Trong số những nhà sáng lập các tôn giáo, đức Phật (nếu ta có thể gọi
Ngài là nhà sáng lập một tôn giáo theo nghĩa thông thường của danh từ) là vị
Thầy độc nhất đã không tự xưng là gì khác hơn là một con người, hoàn toàn chỉ
là một con người. Những vị Giáo chủ khác thì hoặc là Thượng đế, hay Thượng đế
nhập thể trong những hình thức khác nhau, hay được Thượng đế mặc khải. Ðức Phật
không những chỉ là một con người, Ngài lại còn là một con người tự nhận không
được một thiên khải nào từ bất cứ một vị thần linh hay một quyền năng nào khác.
Ngài tuyên bố tất cả những gì Ngài thực hiện được, đạt đến được và hoàn
thành được, đều hoàn toàn do nỗ lực và trí tuệ con người. Chỉ có con người mới
có thể thành Phật. Mọi người đều mang trong mình khả năng thành Phật nếu họ
muốn và nỗ lực. Ta có thể gọi đức Phật là một Con Người tuyệt luân. Ngài quá
toàn thiện trong "nhân tính" của Ngài đến nỗi về sau, trong tôn giáo
của đại chúng, Ngài được xem như một "Siêu nhân".
Theo Phật giáo, hoàn cảnh con người thật tuyệt.
Con người tự mình làm chủ mình, không có một thực thể hay quyền năng nào cao
hơn có thể định đoạt số phận nó. Ðức Phật dạy:
Tự ta là chỗ nương tựa cho ta, còn ai khác có thể làm nơi nương
tựa?"
Ngài khuyên các môn đệ hãy "nương tựa nơi
chính mình," không bao giờ nên tìm nơi nương tựa hay sự giúp đở của bất cứ
người nào khác. Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ võ mỗi người tự mở mang và
tìm sự giải thoát cho chính mình, vì con người vốn có năng lực tự giải thoát
khỏi mọi ràng buộc bằng trí tuệ và nỗ lực của chính mình. Ðức Phật dạy:
"Các đức Như Lai giảng dạy Chánh đạo, nhưng chính các ngươi phải làm việc
của mình." Nếu người ta gọi đức Phật là một "đấng Cứu thế " thì
cũng chỉ vì Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng
tự chúng ta, ta phải bước trên đường ấy.
Chính vì nguyên tắc trách nhiệm cá nhân này mà đức
Phật cho các môn đệ hoàn toàn tự do. Trong kinh Mahàparinibhàna (Ðại Bát
Niết-bàn), đức Phật dạy Ngài không bao giờ nghĩ mình điều khiển Tăng già (Sangha)
và Ngài cũng không muốn đoàn thể này tùy thuộc vào Ngài. Ngài dạy rằng trong
giáo lý của Ngài, không có lý thuyết huyền bí, không có gì giấu giếm trong
"nắm tay của đức Ðạo Sư" (àcariyamutthi), hay nói cách khác, Ngài
không giấu gì trong tay áo cả .
Trong lịch sử các tôn giáo, người ta không thấy
một tôn giáo nào khác có tự do tư tưởng như Phật giáo. Sự tự do này thật cần
thiết, vì theo đức Phật, sự giải thoát của con người tùy thuộc vào chính sự
trực nhận chân lý, chứ không phải vào ân huệ của một thần linh hay một quyền
năng bên ngoài nào ban thưởng cho sự quy phục.
Một lần, đức Phật viếng thăm dân Kàlàmas ở
Kesaputta một thành phố nhỏ trong vương quốc Kosala. Khi nghe đức Phật đến,
những người Kàlàmas đến thăm và bạch Ngài:
"Bạch đức Thế Tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà la
môn đến viếng Kesaputta. Họ giảng giải và làm sáng tỏ những lý thuyết của mình,
nhưng khinh miệt, lên án, bài xích lý thuyết của những người khác. Rồi có những
ẩn sĩ và Bà la môn khác cũng chỉ giảng giải và làm sáng tỏ những lý thuyết của
riêng họ, khinh miệt, lên án và phỉ báng những lý thuyết của những người khác.
Nhưng bạch Thế Tôn, về phần chúng con, chúng con luôn luôn hoài nghi và hoang
mang, không biết ai trong số những ẩn sĩ và Bà la môn khả kính ấy đã nói sự
thật, ai nói quấy."
Khi ấy đức Phật đã ban cho họ lời khuyên độc đáo
như sau:
"Hỏi dân Kàlamas, các ngươi hoài nghi, hoang
mang là phải, vì vấn đề ấy rất khả nghi. Hỏi dân Kàlamas, đừng để bị lôi cuốn
bởi những lời thuật lại, hay bởi truyền thuyết, hay bởi những lời đồn. Ðừng để
bị dắt dẫn bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suy diễn, hay bởi những bề
ngoài đáng tin, hoặc bởi lạc thú tư duy về các quan điểm, hay bởi những gì có
vẻ hữu lý, hay bởi ý nghĩ: "Ðây là thầy ta." Nhưng hỏi Kàlamas, khi
nào các ngươi tự mình biết một việc gì là bất thiện, sai, xấu, thì hãy dứt
bỏ... và khi các ngươi tự mình biết một điều gì là thiện, tốt, thì hãy chấp
nhận, đi theo."
Ðức Phật còn đi xa hơn nữa. Ngài bảo các Tỳ kheo
rằng một môn đệ cần phải xét đoán ngay cả đức Như Lai (đức Phật), để có thể
hoàn toàn tin chắc giá trị của vị thầy mà mình đang theo.
Theo giáo lý của đức Phật, nghi (vicikichà) là một
trong năm chướng ngại (ngũ cái, nivarana), năm trở ngại cho sự hiểu biết chân
lý và cho sự tiến bộ tâm linh (hay cho bất cứ sự tiến bộ nào). Tuy nhiên, nghi
không phải là một "tội lỗi", bởi vì trong Phật giáo không có những
"tín điều". Quả thế, trong đạo Phật không có "tội lỗi" hiểu
theo nghĩa "tội lỗi" trong vài tôn giáo khác. Cội rễ của mọi sự xấu
xa là vô minh (Avijjà) và tà kiến (micchà ditthi). Một điều không thể chối cãi
là bao lâu còn có hoài nghi, hoang mang, do dự, thì không thể nào có tiến bộ.
Cũng không thể chối cãi được rằng hoài nghi không tránh được khi mà con người
không hiểu rõ, thấy rõ. Nhưng để tiến xa hơn, thì tuyệt đối cần phải xa lìa
hoài nghi. Muốn khỏi hoài nghi, ta cần phải thấy rõ.
Vấn đề không phải là ta không nên hoài nghi hay
nên tin tưởng. Chỉ nói rằng "tôi tin", không có nghĩa là bạn đã hiểu
và thấy rõ. Khi học sinh giải một bài toán đến giai đoạn không biết làm sao để
tiếp tục, thì sẽ rơi vào hoài nghi bối rối. Nếu còn hoài nghi, y không thể tiến
lên, nên cần phải dứt nghi. Có nhiều cách giải quyết; nhưng không phải chỉ nói
"tôi tin" hay "tôi không nghi" mà giải được bài toán. Tự
buộc mình phải tin tưởng và chấp nhận một điều mình không hiểu gì hết, là một thái
độ chính trị, không phải thái độ tâm linh hay trí thức.
Ðức Phật luôn luôn bài xích hoài nghi. Cả đến khi
Ngài sắp mất, vài phút trước khi lìa trần, Ngài còn nhiều lần bảo các môn đệ
phải hỏi kỹ nếu còn có hoài nghi nào về Giáo lý của Ngài, để sau đừng hối tiếc
vì không thể giải hết những thắc mắc. Nhưng các môn đệ đều im lặng.
Khi ấy đức Phật dạy một lời rất cảm động:
"Nếu vì kính nể Như Lai mà các con không dám hỏi điều gì, thì mỗi người
hãy nói cho bạn biết" (có nghĩa là mỗi người hãy nhờ bạn hỏi giùm cho mình
điều thắc mắc).
Không những sự tự do tư tưởng, mà còn sự khoan
hồng của đức Phật, đã làm cho người nghiên cứu tôn giáo sử phải ngạc nhiên. Một
thuở nọ ở Nàlandà, một người giàu có và lỗi lạc tên Ưu-bà-li (Upàli), một đồ đệ
tại gia hữu danh của phái Ni-Kiền-tử (Nigantha - Nàtaputta) thuộc Kỳ na giáo
của Jaina Mahàvìra, được chính Mahàvìra cử đến gặp đức Phật để tranh luận và
bài bác vài điểm trong thuyết Nghiệp báo, bởi vì quan điểm của đức Phật về vấn
đề này khác với quan điểm của Mahàvìra. Trái ngược với mong đợi, Upàli sau khi
tranh luận phải chấp nhận rằng những quan điểm của đức Phật là đúng và quan
điểm của thầy mình sai. Bởi thế ông ta cầu xin đức Phật nhận mình làm một đệ tử
tại gia (Upàsaka, Ưu-bà-tắc). Nhưng đức Phật bảo ông ta hãy suy nghĩ lại, và đừng
vội vã, vì "sự xét đoán cẩn thận rất tốt cho những người lỗi lạc như
ông." Khi Upàli lập lại những lời cầu xin, đức Phật khuyên ông hãy tiếp
tục kính trọng và ủng hộ những vị thầy cũ của ông ta như trước.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, vị hoàng đế Phật
tử A Dục vương của xứ Ấn Ðộ, theo gương đức tính khoan hồng và thông cảm cao
quý ấy, đã kính trọng và nâng đở tất cả mọi tôn giáo khác trong đế quốc lớn
rộng của ông ta. Trong một lời tuyên bố của Hoàng đế khắc trên trụ đá đến nay
ta còn đọc được:
"Người ta không nên chỉ kính trọng tôn giáo
của riêng mình và bài bác những tôn giáo của kẻ khác, mà phải kính trọng tôn
giáo kẻ khác vì lý do này hay lý do khác. Như thế ta có thể làm cho tôn giáo
mình phát triển và giúp đở các tôn giáo khác nữa. Nếu không, tức là ta đã đào
huyệt chôn chính tôn giáo của mình, và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào
chỉ kính trọng tín ngưỏng của mình và bài xích những tín ngưỏng khác, thực ra
họ đã làm thế vì sùng kính tín ngưỏng của riêng mình, nghĩ rằng: "Tôi sẽ
làm rạng danh tôn giáo của tôi". Nhưng trái lại, khi làm thế họ đã làm tổn
thương tôn giáo mình một cách trầm trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hảo là tốt
đẹp: mọi người nên lắng nghe, và có thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà
người khác đề xướng." Ở đây, ta cũng nên thêm rằng tinh thần hiểu
biết cảm thông ấy ngày nay cần được áp dụng, không những chỉ trong vấn đề lý
thuyết tôn giáo, mà còn ở trong những địa hạt khác nữa.
Tinh thần khoan dung thông cảm ấy từ khởi thủy đã
là một trong những lý tưởng được yêu chuộng nhất trong văn hóa và văn minh Phật
giáo. Chính vì thế mà suốt trong lịch sử 2500 năm truyền giáo, Phật giáo đã Á
châu, và hiện nay có trên 500 triệu tín đồ. Bạo động, dưới bất cứ hình thức
nào, lý lẽ nào, cũng đều tuyệt đối trái ngược với giáo lý đức Phật.
Người ta thường hỏi: Phật giáo là một tôn giáo hay
một triết học? Gọi nó là gì, điều ấy không quan trọng, Phật giáo vẫn là Phật
giáo, dù bạn dán lên đấy nhãn hiệu gì đi nữa. Nhãn hiệu là điều phụ thuộc. Ngay
cả nhãn hiệu Phật giáo mà ta đặt cho Giáo lý đức Phật cũng không mấy quan hệ.
Cái tên mà ta đặt cho Phật giáo là điều không thiết yếu.
Có gì trong một danh từ?
Hoa hồng hương ấy cho dù tên chi.
Cũng thế, chân lý không cần nhãn hiệu, nó không là
Phật giáo, Gia tô giáo, Ấn giáo, hay Hồi giáo. Chân lý không là độc quyền của
ai. Những nhãn hiệu tông phái là một trở ngại cho sự hiểu biết chân lý một cách
tự tại, và chúng làm phát sinh những thành kiến tai hại trong tư tưởng con
người.
Ðiều này đúng không những trong các vấn đề trí
thức và tâm linh, mà còn cả trong những giao tiếp giữa người với người. Chẳng
hạn, khi ta gặp một người, ta không nhìn họ như một con người, mà ta đặt cho họ
một nhãn hiệu như Anh, Pháp, Ðức, Mỹ hay Do Thái, và xét người ấy với tất cả
những thành kiến đi kèm với nhãn hiệu ấy trong trí ta. Nhưng người ấy có thể
hoàn toàn vượt khỏi những thuộc tính mà ta gán cho họ.
Con người vốn ưa thích những nhãn hiệu phân biệt,
đến nỗi họ đặt cả những nhãn hiệu ấy lên trên những đức tính và cảm xúc mà mọi
người đều có. Họ nói đến những "loại" bác ái khác nhau, chẳng hạn:
Bác ái Phật giáo và Bác ái Gia tô giáo, và khinh bỉ những nhãn hiệu bác ái
khác. Nhưng lòng bác ái không thể là bè phái, nó không là Chúa, Phật, Ấn hay
Hồi. Tình thương của một bà mẹ đối với con không là Phật hay Chúa: đấy là tình
mẹ. Những đức tính và cảm xúc của con người như tình yêu, bác ái, từ bi, khoan
hồng, kiên nhẫn, tình bạn, ham muốn, thù hận, biếng trễ, ngu si, tự phụ v.v..
không cần đến những nhãn hiệu bè phái, chúng không thuộc về một tôn giáo nào cả.
Ðối với người đi tìm chân lý, một tư tưởng do từ
đâu đến là điều không quan hệ. Nguồn gốc và sự phát triển của một tư tưởng là
vấn đề của học giả. Quả vậy, để hiểu sự thật, chúng ta không cần biết đến ngay
cả lời dạy đến từ đức Phật hay từ một người nào khác. Ðiều thiết yếu là thấy rõ
vấn đề, hiểu nó. Có một câu chuyện quan trọng trong Trung bộ kinh
(Majjhima-nikàya) (kinh số 140) làm sáng tỏ điều này.
Một hôm, đức Phật ở lại đêm trong xưởng một người
thợ làm đồ gốm. Cũng trong xưởng ấy có một ẩn sĩ trẻ đến đấy trước Ngài.Họ
không biết nhau. Ðức Phật quan sát người ẩn sĩ và tự nhủ: "Thanh niên này
có những cử chỉ đáng mến. Ta nên hỏi xem về người này." Bởi thế đức Phật
hỏi người ấy: "Hỏi khất sĩ, nhân danh ai mà bạn đã từ bỏ gia đình? Ai là
thầy của bạn? Bạn thích lý thuyết của ai?"
Chàng thanh niên đáp: " bạn ơi, có ẩn sĩ Cồ
đàm dòng họ Thích ca, đã từ bỏ gia đình để trở thành một ẩn sĩ. Người ta đồn
rằng đấy là một vị Arahant (A-la-hán), một bậc toàn giác. Chính nhân danh con
người thánh thiện ấy mà tôi đã trở thành một ẩn sĩ. Người là Thầy tôi, và tôi thích
lý thuyết của người."
- Vậy chớ con người Thánh thiện ấy, vị A-la-hán,
đấng toàn giác ấy bây giờ ở đâu?
- Ở các xứ về phương Bắc, hỏi bạn, có một đô thị gọi là Sàvatthi (Xá vệ). Chính
đấy là nơi đấng Thế Tôn, vị A-la-hán, đấng Toàn giác đang ở.
- Bạn đã có khi nào thấy vị ấy chưa, đấng Thế Tôn
ấy? Nếu gặp Người, bạn có sẽ nhận ra Người hay không?
- Tôi chưa bao giờ thấy đức Thế Tôn ấy. Nếu gặp
Người, tôi cũng sẽ không làm sao nhận ra được.
Ðức Phật nhận ra rằng chính nhân danh Ngài mà
người thanh niên xa lạ này đã từ bỏ gia đình và trở thành một khất sĩ. Nhưng
vẫn không để lộ tông tích. Ngài bảo:
- Hỏi khất sĩ, tôi sẽ dạy cho bạn lý thuyết.
Hãy chú ý lắng nghe. Tôi sẽ nói.
- Ðược, bạn nói đi. Người trẻ tuổi chấp thuận.
Khi ấy đức Phật giảng dạy cho thanh niên một bài
thuyết pháp đặc sắc nhất về chân lý (mà ta sẽ trình bày những điểm tinh yếu về
sau).
Chỉ sau khi nghe Ngài thuyết pháp xong, ẩn sĩ tên
Pukkusàti mới nhận ra rằng người nói với mình chính là đức Phật. Anh cúi thấp
mình dưới chân đức Ðạo sư, và xin lỗi Ngài vì đã không biết mà gọi Ngài là
"bạn". Rồi người ấy cầu xin đức Phật truyền giới pháp và nhận mình
vào đoàn thể Tăng già.
Ðức Phật hỏi anh ta đã có y, bát sẵn sàng chưa
(một bhikkhu - tỳ kheo - phải có 3 y và 1 bình bát để khất thực). Khi Pukkusàti
trả lời không có, đức Phật dạy rằng những đức Như Lai (Tathàgatas) sẽ không thọ
ký cho một người nào nếu họ không có sẵn y, bát. Bởi thế Pukkusàti ra đi tìm y
và bát, nhưng rủi thay dọc đường anh ta bị bò húc chết.
Về sau khi tin buồn ấy đến tai đức Phật, Ngài bảo
môn đệ rằng Pukkusàti là một người thánh thiện đã thấy được chân lý và đã đạt
đến giai đoạn gần cuối trên đường thực hiện Niết-bàn, và được tái sinh vào một
cõi, ở đấy người ấy sẽ trở thành một vị A-la-hán và cuối cùng chết để không bao
giờ phải trở lại thế gian này.
Qua câu chuyện trên ta thấy rõ là khi Pukkusàti
lắng nghe đức Phật và lãnh hội được lời dạy của Ngài, anh ta không biết người
đang nói với mình là ai, hay đấy là giáo lý của ai. Anh ta tìm thấy chân lý.
Nếu vị thuốc hay thì bệnh sẽ lành. Không cần thiết phải biết ai làm nên vị
thuốc ấy, hay nó từ đâu lại.
Hầu hết mọi tôn giáo đều được thiết lập trên đức
tin - đúng hơn, lòng tin mù quáng - nhưng đạo Phật nhấn mạnh trên sự "thấy
biết", hiểu rõ, lãnh hội, chứ không
phải trên lòng tin. Trong các bản kinh văn Phật
giáo có danh từ Saddhà (Skt. Sraddhà) thường được dịch là đức tin, lòng tin
tưởng. Nhưng saddhà không phải là "đức tin" theo nghĩa thông thường,
mà đúng hơn đấy là "tín", phát sinh do sự quyết đoán. Trong đạo Phật
bình dân và cả trong cách dùng thông dụng nơi các bản kinh, ta phải công nhận
danh từ "saddhà" có một phần ý nghĩa "đức tin" khi nó được
giảng là sự nương theo Phật, Pháp (Dhamma) và Tăng (Sangha, đoàn thể Tăng già).
Theo Vô Trước, triết gia vĩ đại về Phật học vào
thế kỷ thứ tư, "tín" có ba phương diện:
1) Sự tin tưởng chắc chắn và toàn vẹn về một điều
gì.
2) Niềm vui thanh thoát về những đức tính.
3) Sự ước vọng hay mong muốn hoàn thành một mục đích theo đuổi.
Dù hiểu thế nào, đức tin theo nghĩa phần lớn các
tôn giáo có rất ít liên quan với đạo Phật.
Vấn đề đức tin phát sinh khi không có sự thấy rõ -
thấy với mọi ý nghĩa. Khi ta thấy rõ, vấn đề đức tin biến mất. Nếu tôi bảo
bạn rằng trong nắm tay tôi có một hòn ngọc, thì vấn đề tin tưởng đặt ra vì
chính bạn không thấy được viên ngọc. Nhưng nếu tôi mở nắm tay và chỉ cho bạn
viên ngọc, thì chính bạn đã thấy, vấn đề tin tưởng không còn đặt ra nữa. Bởi
thế trong các bản kinh xưa có câu: "Nhận biết như người ta thấy một viên
ngọc trong lòng tay."
Một môn đệ của Phật tên Musìla bảo một thầy tu
khác: "Này bạn Savittha, không cần đức tin, lòng tin tưởng sùng bái, không
cần ưa thích hay thiên vị, không cần
nghe lời đồn đãi hay truyền thuyết, không cần xét
đoán những lý lẽ bề ngoài, không cần lạc thú trong sự tư duy về các quan niệm,
tôi biết và thấy rằng sự chấm dứt của sinh tử là Niết-bàn."
Và đức Phật đã dạy: "Hỏi các Thầy Tỳ kheo, ta
nói rằng sự diệt trừ những điều xấu xa, bất tịnh là cốt để cho một người đã
thấy và biết, chứ không phải để cho một người không thấy và không biết."
Vấn đề luôn luôn là biết và thấy chứ không phải là
tin. Giáo lý của đức Phật được gọi là ehi-passika, mời bạn "đến để
thấy", chứ không phải đến để tin.
Trong các bản kinh văn, những từ ngữ luôn luôn
được dùng để chỉ những người đã chứng ngộ chân lý là "Pháp nhãn (con mắt
pháp: dhamma-cakkhu), không bụi bặm và không cáu bẩn, đã phát sinh: "Người
nào đã thấy chân lý, đã nhập vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không
còn do dự. Với trí tuệ chân chính, người ấy thấy đúng như thật (yathà
bhùtam)". Nói đến sự giác ngộ của chính Ngài, đức Phật dạy: "Con mắt
đã phát sinh, trí đã phát sinh, kiến giải đã phát sinh, ánh sáng đã phát
sinh". Luôn luôn đấy là sự thấy biết qua trí hay tuệ (nàna-dassana), chứ
không phải là tin tưởng qua đức tin.
Ðiểm này càng ngày càng được tán dương vào thời mà
giáo lý chính thống Bà la môn bắt buộc phải tin tưởng và đương nhiên chấp nhận
truyền thống và thẩm quyền của họ như chân lý độc nhất. Một ngày kia, một nhóm
Bà la môn học thức lỗi lạc đến viếng đức Phật và tranh luận rất lâu với Ngài.
Một người trong bọn, một thiếu niên Bà la môn mười sáu tuổi tên Kàpathika, được
cả bọn xem là thông minh xuất chúng, đã hỏi đức Phật:
- Thưa đức Cồ đàm, có những bài thánh kinh xưa cũ
của những người Bà la môn được truyền tụng liên tục qua những bản kinh khẩu
truyền. Về những bài kinh ấy, những người Bà la môn đã có kết luận tuyệt đối
này: "Chỉ có đây mới là Chân lý, và mọi điều khác đều là sai lầm."
Vậy đức Cồ đàm sẽ nói gì về điều ấy?
Ðức Phật hỏi:
- Trong những người Bà la môn, có một người Bà la
môn nào tuyên bố tự mình biết và thấy rằng "chỉ có đây mới là chân lý, mọi
điều khác đều là sai lầm chăng?"
Người thiếu niên thật thà đáp:
- Không.
- Thế thì, có một vị thầy nào, hay một vị thầy của
những vị thầy nào trong những người Bà la môn lùi về thời đại thứ bảy, hay cả
đến bất cứ một người nào trong số những tác giả đầu tiên của những kinh điển
ấy, đã tuyên bố rằng ông ta biết và thấy: "Chỉ có đây mới là chân lý, mọi
sự khác đều sai lầm?"
- Không.
- Vậy thì họ giống như một chuỗi những người mù
nối đuôi nhau, người đầu tiên không thấy, người giữa cũng không thấy và người
cuối cùng cũng không thấy.
Như thế thì dường như trạng huống của những người
Bà la môn giống như trạng huống của một chuỗi người mù.
Rồi đức Phật cho nhóm người Bà la môn một lời
khuyên vô cùng quan trọng: "Một người trí giữ gìn chân lý không nên đi đến
kết luận: "Chỉ có đây mới là sự thật, và mọi điều khác đều sai lầm."
Khi thiếu niên Bà la môn yêu cầu Ngài giải thích ý nghĩa thế nào là "giữ
gìn chân lý", đức Phật dạy:
"Một người tin tưởng một điều gì. Nếu y nói:
"Ðây là lòng tin của tôi" như thế là y đã giữ gìn chừng ấy sự thật.
Nhưng y không thể đi đến kết luận tuyệt đối: "Chỉ có đây mới là chân lý,
và mọi sự khác đều sai lầm." Nói cách khác một người có thể tin điều gì
tùy ý, và có thể nói "tôi tin điều này". Như thế là y tôn trọng sự
thật. Nhưng y không nên vì lòng tin ấy mà nói rằng chỉ có cái gì y tin mới là
chân lý, và mọi sự khác đều sai."
Ðức Phật dạy: "Chấp trước một điều gì (một
quan điểm nào) và khinh miệt những điều khác (quan điểm khác) xem là thua kém -
bậc trí giả gọi đấy là một xiềng xích."
Một hôm đức Phật giảng dạy cho môn đệ lý thuyết về
nhân quả, và họ thưa rằng đã thấy và hiểu rõ điều ấy. Ðức Phật liền dạy:
"Hỏi các Tỳ kheo, ngay cả quan niệm ấy, minh
bạch và rõ ràng như thế, nhưng nếu các ông bám chặt vào đó, nếu các ông quý
chuộng nó, nếu các ông cất giữ nó, nếu các ông ràng buộc vào với nó, thì vậy là
các ông đã không hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, cốt dùng để qua sông
chứ không phải để mà ôm giữ lấy."
Ở một chỗ khác, đức Phật giảng ẩn dụ danh tiếng
này, trong ấy giáo lý được ví như một chiếc bè dùng để qua sông, chứ không phải
để nắm giữ và mang trên lưng.
"Hỏi các Tỳ kheo, một người đi du lịch, đến
một khoảng sông rộng. Bờ bên này rất nguy hiểm, nhưng bờ bên kia thì an ổn và
không có nguy nan. Không có một con thuyền nào để qua bên kia bờ sông, cũng
không có một chiếc cầu nào để đi qua. Người ấy tự nhủ: "Con sông thật
rộng, bờ bên này đầy hiểm nguy, nhưng bờ bên kia thì an ổn không nguy hiểm.
Không có con thuyền nào để sang bên kia, cũng không có một chiếc cầu nào để
qua. Bởi thế, thật sẽ rất tốt nếu ta lượm cỏ, gỗ, cành cây và lá để làm một
chiếc bè, và nhờ chiếc bè đó mà qua bờ kia cho an ổn, dùng cả tay chân ta để
chống chèo." Rồi hỏi các Tỳ kheo, người ấy lượm cỏ, gỗ, cây, lá mà làm một
chiếc bè, và nhờ chiếc bè ấy đưa sang bờ bên kia một cách an ổn, chống chèo
bằng chân tay mình. Sau khi đã vượt qua sông đến bờ kia, y nghĩ: "Chiếc bè
này thật đã giúp ích cho ta rất nhiều. Nhờ nó ta đã vượt qua an ổn đến bờ sông
bên này, chống chèo bằng tay chân ta. Thật đáng nên mang chiếc bè này trên đầu
hay trên lưng bất kỳ ta đi đâu."
- Các ông nghĩ thế nào hỏi các thầy Tỳ kheo? Nếu
người ấy làm như thế thì hành động của y có phải là một hành động thích đáng
đối với chiếc bè hay không?
- Bạch Thế Tôn, không.
"Vậy thì y nên làm thế nào với chiếc bè? Sau
khi đã vượt qua sông và đến bờ bên kia, giả sử người ấy suy nghĩ: "Chiếc
bè này thật đã có công dụng rất lớn với ta. Nhờ nó ta đã sang đến bờ sông bên
này một cách an ổn, chống chèo bằng tay chân ta. Ta nên để chiếc bè này trên
nước, rồi tiếp tục đi bất cứ đâu." Ấy là hành động một cách thích đáng đối
với chiếc bè. Cũng thế, hỏi các Tỳ kheo, ta đã truyền dạy một giáo lý tương tự
như một chiếc bè, nó cốt dùng để vượt qua, chứ không phải để mang theo, ôm giữ.
Hỏi các Tỳ kheo, đã hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, thì pháp (dhamma)
các ông còn phải lìa bỏ, huống nữa phi pháp (adhamma) thì lại càng nên xả bỏ
biết chừng nào."
Từ ẩn dụ này ta thấy rõ rằng giáo lý của đức Phật
là cốt để đưa con người đến an ổn, thanh tịnh, hạnh phúc, đạt đến Niết-bàn
(Nirvàna). Toàn bộ lý thuyết đức Phật dạy đều dẫn đến cứu cánh ấy. Ngài không
nói ra những điều chỉ để mà thỏa mãn tò mò tri thức. Ngài là một vị Thầy thực
tiễn chỉ dạy những điều sẽ đem lại hạnh phúc an vui cho con người.
Một lần đức Phật ở lại trong một rừng Simsapa ở
thành Kosambi (gần Allanhabad). Ngài cầm một nắm lá, và hỏi các môn đệ:
- Hỏi các thầy Tỳ kheo, các thầy nghĩ thế nào? Lá
trong tay ta nhiều hơn hay lá trong rừng nhiều hơn?
- Bạch đức Thế Tôn, lá trong tay của đấng Giác ngộ
rất ít, nhưng lá trong rừng Simsapa đây quả thật nhiều hơn muôn vàn.
- Cũng thế, hỏi các Tỳ kheo, ta chỉ dạy các ông
rất ít từ những gì ta đã kiến giải được. Những gì ta không nói với các ông thì
thật nhiều hơn muôn vàn. Và tại sao Như Lai đã không giảng dạy những điều ấy?
Bởi vì nó không ích lợi... không đưa đến Niết-bàn. Chính vì thế mà ta đã không
nói những điều ấy.
Thật là vô ích cho ta khi cố suy tưởng - như vài
học giả đã cố làm một cách vô vọng - về những gì đức Phật biết nhưng không nói
cho môn đệ.
Ðức Phật không muốn bàn đến những vấn đề siêu hình
không cần thiết, hoàn toàn thuộc địa hạt tư duy, phát sinh những tưởng tượng.
Ngài xem chúng như một "rừng quan niệm". Dường như chính trong số
những môn đệ của Phật cũng có những người không thích thái độ này của Ngài.
Trường hợp một người trong số ấy là Man đồng tử (Màlunkyaputta) đã thưa hỏi 10
câu hỏi cổ điển danh tiếng về những vấn đề siêu hình và xin đức Phật trả lời.
Một ngày kia Màlunkyaputta, sau khi xuất thiền vào
buổi xế, đi đến đức Phật đảnh lễ, ngồi xuống một bên và hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, khi con đang ngồi thiền định
một mình, ý tưởng này đã đến với con: "Có những vấn đề mà đức Thế Tôn đã
không giải thích, để sang bên và loại bỏ. Ðấy là:
1. Vũ trụ trường tồn, hay 2. không trường
tồn;
3. Vũ trụ hữu hạn, hay 4. vô hạn;
5. Linh hồn là một với thể xác, hay 6. linh hồn khác thể xác khác.
7. Ðức Như Lai có còn tồn tại sau khi chết, hay 8. Ngài không tồn tại sau khi
chết.
9. Ngài vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết, hay 10. Ngài vừa không tồn
tại và cũng vừa không không tồn tại.
Những vấn đề này đức Thế Tôn đã không giải thích
cho ta, thái độ này không làm ta thỏa mãn. Ta không ưa thích thái độ ấy. Ta sẽ
đi đến đức Thế Tôn và thưa hỏi Ngài về việc này. Nếu đức Thế Tôn không giải
thích cho chúng ta, ta sẽ từ bỏ đoàn thể tăng chúng và ra đi. Nếu đức Thế Tôn
biết được vũ trụ trường cửu, Ngài hãy nói thế. Nếu đức Thế Tôn không biết vũ
trụ là trường cửu hay không v.v.. thì một người không biết hãy nên nói thẳng ra
là: "Ta không biết, ta không thấy rõ".
Sự trả lời của đức Phật cho Màlun-kyaputta quả có
lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới hiện nay đang phung phí thời giờ quý
báu vào những vấn đề siêu hình và làm bận trí mình một cách không cần thiết:
- Này Màlunkyaputta, ta có bao giờ nói với ông:
"Hãy lại đây, Màlunkyaputta, sống đời thánh thiện dưới bóng ta, ta sẽ giải
thích những vấn đề ấy cho ông hay không?"
- Bạch Thế Tôn, không.
- Còn ông, này Màlunkyaputta, ông có nói với ta:
"Bạch Thế Tôn, con sẽ sống đời thánh thiện dưới bóng Ngài và Ngài sẽ giảng
giải những vấn đề ấy cho con không?"
- Bạch Thế Tôn, không.
- Ngay bây giờ, Màlunkyaputta, ta không nói với
ông: "Hãy đến sống đời thánh thiện dưới bóng ta, ta sẽ giải thích những
vấn đề ấy cho ông". Và ông cũng không nói với ta: "Bạch Thế Tôn, con
sẽ sống đời thánh thiện dưới bóng đức Thế Tôn và Ngài sẽ giải những vấn đề ấy
cho con." Trong những trường hợp ấy, hỏi người điên rồ kia, ai chối từ ai?"
Hỏi Màlunkyaputta, nếu một người nào nói:
"Tôi sẽ không sống đời thánh thiện dưới bóng đức Thế Tôn nếu Ngài không
giải thích cho tôi những vấn đề ấy" thì y có thể chết trước khi những câu
hỏi được Như Lai giải đáp. Giả sử, hỏi Màlunkyaputta, một người bị trúng mũi
tên độc và bạn bè bà con đưa y đến một y sĩ. Giả sử khi ấy người kia nói:
"Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không biết được ai bắn, người ấy
là một người Sát đế lị (Ksatriya) hay một người Bà la môn (thuộc giai cấp tu
sĩ) hay một người Phệ xá (Vaisya, giai cấp thương nông) hay một người Thủ đà la
(Sùdra - thuộc giai cấp hạ tiện), tên người ấy là gì, gia đình ra sao, người ấy
cao, thấp hay tầm vóc trung bình, da người ấy đen, nâu hay vàng, người ấy đến
từ làng tỉnh hay đô thị nào. Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không
biết được loại cung nào đã bắn ta, dây cung ra sao, loại mũi tên gì, làm bằng
lông gì và đầu tên làm bằng chất gì." Hỏi Màlunkyaputta, người ấy sẽ chết
trước khi biết được điều nào trong số những câu hỏi ấy. Cũng thế, hỏi
Màlunkyaputta, nếu một người nói: "Ta sẽ không theo đời sống thánh thiện
dưới bóng đức Như Lai cho đến khi Ngài giải đáp những câu hỏi như: thế giới
trường tồn hay không, v.v..", người ấy sẽ chết trước khi được Như Lai giải
đáp.
Khi ấy đức Phật giải thích cho Màlun-kyaputta rằng
đời sống thánh thiện không phụ thuộc vào những quan niệm ấy. Dù người ta có
quan niệm thế nào về những vấn đề ấy đi nữa, thì vẫn có sinh, lão, bệnh, tử,
ưu, bi, khổ não... mà sự chấm dứt những điều ấy (nghĩa là Niết-bàn) ta nói là
có thể thực hiện ngay trong cuộc sống này.
Bởi thế, này Màlunkyaputta, hãy ghi nhớ trong tâm
trí: những gì ta đã giải thích, thì coi là được giải thích và những gì ta đã
không giảng giải thì xem là đã không được giảng giải. Những gì là điều ta đã không
giảng giải? Thế giới trường cửu hay không v.v.. (10 quan niệm trên) ta đã không
giải thích. Vì sao, hỏi Màlunkyaputta, mà ta đã không giải thích chúng? Bởi vì
nó không ích lợi, không quan hệ căn bản đến đời sống thánh thiện tâm linh,
không đưa đến sự chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ đau, sự an tĩnh, sự
thâm nhập, sự liễu ngộ Niết-bàn. Chính vì thế mà ta đã không nói cho ông về
những vấn đề ấy.
Còn những gì, hỏi
Màlunkyaputta, ta đã giải thích? Ta đã giải thích khổ (dukkha), nguyên nhân của
khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến sự diệt khổ. Hỏi Màlunkyaputta, vì sao
mà ta đã giải thích chúng? Bởi vì nó ích lợi, nó quan hệ căn bản đến đời sống
thánh thiện tâm linh, nó đưa đến sự chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ
đau, sự an tĩnh, sự thâm nhập, sự liễu ngộ, Niết-bàn. Bởi thế ta đã giải thích
chúng."
Walpola Rahula
Nguyên tác: "What The
Buddha Taught"
Theo: Buddha Sasana