiết chung góp lại.
Về Đoạn, không n? chữ Đoạn, bởi nó chỉ có tánh
cách gây niệm chú ý hoặc sự phân biệt trong mỗi Tiết, nên bút
giả đánh dấu bằng ngôi sao ((), đôi khi cũng ghi theo số thứ tự
1-2-3. Nhưng đây chỉ là số ít, không có tánh cách quán xuyến thành
số nhiều như thứ tự của Tiết. Và đó là điểm khác biệt.
Niệm Phật Thập Yếu, theo nhan đề là mười điều
thiết yếu của môn Niệm Phật hay của người tu pháp Niệm Phật.
Mười điều này sẽ diễn thành mười chương theo như trên đã nói.
Mười chương ấy như sau:
Niệm Phật phải vì thoát sanh tử.
Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề.
Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi.
Niệm Phật phải quyết định nguyện v?g sanh.
Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật.
Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền n?.
Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng nghiệm.
Niệm Phật phải bền lâu không gián đoạn.
Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên.
Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung.
---o0o---