LỜI ĐẦU SÁCH
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật
dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn
đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh. Để cứu
khổ chúng sanh, ngài An Thế Cao người nước An Tức sang Trung Hoa vào
đời Hán Hoàn Đế ở kinh đô Lạc Dương, trước tiên trích dịch tám điều giác
ngộ biên thành quyển kinh Bát Đại Nhân Giác này.
Chỉ cần tám điều giác ngộ ở đây, người Phật tử khéo ứng dụng tu hành
sẽ tan biến hết mọi khổ đau và lần bước tiến lên cấp bậc Bồ-tát cho đến
Phật quả. Hiệu dụng của tám điều giác ngộ quả thật không thể nghĩ bàn,
nếu ai thực tập thực tu sẽ nhận được kết quả không nghi ngờ. Hàng Phật
tử chúng ta chớ thấy quyển kinh mỏng mà xem thường, phải nghiền ngẫm cho
tận tường, phải tu tập cho thuần thục sẽ đạt được bản nguyện thoát ly
sanh tử.
Vì thấy tính cách tuy đơn giản nhưng quan trọng của quyển kinh, nên
chúng tôi đem ra giảng cho Tăng Ni và Phật tử trước nhất. Đồng thời muốn
Tăng Ni nhớ mãi, chúng tôi dịch thành văn vần để học mau thuộc.
Hiện nay các Thiền sinh hợp tác ghi chép lại lời giảng của tôi để phổ
biến cho những bạn đồng tu được cơ hội đọc lại quyển kinh này. Để tỏ
lòng tùy hỉ, tôi xin ghi ít dòng ở đầu sách.
THÍCH THANH TỪ
Viết tại Thiền viện Thường Chiếu
Ngày 27-08-1997
MỞ ĐẦU
Theo chương trình học ba năm thì kinh Bát Đại Nhân Giác được dạy đầu
chương trình. Tôi sẽ giảng ngay bản kinh chữ Hán, do ngài An Thế Cao
trích dịch, để cho quí vị mới học Phật dễ nhận ra yếu chỉ tu hành.
Bát: Là tám.
Đại Nhân: Là người lớn. Người lớn mà Phật muốn nói ở
đây là người giác ngộ thấy rõ các pháp đúng như thật, không còn mê lầm
các pháp. Theo đạo Phật, người chưa biết tu gọi là phàm phu. Người nghe
lời Phật dạy, phát tâm tu chứng từ Sơ quả Tu-đà-hoàn, đến Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán, thì gọi là Thanh văn. Còn người phát tâm tu Lục độ
vạn hạnh chứng từ Thập tín… lên Sơ địa tiến dần đến Thập địa, gọi là
Bồ-tát. Và khi công hạnh tự giác giác tha của Bồ-tát đã viên mãn thì
thành Phật.
Như vậy, hàng Bồ-tát, Phật gọi là đại nhân.
Giác: Là biết, là trí tuệ tối thượng do tu chứng mà
thành, thấy biết đúng lẽ thật, chớ không phải cái biết thiển cận sai lầm
của người thế gian.
Bát Đại Nhân Giác là tám điều giác ngộ của Phật và Bồ-tát.
Kinh: Những lời giảng dạy của Phật, được kết tập lại
thành bộ gọi là kinh. Lời Phật dạy vừa phù hợp với chân lý, vừa thích
hợp với căn cơ tâm lượng của chúng sanh, trải qua ba thời quá khứ, hiện
tại, vị lai đều đúng. Kinh Phật nói cốt giáo hóa chúng sanh khiến cho
chúng sanh nghe hiểu tin nhận tu hành, để thấy rõ lẽ thật và được giải
thoát.
Kinh Bát Đại Nhân Giác, do ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn ra chữ
Hán, vào thời Hậu Hán đời vua Hán Hoàn Đế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ 2
(148 Tây lịch). Ngài là Thái tử nước An Tức (Parthie), nay một phần
thuộc Ba Tư (Persia) một phần thuộc A Phú Hãn (Afghanistan). Lúc bấy giờ
Phật pháp từ Ấn Độ truyền sang An Tức rất thịnh hành, Ngài xuất gia tu
học, thông suốt kinh luận. Sau Ngài đem Phật pháp truyền vào Trung Quốc,
và dịch kinh này từ chữ Phạn ra chữ Hán.
Thông lệ các kinh mở đầu đều có lục chủng chứng tín của ngài A-nan khi kết tập: Tôi nghe như vầy, một thuở nọ, Phật ở tại… Nhưng
mở đầu kinh Bát Đại Nhân Giác không có phần này là tại sao? Vì lúc bấy
giờ Phật pháp mới truyền vào Trung Quốc, người học Phật chưa thâm nhập
giáo lý nhiều, nếu để trọn bộ kinh dày cho họ đọc, e không kham đọc nổi,
nên Ngài phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều
bộ kinh mà dịch, phân ra: thứ nhất, thứ hai, thứ ba… đến thứ tám, tập
thành Kinh Bát Đại Nhân Giác, để cho người mới phát tâm
tu học dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp, rồi sau mới học
tiếp những phần khác sâu rộng hơn. Vì lý do đó, mà kinh Bát Đại Nhân
Giác không có lục chủng chứng tín của ngài A-nan khi kết tập.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 1
CHÁNH VĂN:
Vi Phật đệ tử,
Thường ư trú dạ,
Chí tâm tụng niệm,
Bát Đại Nhân Giác.
DỊCH:
Chúng ta đã là hàng Phật tử,
Đêm lẫn ngày hằng giữ thọ trì.
Chí thành tụng niệm nhớ ghi,
Tám điều giác ngộ của vì Đại nhân.
GIẢNG:
Ngài An Thế Cao dạy: Nếu chúng ta đã là đệ tử Phật thì phải trì tụng
nhớ nghĩ tám điều giác ngộ mà Phật và Bồ-tát đã dạy đã làm, để bắt chước
tu theo và sau đó chúng ta cũng sẽ được giác ngộ thành Bồ-tát, thành
Phật như các ngài.
CHÁNH VĂN:
Đệ nhất giác ngộ:
Thế gian vô thường,
Quốc độ nguy thúy.
Tứ đại khổ không,
Ngũ ấm vô ngã.
Sanh diệt biến dị,
Hư ngụy vô chủ.
Tâm thị ác nguyên,
Hình vi tội tẩu.
Như thị quán sát,
Tiệm ly sanh tử.
DỊCH:
Điều thứ nhất phải thường giác ngộ:
Đời vô thường quốc độ bở dòn.
Khổ không tứ đại thon von,
Năm ấm vô ngã có còn chi đâu.
Đổi đời sanh diệt chẳng lâu,
Giả dối không chủ lý mầu khó tin.
Tâm là nguồn ác xuất sanh,
Thân hình rừng tội mà mình chẳng hay.
Người nào quán sát thế này,
Lần hồi sanh tử sớm chầy thoát ra.
GIẢNG:
Đệ nhất giác ngộ
Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, lời dạy của Ngài là những phương
pháp hướng dẫn cho mọi người tu, chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện,
chuyển mê thành giác. Hiện tại chúng ta tự nhận mình là Phật tử học pháp
của Phật, đi con đường Phật đã đi, người thì mới học Phật, người thì
học đã lâu, vậy có ai được phần nào giác ngộ chưa? Tại sao chúng ta học
pháp Phật, tu theo Phật, mà Phật đã giác ngộ chúng ta lại chưa giác ngộ?
Tuy nói thế, song nếu nghiệm xét lại thì quí vị sẽ thấy mình có ít
phần giác ngộ. Tôi tin chắc như vậy. Vì có học có tu theo Phật là có
giác ngộ. Giác nhiều hay ít là tùy theo sự tu tỉnh của mình sâu hay cạn,
điều này mỗi người tự biết.
Có nhiều người thường nghe nói chúng sanh thì mê, Phật thì giác, mà
không hiểu thế nào là mê và mê cái gì? thế nào là giác và giác cái gì?
Nếu chúng ta là Phật tử, mà không biết thế nào là mê và mê cái gì, thế
nào là giác và giác cái gì, thì tu suốt kiếp cũng không biết mình tu tới
đâu. Nếu hiểu thế nào là mê thì biết thế nào là giác. Nói mê nói giác
là nói theo danh từ nhà Phật, nói theo thế gian thì gọi là lầm.
Ví dụ người thế gian mua đồ trang sức như bông tai, cà rá làm bằng
thau mạ vàng mà không biết, nên trả giá ngang với vàng thật thì gọi đó
là mua lầm, đồ giả tưởng là đồ thật. Khi biết là đồ giả thì hết lầm, hết
lầm thì hết mê.
Thêm một ví dụ nữa: Người đi đến nhà quen mà quên số nhà, hoặc quên
đường nên đi lộn, không tìm được nhà mà họ muốn đến. Khi có người chỉ
đúng đường đi và số nhà chính xác, thì người ấy không còn lầm lẫn nữa.
Giống như người hết mê là đã tỉnh. Cũng vậy, cái giả cho là thật, đạo
Phật gọi là mê, cái giả biết là giả thì gọi là giác. Mê và giác không
xa. Vậy, quí Phật tử học tu theo Phật có biết cái gì là giả, cái gì là
thật chưa?
Thế gian vô thường,
Quốc độ nguy thúy.
Từ lâu, chúng ta mê lầm là mê lầm cái gì? Tất cả mọi người ai cũng
thấy thân này là bền chắc, mọi cảnh vật, mọi sanh hoạt hằng ngày là
thật. Rồi đinh ninh mình sẽ sống đến bảy tám mươi tuổi, hoặc một trăm
tuổi… Vì vậy mà mải mê lo làm ăn, lo dành dụm tiền của để được giàu có.
Lo cho sự nghiệp thế gian nhiều chừng nào là tốt chừng nấy, có của nhiều
để hưởng cả đời và để lại cho con cháu được đầy đủ hơn người. Ai ai
cũng đều có ý nghĩ đó, nhưng có mấy ai muốn mà được như ý? Vì vậy nên
điều giác ngộ thứ nhất Phật nói: “thế gian là vô thường”, cõi đời mà
chúng ta đang sống đây không lâu bền, có đó rồi mất đó. Ví dụ quả núi
đang đứng sừng sững bị người bắn phá, dời đá đi nơi khác, núi trở thành
đất bằng. Mới ngày nào sông sâu nước chảy xiết, giờ đây đã được lấp đầy
phù sa. Trước kia chỗ này là dinh thự phố lầu nguy nga, nay chỉ còn là
đống gạch vụn điêu tàn hoang sơ. Xưa, chỗ kia đồng không hoang vắng, nay
trở thành đô thị chợ búa lâu đài phồn thịnh sung túc, xe cộ dập dìu.
Nhà kia xưa giàu có bây giờ nghèo khổ cơ cực. Gia đình nọ, cha con,
chồng vợ sum vầy, giờ đây đã chia ly xa cách, hoặc chết mất đi mấy
người… Đó là cảnh vật vô thường biến đổi. Thế mà bấy lâu nay đa số chúng
ta vẫn có ý niệm thế gian mãi mãi thường còn. Đó là ý niệm sai lầm của
kẻ mê. Nếu người nào thấy được sự vật ở cõi đời này, nay còn mai mất, có
đó rồi mất đó, người thấy như thế là người tỉnh, người giác. Thế tại
sao chúng ta không dám nhận mình có tỉnh có giác? Phật giác ngộ hoàn
toàn, chúng ta nhờ có học có tu theo lời Phật dạy, chúng ta cũng giác
được đôi phần, tuy giác chút chút cũng là có giác.
Nhưng có người nghe Phật nói thế gian vô thường, cũng hiểu và thấy
thế gian vô thường, rồi tưởng mình đã hiểu thấu suốt lý vô thường. Nhưng
khi gặp việc làm ăn có lợi, lại toan tính hơn thua, lo dành để của tiền
sự nghiệp từ đời này qua đời nọ… Người đó tôi nói vẫn còn thấy thế gian
là thường. Tuy có giác, nhưng chỉ giác một chút rồi mê. Giác độ vài
mươi phút hoặc một giờ thôi, giác như thế là giác gián đoạn, giác từng
phần. Phật và Bồ-tát thì hằng giác, giờ nào phút nào các ngài cũng thấy
biết như thế. Chúng ta thì lúc giác lúc mê; nếu gặp cảnh trái ý nghịch
lòng, buồn khổ tang thương thì thấy đời là vô thường; khi gặp cảnh vừa
lòng ưa thích thì quên đi, thấy là thường. Như vậy là giác gián đoạn,
lúc giác lúc mê.
Nếu muốn được giác liên tục thì phải làm sao? Đây là ước nguyện của
người muốn tu tiến, muốn được giác ngộ hoàn toàn như Bồ-tát, như Phật.
Ví dụ quí vị nghe một bài thơ, một câu ca dao thấy hay, nhưng nghe qua
một lần thì không nhớ, nếu nghe liền ghi chép đọc đi đọc lại nhiều lần,
huân tập thì sẽ thâm nhập, muốn đọc liền nhớ, không quên, không ngập
ngừng.
Cũng vậy, lâu nay chúng ta huân tập việc thế gian. Cha mẹ, anh em,
gia tộc… dạy mình cuộc đời là thường, nên rồi ai cũng tranh danh đoạt
lợi, lo cho ta, cho gia đình, cho bà con quyến thuộc, ham làm giàu, ham
sung sướng, cái gì cũng tính lâu dài cả trăm năm cả ngàn năm. Nay nghe
Phật nói “thế gian là vô thường”, chúng ta nghiệm xét lại thấy rõ cuộc
đời là vô thường, Phật nói rất đúng! Tuy biết Phật nói đúng, nhưng nếu
nghe qua rồi bỏ, thì chúng ta chỉ giác một chút thôi. Nếu chúng ta
thường nhớ, thường quán xét lời Phật dạy, thấy rõ thế gian là vô thường,
từ thân tâm con người cho tới hoàn cảnh đều là vô thường. Cứ như vậy mà
quán xét huân tu thường xuyên, thì chúng ta càng ngày càng thấu đạt
thâm sâu lý vô thường Phật dạy. Lúc bấy giờ đối với thân tâm, cũng như
cảnh vật bên ngoài, không còn lầm chấp, thấy rõ là vô thường, như thế
mới thật là giác. Đó là do chúng ta thường xuyên huân tu, xông ướp tâm
mình qua lời dạy sáng suốt của Phật, nên mới được sáng suốt giác ngộ,
khi gặp cảnh vô thường tâm vẫn an nhiên tự tại. Như vậy không phải
A-la-hán, Bồ-tát là gì? Còn nếu nói tu học theo Phật, Phật dạy vô thường
mà Phật tử lại thấy là thường, khi đối diện với cảnh vô thường vẫn cứ
buồn khổ khóc than. Như vậy là chưa giác ngộ. Sở dĩ chúng ta học đạo
giác ngộ mà không giác, là vì chúng ta nghe qua rồi bỏ không chịu huân
tu, không chịu quán xét nhận định rõ ràng, thì không thể tỉnh giác như
Bồ-tát, như Phật được. Bồ-tát, Phật trước kia cũng là một con người như
chúng ta, do thường xuyên quán xét huân tu nên các ngài thấy rõ các pháp
là vô thường. Vì vậy, mà đối với mọi cảnh thuận nghịch, các ngài vẫn an
nhiên tự tại. Gặp danh, gặp lợi, gặp sắc, gặp tài… các ngài dửng dưng
không nhiễm không động, vì biết nó là vô thường.
Lại có nhiều người học đạo, nghe giảng về lý vô thường khen thầy
giảng hay. Song, nghe rồi trả tất cả cho thầy, riêng mình thì cứ lo tính
chuyện thế gian, không bỏ sót một việc nào. Tính chuyện làm ăn sao cho
có lợi nhiều, làm sao cho giàu, làm sao cho con mình học giỏi, ham muốn
chuyện thế gian đủ điều nào danh nào lợi… Rồi căn cứ trên ngày tháng xét
thấy mình học Phật đã lâu, mà sao vẫn còn mê còn nhiễm và còn khổ. Sở
dĩ như vậy là do thiếu huân tu thiếu quán xét. Yếu tố tu hành là ở chỗ
mình phải huân tu quán xét thường xuyên cho thuần thục như Bồ-tát, như
Phật. Nếu thường xuyên quán xét huân tu thuần thục, thì làm gì có mê, có
nhiễm, có khổ? Thế nên người học Phật biết tu, khi nghe một câu Phật
pháp, liền ghi nhận, tu suốt đời. Còn người học Phật mà không biết tu,
dù cho nghe hết ba tạng kinh, luật, luận, cũng không nhớ thực hành. Nếu
nghe hiểu nhớ và thực hành thì sẽ thấy lời Phật dạy rất thực tế, rất hữu
ích, giúp người giải thoát mọi khổ đau.
Tôi xin hỏi Phật tử:
- Quí vị có thấy thế gian này là vô thường không?
- Thưa thấy.
- Phật nói có đúng không?
- Thưa đúng.
- Biết Phật nói đúng chúng ta phải làm sao?
- Thưa phải theo.
Theo không chưa đủ, mà phải huân tu, tức là luôn luôn ghi nhớ và thực
hành, thực hành cho đến khi nào nhìn sự vật có hình tướng đều thấy là
vô thường, chừng đó mới thật sự giác ngộ. Khi đã thấu suốt lý vô thường,
giả sử lỡ tay rớt món đồ đắt tiền, chúng ta không buồn tiếc. Hoặc nhà
cửa, xe cộ bị hư bị mất chúng ta thấy nó vô thường, nên cũng không buồn
không khổ. Cho đến việc thế gian hợp tan còn mất, và ngay cả thân mạng
này có già có đau có chết, chúng ta cũng không còn khổ đau nữa. Đó là
nhờ chúng ta học Phật và biết tu, nên mới hết khổ. Vì vậy nên nói đạo
Phật là đạo cứu khổ.
Từ lâu chúng ta mê lầm, mê mình mê vật, được thì mừng vui, mất thì
buồn khổ. Song, người đời đâu có ai được hoài, đa số là mất nhiều hơn
được. Quí Phật tử lớn tuổi xét lại sẽ thấy rõ điều này, nào mất cha mẹ,
mất anh em, mất thân tộc, mất bạn bè, mất đủ thứ…, rồi đây sẽ mất luôn
mạng sống của mình nữa! Mọi sự đau khổ cứ dồn dập! Người thân mất, ai mà
không buồn, không rơi nước mắt. Chỉ khi nào thấu đạt được lý vô thường
là một lẽ thật, chừng đó mới hết buồn hết khổ. Người thâm nhập được lý
vô thường của Phật dạy, gặp thuận duyên hay nghịch cảnh, biết việc gì
đến là phải đến, nên an nhiên bình thản đón nhận không loạn động bất an.
Người nay đi chùa cúng Bồ-tát, mai đi chùa cúng Phật, mà không chịu
huân tu, khi gặp việc trái ý nghịch lòng, thì buồn khổ khóc than, trách
Phật Bồ-tát từ bi cứu khổ, mà con khổ hoài sao các ngài không cứu. Người
đi chùa học Phật như thế, chắc chắn không bao giờ được Phật cứu khổ.
Phật biết chúng sanh tối tăm mê mờ, không thấy đúng lẽ thật, Ngài mới
chỉ bày cho thấy thế gian là vô thường, pháp nào là giả, pháp nào là
thật, dạy cho chúng sanh huân tu để có cái nhìn như Phật như Bồ-tát. Khi
đã thấy biết các pháp đúng như thật là giác ngộ giải thoát mọi khổ đau.
Đó là Phật đã cứu khổ cho chúng ta, cứu bằng cách dạy cho chúng ta thấy
đúng lẽ thật. Vậy mà chúng ta không chịu hiểu, cứ đòi Phật cứu bằng
cách này cách nọ, hoặc cho cái này cho cái kia, đòi hỏi những chuyện
thật là vô lý!
Người học Phật uyên thâm đã thấm nhuần đạo đức, lúc nào cũng được
bình an không còn buồn vui với những duyên thuận hay nghịch. Người thấy
rõ thế gian vô thường, là thấy đúng theo tinh thần giác ngộ. Thấy như
vậy từng phút từng giờ là giác ngộ từng phút từng giờ. Thấy như vậy hằng
ngày hằng tuần là giác ngộ hằng ngày hằng tuần. Nếu cứ thấy như vậy
luôn luôn từ ngày này đến tháng kia năm nọ, thì không là bậc Chánh giác,
Bồ-tát, cũng là Phật tử Phật tôn. Trái lại, học cũng học, tu cũng tu,
nhưng đối duyên xúc cảnh buồn khổ vẫn buồn khổ, khóc than vẫn khóc than
như khi chưa tu, người như thế chưa xứng danh Phật tử. Học mà không
hành, tu mà không quán xét, việc buồn khổ xảy đến cầu Phật cứu, Phật làm
sao cứu kịp!
Học Phật là học đạo giác ngộ, chúng ta đem lời Phật dạy áp dụng ngay
vào đời sống hằng ngày, đó là chúng ta tu để được giác ngộ như Phật.
Tứ đại khổ không,
Ngũ ấm vô ngã.
Sanh diệt biến dị,
Hư ngụy vô chủ.
Kiếp người khổ, không ngoài những cái khổ mà Phật đã nêu là sanh khổ,
già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, thù oán gặp gỡ khổ,
mong cầu không được khổ, năm ấm hưng thạnh khổ. Đã giác ngộ thế gian là
vô thường thì khi già mình không thấy khổ, khi bệnh mình không thấy
khổ… Như vậy, già đến biết người có trẻ ắt có già, bệnh đến biết có thân
ắt có bệnh, nó đến mặc nó, không lo buồn sợ sệt. Nhờ có tỉnh giác, mà
chúng ta tự cứu mình thoát bao nhiêu cái khổ trong cuộc sống hiện tại.
Người Phật tử muốn được kết quả an vui tự tại, thì ngay khi học Phật,
liền đem lời Phật dạy ứng dụng vào đời sống hằng ngày, bằng cách quán
xét, nhận thức, huân tu. Như vậy lâu ngày, đối trước cảnh khổ mà người
không tu đau khổ thống thiết, chúng ta vẫn bình thản an nhiên không bị
chi phối. Tu như vậy ngay trong hiện đời sẽ hết khổ, chớ không phải chờ
về Cực Lạc mới hết khổ. Nguyện về Cực Lạc cho hết khổ mà không lo tu
tỉnh, đó chỉ là nguyện suông thôi.
Lâu nay chúng ta cho thân người là thật, cái suy nghĩ cũng là thật.
Do mê lầm chấp chặt như vậy, nên cứ lo gom góp của cải để cho mình và
con cháu hưởng. Mình suy nghĩ cái gì cũng cho là đúng, bắt mọi người
phải nghe theo làm theo… Ở trước chấp cảnh, tới đây thì chấp thân và tâm
là thường là ngã. Vì chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất
đất, nước, gió, lửa giả hợp mà có. Song bốn chất này thường xung khắc
nhau, đất ngăn ngại nước, nước xoi mòn đất, nước làm tắt lửa… Chúng xung
khắc mà hợp nhau lại, nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa, như
đau yếu bệnh hoạn, hoặc khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì rã
tan. Vì vậy nên nói thân tứ đại là khổ.
Phàm người thế gian cho là khổ khi bụng đói cồn cào mà không được
miếng ăn no dạ, nhưng khi được ăn no đủ thì hết khổ. Hoặc khi bị rét run
mà không có áo da, mền nỉ, lò sưởi làm cho ấm đó là khổ, nhưng khi đủ
tiện nghi sưởi ấm thì hết khổ. Hoặc bị tai nạn lạc loài bơ vơ nghèo
thiếu đó là khổ, nhưng khi được người bảo bọc cho cơm ăn, áo mặc, nhà ở
là hết khổ. Người thế gian thấy khổ khi đói, thấy vui khi no; thấy khổ
khi rét buốt, thấy vui khi ấm áp; thấy khổ khi nghèo thiếu vật chất,
thấy vui khi vật chất sung mãn. Những cái khổ này là những cái khổ nhỏ
ai cũng biết, còn nỗi khổ lớn mà người đời không thấy không biết, ở đây
Phật muốn chỉ là cái khổ vô thường đang bức bách thân tâm con người. Đứa
bé sơ sanh vừa lọt lòng mẹ liền khóc oa oa, vì đang ở trong lòng mẹ êm
ấm, ra khỏi lòng mẹ bị khí trời bức xúc có cảm giác đau rát… Chẳng những
con khóc mà mẹ cũng đau đớn khi banh da xẻ thịt sanh ra đứa con, nên
Phật nói sanh khổ. Qua bao tháng năm, đứa bé được cha mẹ nuôi dưỡng lớn
khôn. Khi trưởng thành rồi thì dần dần già yếu, mắt mơ, tai điếc, tóc
bạc, răng long, chân mỏi, gối dùn, ăn uống không ngon, đi lại khó khăn…
Đến tuổi già thường đau yếu bệnh hoạn, nay bệnh này mai bệnh kia, thân
thể nhọc nhằn đau nhức khó chịu. Khi đau chạy chữa thuốc thang, mà bệnh
không giảm cứ tăng hoài thì sẽ chết. Song, trước khi chết thì tâm thần
rối loạn lo sợ hãi kinh, không biết mình sẽ đi về đâu. Môi miệng lệch
méo, tay chân co giựt… vô cùng khổ sở.
Lại, nơi thân này những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc,
răng… thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt… thuộc
về nước. Những vật có tính động như hơi thở vô, hơi thở ra thuộc về
gió. Nhiệt độ như hơi ấm trong thân thuộc về lửa. Hiện tại khoa học phân
tích thân người có vô số tế bào, song không ngoài bốn món đất, nước,
gió, lửa. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này là ta thật, cứ chấp chặt
như thế, nên ai động đến là phản ứng chống đối, hoặc tìm đủ mọi cách để
bảo vệ, vun bồi cho nó được thỏa mãn. Nhưng với Trí tuệ Phật thấy rõ
thân do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn
chất ấy thì thân này không tồn tại. Khi bốn chất còn chung hợp thì mạng
sống còn. Song, phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí, vay mượn đất,
nước, gió, lửa bên ngoài, để bồi bổ thay thế cho đất, nước, gió, lửa
bên trong. Cả ngày, cả đời, sống bằng sự vay mượn tạm bợ như thế. Giờ
phút nào còn vay mượn thì giờ phút đó còn mạng sống. Hết vay mượn thì
mạng sống dừng, hơi thở trả về với gió; hơi ấm trả về với lửa; máu, nước
miếng, nước mắt… trả về với nước; da, thịt, gân xương… hòa nhập với
đất. Tất cả đều rã tan, chẳng còn gì gọi là thân mạng con người, là ta,
nên nói là không.
Phàm sự vật có hình tướng, đều bị vô thường chi phối dần dần đến chỗ
hoại diệt. Quí vị có ai thấy vật có hình tướng mà không hoại diệt không?
Tất cả pháp hữu vi, từ người đến vạn vật đều trải qua bốn giai đoạn:
thành, trụ, hoại, không. Nên Phật nói thế gian vô thường, tứ đại khổ
không, để cho chúng ta thấy rõ lẽ thật, không còn cố chấp thân tứ đại
này là thật, không còn cố chấp cõi đời này là bền chắc trường tồn. Quí
Phật tử có ai không bị vô thường chi phối không? Từ quá khứ bao lớp
người không thoát khỏi, đời hiện tại bao lớp người đang bị thiêu đốt, và
đời vị lai bao lớp người cũng bị chi phối. Nếu chúng ta lúc nào cũng
thấy biết rõ ràng như vậy, thì dù cho thân này có ra sao đi nữa cũng
không lo buồn sợ hãi. Vì biết nó không hoại sớm thì cũng hoại muộn, nên
bình thản đón nhận cái chết. Trái lại, Phật tử gặp cảnh vô thường đến,
mà còn khóc than kinh hoàng là do học mà chưa thấu suốt lời Phật dạy,
hoặc học mà chưa huân tu, hay huân tu mà chưa thuần thục, còn chấp thân
là ngã, nên mới khổ như thế.
Đến đây Phật nói ngũ ấm vô ngã. Trong kinh A-hàm, Phật dạy người chấp
thân tứ đại là ta, còn dễ phá trừ hơn người chấp linh hồn là ta. Đời
này tin mình là chủ, khi chết rồi mình cũng trở lại làm chủ nữa. Chấp
trong thân này có cái linh hồn còn hoài, đó là thần ngã; thần ngã là chủ
của thân này không bao giờ thay đổi. Đó là chấp thường theo ngoại đạo.
Mê chấp như vậy rất có hại, vì cho thần ngã luôn luôn duy nhất không đổi
thay thì không chịu tu, mặc tình ăn chơi, tạo các nghiệp ác, rồi sẽ
chịu quả báo khổ.
Phật phân tích cho thấy thân này có năm phần, gọi là năm ấm. Năm ấm luôn luôn phủ che Phật tánh có sẵn nơi mọi người.
1- Sắc ấm: là phần thể xác con người do bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành.
2- Thọ ấm: là phần cảm giác khổ vui, gặp cảnh thuận thì thân tâm cảm
thấy thoải mái, vui thích đắm trước; gặp cảnh nghịch thì thân tâm cảm
thấy bực bội buồn bã sân hận. Khi vui thì nói tôi vui, khi buồn thì nói
tôi buồn. Chấp cái vui cái buồn đó là tâm ta.
3- Tưởng ấm: là nhớ tưởng về chuyện quá khứ, mơ ước những chuyện tương lai, rồi chấp chặt cái nhớ tưởng đó là tâm ta.
4- Hành ấm: là sự nghĩ suy tính toán phát ra hành nghiệp, rồi chấp chặt cái suy nghĩ tính toán đó là tâm ta.
5- Thức ấm: là sự phân biệt cái này tốt cái kia xấu, cái này hay cái kia dở… rồi chấp cái phân biệt đó là tâm ta.
Như thế, chấp sắc là thân ta, chấp thọ là tâm ta, chấp tưởng là tâm
ta, chấp hành là tâm ta, chấp thức là tâm ta. Chấp như vậy thì một người
có năm cái ta. Một người mà có năm cái ta có hợp lý không? Sắc thân có
đây rồi sẽ hoại diệt tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là pháp sanh
diệt, chợt hiện chợt mất, không thường không thật, lại mê chấp là thường
là thật là ta. Vì vậy mà bị nó kéo đi mãi trong vòng sanh tử không
dừng.
Giờ đây nghe Phật nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức là cái không thật
không thường hằng, có đó rồi mất đó, là cái sanh diệt không thật là ta,
là vô ngã. Thấy biết rõ như vậy là giác ngộ. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm,
Phật dụ những cái sanh diệt có rồi mất là khách, vì nó đến rồi đi, nên
không phải là chủ. Nếu là chủ thì không mất, lúc nào cũng hằng hữu. Thế
mà chúng ta nhận cái chợt có chợt không đó là mình, tức là nhận khách
làm chủ; do mê lầm như thế nên trầm luân sanh tử.
Chúng ta thấy rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phải là ta, nó là
tạm bợ, có rồi mất, đó là chúng ta đã thấu suốt được lý vô ngã mà Phật
đã dạy.
Tâm thị ác nguyên,
Hình vi tội tẩu.
Như thị quán sát,
Tiệm ly sanh tử.
Phật lại dạy: Tâm người là nguồn ác, thân người là rừng tội lỗi. Quán
sát như thế dần dần xa lìa sanh tử. Tại sao Phật nói tâm người là nguồn
ác, thân người là rừng tội lỗi? Ví dụ khi tâm mình khởi nghĩ một điều
gì, thì cho điều mình nghĩ là đúng, là chân lý, nếu có ai cãi lại hay
chống đối thì tức giận mắng chửi hay đánh đập… Tất cả mọi mầm mống đấu
tranh đều từ tâm mà ra. Khi đã đấu tranh là có âm mưu có ác ý hãm hại
người, để thỏa mãn ý muốn của mình, nên không ngần ngại gây khổ cho
nhau. Như vậy, tâm rõ là nguồn cội của tội ác. Còn thân khi muốn ăn một
bữa ngon miệng thì phải mua gà vịt… về cắt cổ nhổ lông để lấy thịt mà
ăn. Muốn cho thân này được no ấm sung túc thì khi làm ăn với người mặc
nhiên tranh giành lợi lộc về mình. Có người vì nuôi thân mà phải làm
những nghề như giết heo, giết bò… Hoặc vì quá mê mờ muốn có của để nuôi
mạng sống, họ sẵn sàng giết người cướp của. Hoặc người có tham vọng
chiếm đoạt quyền thế địa vị, mà bị người khác cản trở ngăn chận thì
không ngần ngại dùng những thủ đoạn độc ác như ám sát, bắt cóc, vu
khống… Vì tham vọng cho bản ngã mà thân tạo vô số tội lỗi, nên nói thân
là rừng tội. Người khi thấy thân ngũ ấm là vô ngã, thì không còn chấp
cái suy nghĩ của mình là đúng là chân lý, không còn thấy thân mình là
quí là trọng, thì mọi sự hơn thua tranh chấp giữa mình với người, giữa
nhóm này với nhóm khác không còn nữa, thế giới sẽ thái bình, nhân loại
sẽ an lạc.
Người Phật tử thấy rõ tâm là nguồn tội ác, thì mỗi khi tâm khởi nghĩ
những điều bất thiện hại mình hại người, hoặc lợi mình hại người liền
dừng ngay, không phát ra lời nói việc làm, thì nguồn tội sẽ cạn dần và
hết hẳn. Khi nguồn tội đã hết thì mình hết khổ đau, vì miệng không nói
lời hung dữ, thân không làm những việc độc ác, gây khổ đau cho người
vật, đó là tu. Người nào thường quán xét như vậy, là giải thoát khỏi
sanh, già, bệnh, chết. Kiểm lại xem đa số người xuất gia cũng như tại
gia có tu như vậy không? Hay chỉ lo cúng lạy tụng niệm, mà không chịu
quán xét thì làm sao xa lìa được sanh tử? Chúng ta theo lời Phật dạy,
quán xét thấy rõ tâm là nguồn ác, thân là rừng tội, để chuyển hóa thân
tâm luôn luôn được thuần lương, đó là chúng ta đã được Phật cứu khổ.
Thông thường chúng ta thấy người nghèo đói, cho cơm gạo để họ được no
lòng, thấy người lạnh rách cho áo chăn để họ được lành ấm, thấy người
đau bệnh cho thuốc men để họ được khỏe mạnh, đó là cứu khổ người. Nhưng
cứu khổ như thế thì bao giờ chúng sanh mới hết khổ? Nếu họ cứ thiếu hoài
thì chúng ta có cứu nổi không? Hoặc nếu chúng ta chết rồi thì ai cứu
họ? Hoặc chúng ta có thể hướng dẫn huấn nghệ cho họ có công ăn việc làm,
để được sống no ấm, thì họ có hết khổ không? Họ chỉ vơi khổ phần nào
thôi, vì chúng sanh vẫn còn bị vô thường sanh, già, bệnh, chết chi phối.
Phật và Bồ-tát cứu khổ chúng sanh, là làm sao cho chúng sanh dứt được
mầm sanh, già, bệnh, chết, tức là vô minh phiền não. Đó là cái khổ lớn
cần phải dứt trừ. Còn nghèo đói thiếu thốn vật chất chỉ là cái khổ nhỏ.
Phật nói nghèo đói chưa thật là khổ, trâu bò mang ách kéo cày chưa thật
là khổ, bị thiêu đốt trong địa ngục cũng chưa thật là khổ, chỉ có người
si mê không biết lối đi mới thật là khổ. Vì còn mê lầm thì đời này tạo
nghiệp bị khổ, sanh ra đời sau cũng mê lầm tạo nghiệp cũng khổ nữa. Đời
đời kiếp kiếp cứ tái diễn mê lầm tạo tội thọ khổ không ngừng. Chủ yếu
của đạo Phật là cứu khổ sanh tử luân hồi, nên nói là giải thoát sanh tử
luân hồi, chớ đâu có nói giải thoát đói lạnh. Đức Phật trước kia ở trong
cảnh giàu sang quyền quí, vật chất quá đầy đủ, tại sao Ngài lại ưu tư
khắc khoải, rồi từ bỏ tất cả để vượt thành xuất gia? Vì Ngài thấy rõ
ngôi vua, quyền thế, của cải… là tạm bợ không giải quyết được vấn đề
sanh tử, chỉ có tu hành giác ngộ thấy các pháp đúng như thật mới giải
thoát được luân hồi sanh tử. Phật giác ngộ rồi Ngài mới chỉ dạy cho
chúng ta tu để được giải thoát như Ngài. Chúng ta cũng giảng dạy cho
người tu để được giải thoát như chúng ta. Đó là mục đích chánh của sự tu
hành mà Phật dạy. Còn những việc từ thiện xã hội như bố thí giúp người,
chỉ là những phương tiện đầu để chúng ta có cơ hội gần gũi thân cận,
hướng dẫn cho người đường lối tu hành, sống đúng với lời Phật dạy, để
được an vui tự tại trong đời này và mãi mãi về sau. Chúng ta tu mà không
thực hành như vậy thì không xứng đáng là một người tu Phật.
Điều giác ngộ thứ nhất Phật dạy cõi đời chúng ta đang sống là vô
thường tạm bợ. Ngay thân tứ đại giả hợp tạm có này, chúng ta phải biết
nó là khổ là không. Phải biết thân và tâm tưởng có đó rồi mất đó, luôn
luôn sanh diệt dời đổi không có thật ngã. Cái suy tư nghĩ ngợi mà lâu
nay mình lầm chấp là tâm mình, chính là nguồn gốc của ác nghiệp. Cái
thân hình mà lúc nào mình cũng lo lắng cho nó được sung sướng đầy đủ,
lại là rừng tội lỗi. Phật dạy chúng ta phải luôn luôn thấy rõ như thế,
để chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thanh tịnh, để được giải thoát
luân hồi sanh tử. Thấy biết đúng như vậy là người giác, thấy ngược lại
là người mê.
Trong kinh Bách Dụ có kể một câu chuyện như sau: Thuở xưa có một ngôi
nhà cũ, bỏ hoang đã lâu, thiên hạ đồn có quỉ dữ ở trong ấy, mọi người
ai cũng kinh sợ không dám vào ngủ. Bấy giờ có một người tự cho mình là
can đảm, bèn tuyên bố: “Tôi không sợ gì cả, chiều nay tôi sẽ vào nhà
đó!” Quả thật chiều đến người ấy vào nhà đó ngủ. Đồng thời có một người
khác, cũng tự cho mình can đảm hơn người và cũng xung phong vào nhà đó
ngủ. Người này đến nơi xô cửa để vào. Người đến trước tưởng là quỉ đến
xô cửa, bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho vào. Người phía ngoài
tưởng bên trong có quỉ, ráng sức xô cánh cửa cho bật ngã để vào đánh
quỉ. Sau đó người ấy xô ngã tấm phên sấn vào, hai người đánh nhau dữ dội
cho tới sáng. Sáng ra hai người thấy nhau rõ ràng, mới vỡ lẽ con quỉ mà
mình đánh suốt đêm nay là người chớ không phải quỉ. Cuộc đánh đấm liền
dừng ngang đây.
Phật dụ sự lầm mê chấp trước của con người là trời tối. Vì tối tăm mê
mờ không thấy đúng lẽ thật, cái giả lầm tưởng là thật, cái thật lại
không khéo nhận ra, do đó mà bị nhọc nhằn khổ sở. Khi đã tỉnh giác, trí
tuệ đầy đủ thấy đúng lẽ thật, không còn lầm lạc mê tối nữa thì sẽ hết
nhọc nhằn khổ sở.
Kinh A-hàm, Phật dạy mỗi người tu chúng ta phải thắp ngọn đuốc trí
tuệ của mình lên, và mồi ngọn đuốc này với chánh pháp của Phật. Tức là
chúng ta nương tựa vào trí tuệ của Phật qua kinh, luật, luận. Chúng ta
luôn ghi nhớ huân tập mãi thì trí tuệ sẽ sáng rỡ như Phật và Bồ-tát.
Từ trước chúng ta mê lầm, không nghe, không thấy, không biết. Giờ đây
nghe Phật dạy, luôn ghi nhớ, huân tập mãi cho thấm nhuần, thì sẽ sáng
suốt không còn lầm chấp đau khổ nữa. Như vậy quí Phật tử thấy việc tu
học đâu có gì khó khăn, chỉ cần phải hiểu cho đúng rồi thực hành từ từ,
đến khi thuần thục thì hoàn toàn giác ngộ, nên nói Phật pháp quí báu là
vậy.
Xưa, Thiền sư Vạn Hạnh giác ngộ được lẽ vô thường Ngài làm bài thơ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô,
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Ngài nói thân người giống như điện như bóng, có rồi không. Cây cối
mùa Xuân thì tươi nhuần sum sê, đến mùa Thu lại héo tàn. Mặc tình cho
việc hưng thịnh hay suy vi, Ngài không vui buồn kinh sợ. Việc hưng thịnh
hay suy vi đối với Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ, nắng lên là tan
mất. Thân mạng đối với Ngài như lằn chớp, xẹt qua rồi mất. Do thấy như
vậy nên Ngài an nhiên trong cuộc sống.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 2
CHÁNH VĂN:
Đệ nhị giác tri:
Đa dục vi khổ,
Sanh tử bì lao,
Tùng tham dục khởi,
Thiểu dục vô vi,
Thân tâm tự tại.
DỊCH:
Điều thứ hai lại cần giác biết:
Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm nhiều.
Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu,
Bởi chưng tham dục, mà chiêu khổ nầy.
Bớt lòng tham dục chẳng gây,
Thân tâm tự tại vui nầy ai hơn.
GIẢNG:
Đệ nhị giác tri:
Đa dục vi khổ,
Sanh tử bì lao,
Tùng tham dục khởi.
Dục chỉ cho năm món dục ở thế gian là tài, sắc, danh, thực, thùy hay
là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đa dục là nhiều tham muốn về ngũ dục, có
nghĩa là tham muốn tiền của, đắm mê sắc đẹp, ham danh vọng, thích ăn
ngon, ưa ngủ kỹ. Người thích ăn ngon, thân phải chạy ngược chạy xuôi,
toan tính lo làm cho có nhiều tiền, mới sắm được bữa ăn ngon theo sở
thích. Như vậy thì tâm lao nhọc, thân vất vả mới được bữa ăn vừa miệng.
Hoặc người đắm mê sắc đẹp, cả đời cứ đuổi theo hương sắc, thì sức lực
hao mòn, tiền của tiêu tán, cực nhọc lao lung không thể kể xiết. Người
tham danh, tham tài cũng vậy, phải ngược xuôi làm lụng, tranh giành để
được danh được lợi… Tóm lại, người đời chỉ vì đắm mê ngũ dục, nên tạo
nhiều tội lỗi chịu nhiều khổ đau. Ham mê nhiều chừng nào thì khổ sở
nhiều chừng ấy.
Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện: Xưa có vị vua tên Đảnh Sanh,
do nhờ phước báo nhiều đời, nên được làm Chuyển Luân Thánh vương, là
bậc thông minh trí tuệ, hành động theo chánh pháp, thành tựu bảy báu,
thống trị khắp cả cõi đất này. Làm vua trong thời gian thật lâu, ông
khởi niệm mong ước mưa báu bảy ngày dâng đến tận đầu gối.
Vua Đảnh Sanh có Đại như ý túc, có đại phước đức, nên vừa khởi niệm
là được như ý. Lại một thời gian sau, Vua khởi niệm muốn đến xem và
thống trị châu Cù-đà-ni ở phương Tây và Vua cũng được như ý muốn. Lại
một thời gian sau, Vua khởi niệm muốn đến xem và ngự trị châu
Phất-bà-bệ-đà-đề ở phương Đông và Vua cũng được như ý. Lại một thời gian
sau, Vua khởi niệm muốn đến xem và thống trị châu Uất-đơn-việt ở phương
Bắc, và Vua cũng được như ý. Lại một thời gian sau, Vua khởi niệm muốn
tới cõi trời Tam thập tam, và nhà Vua cũng được như ý muốn. Khi Vua đến
cõi trời Tam thập tam, đi vào nhà chánh pháp. Ở đó, trời Đế Thích nhường
cho vua Đảnh Sanh nửa tòa ngồi. Khi vua Đảnh Sanh ngồi trên nửa tòa của
trời Đế Thích thì ánh sáng, màu sắc, y phục, oai nghi lễ tiết của vua
Đảnh Sanh không khác vua trời Đế Thích, chỉ có hai mắt nháy là khác. Sau
khi đã được toại nguyện ở trên cõi trời Tam thập tam thì vua Đảnh Sanh
lại khởi niệm cướp lấy tòa ngồi của vua trời Đế Thích để làm vua loài
trời và loài người. Khi vua Đảnh Sanh vừa khởi niệm ấy, bất giác rớt
xuống châu Diêm-phù-đề, liền mất Như ý túc, và lâm trọng bệnh nguy ngặt.
Đến lúc sắp chết, các cận thần đến bên nhà Vua hỏi rằng:
- Tâu Thiên vương, nếu có vị Phạm chí cư sĩ và kẻ bầy tôi hay thần
dân nào đến hỏi chúng thần rằng “lúc băng hà Thiên vương chỉ bảo những
gì”, chúng thần trả lời thế nào cho Phạm chí, cư sĩ hay thần dân ấy?
Vua Đảnh Sanh bảo cận thần:
- Vua Đảnh Sanh đã được châu Diêm-phù-đề nhưng khi chết vẫn chưa thỏa
mãn; vua Đảnh Sanh đã được bảy báu nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn;
vua Đảnh Sanh đã có bảy ngày mưa báu, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn;
vua Đảnh Sanh đã được châu Cù-đà-ni, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn;
vua Đảnh Sanh đã được châu Phất-bà-bệ-đà-đề, nhưng khi chết vẫn chưa
thỏa mãn; vua Đảnh Sanh đã được châu Uất-đơn-việt, nhưng khi chết vẫn
chưa thỏa mãn; vua Đảnh Sanh đã tới cõi trời Tam thập tam, nhưng khi
chết vẫn chưa thỏa mãn; vua Đảnh Sanh đã có đủ ngũ dục lạc, nhưng khi
chết vẫn chưa thỏa mãn… Các người hãy trả lời như thế, vua Đảnh Sanh vì
quá tham dục cho nên khổ.
Vua biết đó là điều bất thiện, nên trước khi chết trăn trối cho quần thần và dân chúng biết để tránh.
Hồi xưa tôi còn làm việc cho Giáo hội, một hôm tôi đến giảng ở Chi
hội Phật học Gia Định. Sau khi giảng xong có một Phật tử lấy xe nhà đưa
tôi về chùa. Ngồi trên xe đàm đạo, tôi khuyên Phật tử ấy:
- Đạo hữu đã lớn tuổi, nên dành thì giờ xem kinh niệm Phật cho có
công đức. Mải miết lo làm thì quá cực khổ, mai kia chết lại càng khổ
hơn.
Phật tử ấy trả lời:
- Con có tới ba tiệm cưa máy, mỗi buổi sáng phải đi đến coi người ta
làm, chiều đi đặt cây, tối về làm sổ tới khuya. Nhiều khi không có thì
giờ để đọc một cột báo, vì quá mệt phải đi ngủ. Thầy thương Thầy khuyên
con như thế, ở vào hoàn cảnh của con làm sao tu hành được!
Quí vị thấy, nếu làm ăn được hoài thì rất khó tu. Vì được hoài thì
tham muốn thêm hoài, thấy làm ra tiền dễ quá lòng tham cứ khởi mãi. Cho
nên người nhiều dục lạc mà nói hết khổ là lầm. Phật dụ người đang khát
nước mà uống nước muối, càng uống càng khát. Người nghèo hèn ban đầu
muốn có chút tiền của để được no ấm, khi có rồi lần lần muốn thêm, thêm
mãi… Cho nên người nào nói tôi nghèo nên tôi chưa tu, chờ khi nào tôi có
đầy đủ vật chất tôi mới tu, người nói như thế cũng giống người khát mà
uống nước muối vậy. Người có tâm tham muốn thì không bao giờ biết đủ!
Người Phật tử chân chánh biết quay về với Phật pháp lo tu học, nhờ đó
mà được bớt khổ. Người biết tu, đối với vật chất có bao nhiêu cũng thấy
là đủ. Có ít thì sống theo ít, có nhiều thì chia sớt cho người thiếu;
thấy rõ vật chất là của tạm, dùng nuôi thân cho khỏe mạnh để tu tiến,
chớ không lấy đó làm chánh, rồi khởi tâm mong cầu tham đắm. Nếu tâm còn
dục vọng tham đắm của cải vật chất, tất nhiên là còn toan tính, hễ còn
toan tính là có mưu đồ tạo sự nghiệp, hễ tạo sự nghiệp nếu không gây khổ
cho người thì cũng gây khổ cho loài vật. Càng ham muốn là càng gây đau
khổ cho mình cho người. Người nào cho rằng hưởng dục lạc thế gian đầy đủ
là sung sướng, kẻ đó lầm, không thấy chân chánh. Ví như người thèm thức
ăn ngon, khi ăn được món ngon này rồi, lại thèm món khác, hết tìm cao
lương lại kiếm mỹ vị. Suốt đời cứ tìm cầu ăn uống, kiếp người sống thật
thấp hèn và khốn khó!
Giả sử người đang trường trai giữ giới, thèm ăn ngon, nên nghĩ: “Nếu
có thịt ăn một bữa, mình sẽ ăn cho đã thèm”. Nghĩ thế họ liền phá trai
phạm giới ăn một bữa thịt thật no nê, để không còn thèm nữa. Nhưng ít
lâu lại thèm rồi phá trai phạm giới nữa, cứ như thế tái diễn hoài. Chi
bằng vừa khởi niệm tà liền dừng, quyết chí không chiều theo thị hiếu thị
dục thấp hèn, gìn giữ giới luật cho trong sạch để tiến tu. Qua ví dụ
trên, chúng ta thấy những dục lạc khác cũng đều như vậy. Bệnh của con
người muốn được cái này lại tiếp muốn cái khác, cứ như thế mà muốn hoài
không dừng. Nên phải biết tham muốn là gốc của đau khổ luân hồi sanh tử.
Người đời thường suy luận: Người tu hành ăn tương rau, mặc nâu sồng,
giam mình trong nếp sống thanh bần, rốt cuộc rồi cũng chết. Còn người
đời ăn sung mặc sướng, hưởng nhiều dục lạc thế gian, rốt cuộc rồi cũng
chết. Hoặc nói người hiền đức già đời cũng chết, kẻ hung hăng bạo ngược
cuối cùng cũng không còn. Lý luận như vậy có đúng không? Người buông
lung chạy theo ngũ dục và người không phá trai phạm giới, luôn luôn giữ
gìn thân tâm thanh tịnh, cả hai đều chết, nhưng hai cái chết khác nhau.
Người hàng ngày chạy theo dục lạc thế gian, khi gần chết thân xác hư
hoại, mà tình ái cứ buộc ràng với vợ con quyến thuộc không muốn xa lìa,
nên giằng co khổ sở. Lại không biết mình sẽ đi về đâu nên hãi kinh lo
sợ. Vì sanh tiền, thân miệng ý vốn đã tạo nhiều nghiệp chướng nặng nề,
nên bị nghiệp lực lôi cuốn theo dòng luân hồi, sanh tử không dừng, khổ
sở không dứt. Còn người biết tu hành ba nghiệp thanh tịnh, tuy xác thân
có hư hoại, nhưng tinh thần bình tĩnh sáng suốt, không kinh sợ, biết rõ
hướng đi, nên khi thở hơi cuối cùng rất nhẹ nhàng an ổn, và khi chết rồi
thì được siêu thoát. Đành rằng con người ai cũng chết, nhưng người chạy
theo ngũ dục tạo nghiệp ác khi chết thì chịu quả báo khổ đau, còn người
tu không chạy theo ngũ dục, không tạo nghiệp ác mà tu nghiệp lành, khi
chết sanh vào cõi lành hưởng phước an vui, hoặc được giải thoát sanh tử
nhập Niết-bàn. Cái chết của người biết tu và không biết tu khác nhau chỗ
đó. Người thế gian vì mê muội, không thấy được nhân quả nghiệp báo, nên
mới lấy ngũ dục lạc làm lẽ sống, vui say đắm nhiễm, cho nó là quí là
trên hết. Người giác ngộ biết chạy theo ngũ dục lạc là họa hại là đau
khổ, nên sống đời sống đạm bạc đơn giản để an tâm tiến đạo.
Người nào còn ham muốn dục lạc là còn khổ, ham muốn nhiều thì mê
nhiều khổ nhiều, ham muốn ít thì mê ít khổ ít. Ham muốn cái gì cũng khổ
cả. Khi hết ham muốn thì hết mê, thấy tài, sắc, danh, thực, thùy là ảo
ảnh, là vô thường, không bận lòng để ý thì hết khổ. Phật dạy người tu
hành chân chánh, phải biết tham muốn ngũ dục là gốc luân hồi sanh tử khổ
đau. Vì vậy mà phải:
Thiểu dục vô vi,
Thân tâm tự tại.
Thiểu dục là ít muốn. Người tu trong bốn món ăn, mặc, ở, bệnh được
tín thí cho bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu, không tìm cầu đòi hỏi cho
nhiều, để tiêu dùng cho thỏa thích. Không tìm cầu nên không tạo nghiệp,
không tạo nghiệp thì thân tâm không còn lo buồn khổ đau, sẽ được an ổn
tự do. Phật dạy chúng ta tu để hết khổ. Ngài chỉ nguyên nhân gây ra đau
khổ là ý. Ý si mê khởi niệm tội lỗi, miệng và thân nói làm tội lỗi, sau
đó sẽ nhận lấy hậu quả khổ đau. Bây giờ chúng ta muốn hết khổ, thì phải
thắp sáng trí tuệ nơi mình với chánh pháp của Phật, để phá những vô minh
phiền não nơi ý. Ý không khởi niệm ác thì không nói ác, không làm ác; ý
khởi niệm lành thì nói lành làm lành, lợi mình lợi người. Tâm thường
lóng lặng thì trí tuệ sáng suốt, phá sạch vô minh, hết lậu hoặc, dứt khổ
đau, được an vui giải thoát. Như vậy muốn hết khổ, chúng ta phải thắp
sáng ngọn đuốc trí tuệ nơi tâm, để thấy rõ nguyên nhân đau khổ mà dừng
không tạo ác, chớ không phải nghe nói ông này linh, cô kia giỏi, đến lạy
lục van xin cầu cứu cho mình hết khổ. Làm như thế chẳng những không
được kết quả như ý, mà còn lún sâu vào mê tín dị đoan, đã khổ đau lại
chất chồng thêm đau khổ.
Chúng ta biết rõ do tham dục mà cực khổ lao lung, và biết bớt tham
dục là bớt khổ đau. Rõ ràng khổ hay vui là do mình, không do ai khác.
Phật dạy chúng ta tu là phá mê, vì mê là gốc tham dục đưa con người đi
trong luân hồi sanh tử khổ đau. Nếu mê được phá thì tham dục không còn,
người hết tham dục thì được an vui tự tại, chẳng những trong đời hiện
tại và còn mãi mãi về sau, chẳng những cho bản thân mình mà còn lợi ích
cho người chung quanh nữa.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 3
CHÁNH VĂN:
Đệ tam giác tri:
Tâm vô yểm túc,
Duy đắc đa cầu,
Tăng trưởng tội ác.
Bồ-tát bất nhĩ,
Thường niệm tri túc,
An bần thủ đạo,
Duy tuệ thị nghiệp.
DỊCH:
Điều thứ ba phải thêm giác biết:
Đắm mê trần mải miết chẳng dừng.
Một bề cầu được vô chừng,
Tội kia thêm lớn có ngừng được đâu.
Những hàng Bồ-tát hiểu sâu,
Nhớ cầu tri túc chẳng lâu chẳng sờn.
Cam nghèo giữ đạo là hơn,
Lầu cao trí tuệ chẳng khờn dựng lên.
GIẢNG:
Đệ tam giác tri:
Tâm vô yểm túc,
Duy đắc đa cầu,
Tăng trưởng tội ác.
Điều giác ngộ thứ ba là lòng người không bao giờ biết đủ, không bao
giờ thấy chán, chỉ một bề mong cầu cho được nhiều, được mãi không thôi.
Song, càng tham muốn nhiều, thì tội lỗi sẽ càng tăng thêm. Đó là tâm
niệm của người thế gian còn nhiều mê mờ. Ngược lại:
Bồ-tát bất nhĩ,
Thường niệm tri túc,
An bần thủ đạo,
Duy tuệ thị nghiệp.
Giờ đây nói về Bồ-tát, các ngài không giống như người thế gian. Các
ngài thường biết đủ an vui trong cảnh nghèo, để gìn giữ đạo đức và lúc
nào cũng lấy trí tuệ làm sự nghiệp, chớ không nghĩ gì khác hơn. Tiền
của, vật chất, danh lợi… đối với các ngài chỉ là pháp hữu vi không bền
không thật, các ngài không lấy đó làm quí làm trọng, mà chỉ một bề lo
vun bồi trí tuệ và từ bi ngày càng thêm lớn. Bồ-tát cũng là một chúng
sanh, nhưng chúng sanh biết tu hành và được giác ngộ, nên gọi là Hữu
tình giác. Sau khi đã giác ngộ, các ngài giúp cho mọi người được giác
ngộ như mình, nên gọi là giác hữu tình. Lúc nào các ngài cũng thực hiện
hạnh tự giác giác tha cho được viên mãn. Các ngài không vì mục đích nào
khác ngoài tinh thần giác ngộ mà Phật đã dạy. Như vậy, quí vị đừng lầm
tưởng Bồ-tát là bậc có nhiều thần thông phép lạ. Biết đâu trong sanh
hoạt hiện tại của chúng ta, có nhiều Bồ-tát mà chúng ta không biết. Vì
người nào tự thân không đắm mê ngũ dục, không bị ngũ dục chi phối, lại
còn biết tu tỉnh, biết giúp cho người phá mê lầm trong cuộc sống, đoạn
trừ khổ đau thì người đó là Bồ-tát. Người Phật tử chân chánh, không bao
giờ mong cầu Bồ-tát thị hiện qua hình tướng kỳ lạ, với thần thông phép
mầu ban ơn cứu khổ cho chúng sanh. Nếu ai cho Bồ-tát như thế, thì chắc
chắn suốt kiếp không thấy được Bồ-tát. Tôi nhắc lại, Bồ-tát là một chúng
sanh hữu tình tu được giác ngộ, và tạo phương tiện giúp cho người tu
cũng được giác ngộ như các ngài. Nghĩa là lúc nào cũng thấy thế gian vô
thường, cõi đời tạm bợ, thân này vốn là khổ, không, vô ngã.
Đức Phật gọi cõi Ta-bà chúng ta hiện đang sống đây là cõi Dục, nên
lòng tham con người quá nặng quá sâu. Người nghèo thiếu thốn vật chất,
tham cầu cho có để sống đã đành, người giàu có bao nhiêu cũng không thấy
đủ. Cổ đức dạy: “Người biết đủ dù nằm dưới đất, co tay làm gối, ăn cơm
hẩm cũng vẫn thấy vui. Người không biết đủ dù ở trên cung trời cũng
không vừa ý.” Cho nên người biết an phận, ở trong hoàn cảnh nào cũng
được an vui.
Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: “Nhược dục thoát chư khổ não, đương
quán tri túc, tri túc chi pháp, tức thị phú lạc, an ổn chi xứ.” Nghĩa
là: Muốn thoát mọi sự khổ não, cần nên nghiệm xét hai chữ biết đủ, pháp biết đủ là sự giàu có, an ổn của con người.
Pháp sư Ấn Quang cũng dạy:
Cơm rau đỡ dạ đói,
Nhà cỏ che gió sương,
Người đời nếu biết đủ,
Phiền não chẳng còn vương.
Vì người đời tham dục nhiều nên khổ nhiều, khổ cả ba giai đoạn: Khi
chưa có thì tham muốn mong cầu cho có là khổ; khi đã có rồi thì sợ mất,
nên phải tìm cách bảo vệ gìn giữ cũng khổ; khi bị mất lại càng khổ hơn,
buồn rầu mất ăn mất ngủ, có khi không muốn sống nữa. Quí vị thấy người
tham muốn nhiều ở trường hợp nào cũng khổ, chỉ có ít muốn biết đủ, dứt
tâm tham cầu là hết khổ được vui.
Ví dụ có một nhà bác học uyên thâm, sống đời thanh bạch, xuống tàu đi
ngoại quốc, và một nhà phú hộ mang nhiều vàng bạc của báu cũng đi ngoại
quốc. Dọc đường tàu bị đắm, cả hai ôm phao nổi và được cứu sống. Khi
vào đất liền thì ông phú hộ trắng tay tiền của mất hết, sự nghiệp tiêu
tan không còn. Nhà bác học dĩ nhiên vẫn thanh bạch nhưng số kiến thức
uyên thâm của ông không mất, coi như sự nghiệp ông còn. Nhà phú hộ dụ
cho người thế gian ham làm giàu, tạo xe hơi nhà lầu của cải chứa đầy
kho. Khi nhắm mắt xuôi tay, bỏ thân này mang thân khác, hoàn toàn không
đem theo được vật gì. Nhà bác học thanh bạch dụ cho người tu, sau khi
nhắm mắt xuôi tay, bỏ thân này mang thân khác, tuy còn mê cách ấm, nhưng
gặp duyên thì trí tuệ hiển phát, không mất. Tức là đời này tu hành tuy
đã giác ngộ, đời sau sanh ra cũng có quên. Song, quên một lúc, khi gặp
cơ duyên nhắc lại liền tỉnh nhớ ngay. Đời trước tu nhiều thì nhớ sớm,
đời trước tu ít thì nhớ muộn và rồi cũng tiếp tục tu hành. Điều này
chúng ta nghiệm xét thấy rõ. Tại sao có những người học hoài mà không
hiểu không nhớ, vẫn tối tăm dốt kém? Lại có những người chưa học mà
biết, hoặc học một mà biết tới mười? Như vậy có phải là do đời trước họ
đã gieo trồng nhân trí tuệ, nên đời này gặp duyên thì khả năng sẵn có đó
hiển phát? Nói theo danh từ chuyên môn là chủng tử đã có sẵn, hội đủ
duyên thì hiện hành. Tóm lại, người nào đời này biết thiểu dục tri túc,
để gìn giữ đạo đức và nuôi lớn trí tuệ, đó là người tỉnh giác. Trí đức
ấy qua đời sau không mất, mặc dù có bị mê cách ấm. Vì thế hàng Bồ-tát là
người tỉnh giác, biết cái nào có tạm rồi sẽ mất, thì không chú ý, xem
thường; biết cái nào hằng hữu không mất, thì lo gìn giữ và phát huy cho
thêm lớn. Người thế gian vì mê lầm, chạy theo cái tạm bợ mà không biết
nó tạm bợ, nên cả đời cứ lo phục vụ cái tạm bợ cho sung mãn. Khi quỉ vô
thường đến, tất cả đều để lại thế gian, chỉ mang theo cái nghiệp nặng nề
với quả báo không tốt về sau. Hiện tại Bồ-tát tuy thiệt thòi nghèo
thiếu về vật chất, nhưng phần trí đức lúc nào cũng tăng trưởng lớn mạnh,
chẳng những đời này mà những đời kế tiếp cũng thế. Nên nói sự nghiệp
của Bồ-tát là trí tuệ.
Nếu người nào suốt đời cứ lo sự nghiệp thế gian cho hưng thịnh, thì
sự nghiệp trí tuệ sẽ lu mờ. Ngược lại người chăm lo sự nghiệp trí tuệ
thì sự nghiệp thế gian xem như không có. Như vậy, người lo sự nghiệp thế
gian và người lo phát triển trí tuệ xuất thế gian, ai là người khôn
biết lo xa? Dĩ nhiên đa số người đời đều tán thán người tạo dựng sự
nghiệp bằng ăn ngon mặc đẹp, đầy đủ vật chất tiện nghi, sống đời sung
sướng là giỏi là hay. Nhưng đối với người thấy rõ nhân quả tội phước
trong đời hiện tại, cũng như những kiếp về sau, lo gìn giữ đạo đức, phát
huy trí tuệ, vẫn là người sáng suốt khôn ngoan biết lo xa. Vì tiền của
dùng trong lúc sống chỉ là cái tạm bợ, khi nhắm mắt không mang theo
được. Người chỉ lo cho có nhiều của cải vật chất là người thiển cận,
chưa biết lo xa nên gọi là chúng sanh mê lầm. Còn người không chạy theo
ngũ dục thế gian, chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp là người biết lo xa, là
Bồ-tát giác ngộ. Vậy tất cả quí vị, ai ưng làm chúng sanh, ai ưng làm
Bồ-tát? Ai ưng làm Bồ-tát thì phải nỗ lực cố gắng tu hành!
Tóm lại, người nào quá tham cầu ngũ dục, đắm say ngũ dục không biết
nhàm chán, thì tội lỗi càng ngày càng lớn, chẳng những hiện đời chịu khổ
mà còn khổ mãi về sau.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 4
CHÁNH VĂN:
Đệ tứ giác tri:
Giải đãi trụy lạc,
Thường hành tinh tấn,
Phá phiền não ác,
Tồi phục tứ ma,
Xuất ấm giới ngục.
DỊCH:
Điều thứ tư cần nên giác biết:
Kẻ biếng lười hạ liệt trầm luân.
Thường tu tinh tấn vui mừng,
Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều đời.
Bốn ma hàng phục như chơi,
Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra ngoài.
GIẢNG:
Điều giác ngộ thứ tư là lười biếng giải đãi thì bị sa đọa trầm luân.
Thế nên phải luôn luôn tinh tấn tu hành mới phá trừ được phiền não
nghiệp ác, hàng phục bốn ma, ra khỏi ngục tù năm ấm và ba cõi.
Thế nào là giải đãi, thế nào là tinh tấn? Giải đãi là bê tha lười
biếng. Tinh tấn là siêng năng chuyên cần. Ví dụ người ham mê ngũ dục
muốn có nhiều tiền của, chuyên cần làm việc cả ngày lẫn đêm, không biết
lười mỏi, không biết chán ngán. Người như thế có được xem là tinh tấn
không? - Không. Tại sao siêng năng chuyên cần làm việc cả ngày mà không
phải là người tinh tấn? - Vì người chỉ biết siêng năng làm cho có nhiều
tiền của, để được thỏa mãn dục lạc thế gian, mà không biết phát huy đức
hạnh trí tuệ, đó chỉ là người giải đãi trụy lạc, chớ không phải là người
tinh tấn. Tinh tấn đúng với tinh thần của Phật dạy là phải biết dừng và
ngăn chận điều xấu, làm và phát triển điều tốt.
Tứ chánh cần trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Phật dạy về tinh tấn như sau:
1- Điều thiện chưa sanh, phải siêng năng làm cho sanh khởi.
2- Điều thiện đã sanh, phải cố gắng phát huy cho tăng trưởng.
3- Điều ác chưa sanh, phải thường kiểm soát canh chừng ngăn chận không cho sanh khởi.
4- Điều ác đã sanh, phải cố gắng chặn đứng, diệt trừ không cho sanh nữa.
Tinh tấn theo nghĩa vừa nêu, thì người thế gian đắm mê ngũ dục, dù có
siêng năng làm việc cả ngày cả đêm cũng không thể gọi là tinh tấn.
Ngược lại, người tuy suốt ngày không làm gì hết, mà tâm vừa khởi niệm
bất thiện, liền dừng không cho tiếp tục sanh khởi; khi tâm khởi niệm
lành thì phát huy cho nó thêm lớn mạnh, để làm lợi ích cho mọi người, đó
là người tinh tấn. Nói một cách đơn giản, tinh tấn là ngăn ngừa không
cho thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác, mà luôn khiến cho thân, khẩu, ý hiển
phát nghiệp thiện. Giả sử nếu vì tập quán, chúng ta đã lỡ tạo ác, vi
phạm điều Phật răn cấm, chẳng hạn như ghiền thuốc ghiền rượu, thì phải
nỗ lực bỏ lần lần. Cố gắng bỏ tật hư nết xấu, dù khó khăn mấy cũng cố
gắng trừ bỏ cho kỳ được, để khép mình trong phạm vi giới luật của Phật
chế định, gìn giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý cho trong sạch, thường nỗ lực
phát triển những hạnh lành, lợi mình lợi người.
Giải đãi hay tinh tấn đều tùy nơi mình, nếu giải đãi thì bị trầm
luân, còn tinh tấn tu hành thì phá trừ được phiền não, đoạn dứt nghiệp
ác. Phiền não mà Phật dạy đây, không phải chỉ là nỗi buồn bực ray rứt
trong lòng khi gặp cảnh ngang nghịch trái ý, như mọi người thường nói,
mà là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Trong những món vừa kể, si là
phiền não gốc. Do si mê không thấy các pháp đúng như thật, nên mới tham
cầu chấp trước, tham cầu mà không được thỏa mãn liền nổi sân hận, miệng
mắng chửi, tay chân đánh đập, đấm đá… tạo nhiều nghiệp ác, gây khổ cho
mình và cho người. Người tu hành phải luôn luôn thắp sáng ngọn đuốc trí
tuệ, trí tuệ sáng thì vô minh lui, vô minh lui thì si mê không còn, thấy
các pháp đúng như thật. Đối với pháp hữu vi biết rõ là pháp vô thường
biến hoại, không bền không thật, không chấp trước đắm nhiễm, không tạo
tác ác nghiệp, ngang đây mọi phiền não khổ đau không còn.
Thế thường nói đến ma, thì người đời nghĩ đến hồn ma bóng quế của
người chết hiện lên, bằng những hình bóng cô gái xõa tóc, le lưỡi, đi
hỏng chân khỏi mặt đất… để nhát phá người sống. Song, ma mà Phật nói ở
đây là những gì làm ngăn ngại phá hoại sự tiến đạo của người tu hành
chân chánh, đại lược có bốn thứ:
1- Ma phiền não: là tham, sân, si, mạn, nghi… sẵn có nơi mỗi người.
Ví dụ người xuất gia phải sống phạm hạnh theo giới luật Phật dạy, nhưng
vì lòng trần chưa dứt, tham ái hiện khởi, chạy theo nữ sắc, cởi áo hoàn
tục, cưới vợ sanh con. Đời tu hành ngang đây dở dang lui sụt. Tham mê
sắc dục tự lòng người tu hiện khởi, vì sức huân tu quá yếu không khắc
phục được, nên bị nó làm chướng ngại sự tu hành, gọi đó là ma tham. Hoặc
một Phật tử qui y thọ năm giới, lý đáng phải giữ tròn, nhưng Phật tử ấy
vốn dĩ đã thích uống rượu, một hôm đi dự tiệc bạn bè mời ép, lòng tham
ăn uống không dừng được, nên uống say túy lúy. Về nhà khi tỉnh lại thì
hối hận mình đã phạm giới, trách bạn bè phá mình, chớ không nghĩ do lòng
tham ăn uống của mình. Mình tu mà không khắc phục được, xuôi theo nó
nên phá giới mất thanh tịnh. Tu mà bị chướng ngại là tại con ma tham ăn
uống chớ đâu phải tại bạn bè! Bạn bè mời ép mà mình chế ngự được lòng
tham ăn uống, không uống rượu thì có ai làm gì mình? Lại nữa, người tu
lý đáng là không được sân giận, nhưng một hôm bỗng dưng có một người tới
chùa nói năng gàn dở, chửi bới chúng Tăng, phá phách trong chùa, vài
thầy Tăng khó chịu cũng lớn tiếng nặng lời lại. Như vậy là con ma sân
của các vị ấy hiện. Vì các thầy tu, đạo lực non yếu không điều phục sân
giận nên bị nó hoành hành, lớn tiếng nặng lời với người ta. Lại nữa, đa
số chúng ta tọa thiền, cốt là để lóng lặng tâm cho an định tỉnh sáng,
nhưng khi lên bồ đoàn ngồi xếp chân độ mười phút, mười lăm phút thì tâm
thần mơ màng mờ mịt ngủ gà ngủ gật, ngủ như thế cho đến giờ xả thiền,
không gượng được. Khi xả thiền cố ý nằm yên để ngủ thì không ngủ, vọng
tưởng chạy nhảy lung tung… Hễ cứ lên bồ đoàn tọa thiền là ngủ gục không
kềm, không gượng được. Như thế, có phải do thiếu ngủ mà ngủ gục không? -
Không. Ngủ như thế là do con ma thùy miên nó phá nó ngăn che, khiến cho
sự tu hành của mình bị ngăn ngại lui sụt. Đó là ma si làm chướng đạo
người tu. Và những ma phiền não khác ngăn ngại người tu cũng thế.
2- Ma ngũ ấm: đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm món ngăn che
làm cho con người không nhận ra chân lý, không sống được với trí tuệ, cứ
mê mờ tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử khổ đau.
- Sắc ấm: là hình hài thân thể con người do đất, nước, gió,
lửa hòa hợp tạm có. Con người vì mê chấp thân tứ đại là ngã nên tạo
nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, không nhận ra Chân tánh nơi mình.
- Thọ ấm: là cảm giác sướng khổ vui buồn khi sáu căn tiếp
xúc với sáu trần. Người vì mê chấp cảm giác vui buồn là thật, nên khi
thọ nhận được cảm giác vui, thì cố duy trì gìn giữ không muốn cho mất.
Nhưng cảm thọ vui ấy không bền, là vô thường, mặc dù cố gìn giữ mà nó
vẫn mất, và khi mất rồi thì buồn khổ. Khi thọ nhận cảm giác khổ thì
không muốn nó tồn tại, song không được, vì nhân xấu đã gây rồi nên quả
khổ phải thọ nhận. Con người vì mê lầm cố chấp cảm giác vui buồn là thật
là ngã, nên tạo nhiều nghiệp ác trầm luân trong sanh tử, không nhận ra
Chân tánh của chính mình.
- Tưởng ấm: là cái nhớ nghĩ việc đã qua hay mơ ước việc chưa
tới. Cái mơ ước nhớ nghĩ đó là vô thường không thật. Con người vì mê
lầm, chấp nó là thật là ngã, rồi tạo nghiệp thọ sanh, nên không nhận ra
Chân tánh sẵn có nơi mình.
- Hành ấm: là ý niệm nghĩ suy chuyển động vận hành tạo tác
các pháp hữu vi. Ý niệm suy tính vốn là vô thường không thật, con người
do mê lầm, chấp nó là thật là ngã, tạo nghiệp rồi đi trong luân hồi sanh
tử, nên không nhận ra Chân tánh ở chính mình.
- Thức ấm: là cái biết phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu,
cái này hay, cái kia dở. Cái phân biệt đẹp xấu hay dở chợt khởi rồi mất
không thật. Con người vì mê mờ lầm chấp nó là thật là ngã, nên tạo
nghiệp, thọ sanh tử, không nhận ra Chân tánh sẵn có nơi mình.
Tại sao gọi sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm là ma? Đối với
Sắc thân tứ đại này, con người mê mờ chấp nó là thật là ta, nên suốt cả
ngày cả đời mải mê lo vun bồi tô đắp cho nó được no đủ tươi tắn. Có khi
vì lo vun bồi cho thân mà tạo nhiều nghiệp ác, quên đường đạo đức,
không biết tu hành để tiến hóa trên đường thiện, không nhận ra Chân tánh
sáng suốt sẵn có nơi mình, nên gọi là ma sắc ấm. Tuy nhiên, nếu biết
dùng thân này làm phương tiện tu hành tiến hóa trên đường thiện, nhận ra
Chân tánh sáng suốt nơi mình, làm lợi ích cho mọi người, thì không gọi
là ma.
Phàm thọ khổ thọ vui đều là ma. Vì khi bị chê trách hay bị mắng chửi
liền nổi giận, khi đã nổi giận thì tâm trí mê mờ không còn sáng suốt.
Hoặc khi được khen được trọng, sanh kiêu căng ngã mạn, thì tâm trí cũng
mê mờ không sáng suốt. Nên nói thọ lạc hay thọ khổ đều là ma. Tuy nhiên,
ma hay phương tiện đều do nơi mình. Nếu mình mê lầm để cho nó làm
chướng ngại việc tu hành, che khuất Phật tánh, mất giống trí tuệ, thì đó
là ma. Ngược lại, mình biết lợi dụng nó để tu hành được giác ngộ thì đó
không phải là ma, mà là phương tiện. Tưởng ấm, hành ấm, thức ấm cũng
đều như vậy.
Người chân chánh tu hành đối với thân năm ấm này, phải khéo sử dụng
để tu hành cho được giác ngộ, đừng để nó biến thành ma che khuất Phật
tánh, mất giống trí tuệ, không giác ngộ.
3- Ma chết: là con người sau khi chết thành yêu, thành quỉ, hiện hình
kỳ quái nhát người sống, hoặc làm cho người sống đau bệnh hay chết.
Hoặc người tu hành chân chánh đang tinh tấn dụng công tu hành tiến bộ,
bị vô thường đến chết đi, làm dở dang đứt đoạn sự tu hành, cũng gọi là
ma chết.
4- Ma trời: là Ma vương và ma chúng ở cõi trời Dục giới, có khả năng
biến hóa làm trở ngại việc tiến đạo của người tu hành lúc sắp thành đạo.
Thái tử Sĩ-đạt-ta lúc sắp thành đạo, thiên ma hiện hình mỹ nữ, để cám
dỗ Ngài trở lại hưởng dục lạc thế gian, không muốn Ngài thành Phật. Vì
thiên ma muốn ai cũng đắm chìm trong ngũ dục, để chịu sự thống trị điều
khiển của nó, nên khi thấy Thái tử sắp thành Phật, nó hiện ra để phá,
làm chướng ngại việc thành đạo của Ngài. Lại nữa thiên ma còn lẫn lộn
trong mọi tầng lớp người ngoài xã hội và ngay cả trong đạo. Nhiều khi nó
ở ngay bên cạnh mà mình không hay không biết. Chẳng hạn người phát tâm
tu hành, không ham muốn danh lợi vật chất nữa chỉ muốn giữ giới thanh
tịnh để được an định giải thoát thôi, nhưng lại có người ở bên cạnh xúi
giục hùn hạp làm ăn cho có tiền của, để tu cho thoải mái khỏi nợ thí
chủ, hoặc xúi giục theo đường tranh danh đoạt lợi, để hưởng ngũ dục thế
gian, đó cũng gọi là thiên ma. Tóm lại bất cứ ai quyến rũ xúi bảo người
tu tranh danh đoạt lợi, hưởng thọ dục lạc thế gian, đều là thiên ma. Như
vậy, lúc nào và nơi nào bên cạnh chúng ta cũng đều có thiên ma. Vì thế
chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, để đường tu chúng ta không bị
thoái bộ. Phật dạy người tu tinh tấn chẳng những phá được phiền não ác
nghiệp, mà còn tồi phục được bốn ma, thì sẽ ra khỏi ngục năm ấm và ngục
tam giới. Tại sao Phật nói thân năm ấm này là nhà ngục? - Vì con người
lúc nào cũng mê chấp thân này là thật là ngã, nên Phật tánh bị che
khuất, trí tuệ lu mờ, phiền não bao vây, nghiệp chướng trói buộc, vì vậy
mà nói thân năm ấm là nhà tù.
Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cõi chúng ta đang ở là
Dục giới, nên chúng sanh ở cõi này, đa số đều bị lòng tham muốn ngũ dục
lôi cuốn thúc đẩy. Phật nói: “Tam giới vô an du như hỏa trạch.” Chúng
sanh còn ở trong cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều không được an ổn,
giống như đang ở trong nhà lửa vậy. Tại sao? - Vì chúng sanh ở ba cõi
này luôn luôn bị lửa vô thường thiêu đốt, sanh lên chỗ này rồi tử, sanh
lên chỗ kia rồi tử; cứ sanh tử, tử sanh, lộn đi lộn lại không biết bao
nhiêu đời bao nhiêu kiếp, không bao giờ ra khỏi. Nên nói tam giới là nhà
tù, nhà ngục. Kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ nói: Ông Trưởng giả có một
ngôi nhà đang bị lửa cháy lớn, các con ông đang ở trong nhà mải mê vui
chơi, không hề hay biết nhà cháy và sắp cháy tới thân mình. Ông Trưởng
giả thấy đám con dại khờ, ngu si, lửa cháy mà không biết tìm đường chạy
thoát, cứ mải mê vui chơi. Ông thương xót các con, gọi chúng ra khỏi
nhà, hứa cho xe dê, xe nai, xe trâu. Nghe cha cho xe, các người con ham,
mới chạy ra khỏi nhà và thoát nạn lửa cháy. Ông Trưởng giả dụ cho đức
Phật, nhà cháy dụ cho ba cõi đang bị lửa vô thường thiêu đốt, con ông
Trưởng giả, dụ cho chúng sanh đang thọ hưởng dục lạc trong ba cõi, mà
không biết ngũ dục là vô thường, cứ mải mê thọ hưởng không biết tìm
đường thoát ra, giống như đang ở trong nhà tù vậy. Người tu cốt yếu là
thoát ra ngoài vòng luân hồi sanh tử của tam giới, để được tự do tự tại,
chớ đâu phải chỉ quanh quẩn trong tam giới hưởng dục lạc thế gian! Vì
thế mà Phật dạy phải tinh tấn tu hành, để thoát khỏi nhà năm ấm và nhà
tam giới đang trói buộc chúng ta.
Như vậy, mỗi người chúng ta ai cũng có Phật tánh (Chân tâm) và ai
cũng có ma chướng. Nên trên đường tu hành, chúng ta phải nỗ lực tinh tấn
phá phiền não nghiệp ác, hàng phục ma chướng, bảo nhậm Phật tánh càng
ngày càng tỏ sáng. Chúng ta biết như vậy rồi, thì cứ ngay nơi tâm mình
mà tu hành, chớ không mong cầu ở ai khác bên ngoài. Muốn thành Phật thì
nuôi lớn tánh Phật ngày càng tỏ sáng càng viên mãn, kết quả sẽ thành
Phật. Nếu muốn thành ma thì trưởng dưỡng tham sân si… nơi mình càng ngày
càng lớn mạnh thì sẽ thành ma. Thành Phật hay làm ma là do mình, ở đây
chúng tôi chỉ có trách nhiệm chỉ cho quí vị biết điều nào nên làm, điều
nào không nên làm, để quí vị tự tu sửa và nhận được sự lợi ích trong
việc tu hành.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 5
CHÁNH VĂN:
Đệ ngũ giác ngộ:
Ngu si sanh tử.
Bồ-tát thường niệm,
Quảng học đa văn,
Tăng trưởng trí tuệ,
Thành tựu biện tài,
Giáo hóa nhất thiết,
Tất dĩ đại lạc.
DỊCH:
Điều thứ năm lại thêm giác ngộ:
Ngu si là gốc khổ luân hồi.
Bồ-tát thường nhớ không ngơi,
Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút nào.
Vun bồi trí tuệ càng cao,
Biện tài đầy đủ công lao chóng thành.
Đặng đem giáo hóa chúng sanh,
Niết-bàn an lạc còn lành nào hơn.
GIẢNG:
Đệ ngũ giác ngộ:
Ngu si sanh tử.
Điều giác ngộ thứ năm, Phật dạy ngu si thì bị trầm luân sanh tử. Ngu
si đây chỉ cho vô minh là đầu mối của sanh tử luân hồi, là chi thứ nhất
của Mười hai nhân duyên: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập… Vô
minh theo nghĩa thông thường là không sáng, si mê tối tăm… Theo tinh
thần của đạo Phật vô minh là không tỏ ngộ Chân tâm, không thấy các pháp
đúng như thật. Kinh Viên Giác, chương đầu, Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi, Phật
giải thích: “Chúng sanh chấp thân tứ đại này là thật, tâm duyên theo
bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh.” Do chấp thân tâm là thật là
ngã, nên vì nó tạo nghiệp, rồi theo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử.
Chúng ta học đạo giác ngộ là để thấy được cái nhân khiến mình phải trầm
luân sanh tử. Thấy rõ ràng, thấy cùng tột, để phá trừ vô minh thoát ra
khỏi sanh tử luân hồi. Vậy phá vô minh bằng cách nào?
Bồ-tát thường niệm,
Quảng học đa văn,
Tăng trưởng trí tuệ,
Thành tựu biện tài,
Giáo hóa nhất thiết,
Tất dĩ đại lạc.
Bồ-tát phá vô minh bằng cách hằng nghe nhiều học rộng về Phật pháp,
để trí tuệ càng ngày càng tăng trưởng. Học nghe đây không có nghĩa học
nghe pháp thế gian, vì pháp thế gian chỉ làm tăng thêm vô minh phiền
não, mà phải nghe lời Phật dạy để thực hành đúng phương pháp tu. Song,
không phải chỉ riêng hàng Bồ-tát học rộng nghe nhiều, mà Tăng Ni, Phật
tử muốn có trí tuệ để phá mê, cũng phải học rộng nghe nhiều để có kiến
giải chân chánh, giản trạch pháp tu cho hợp với trình độ mình thì tu
không lầm không lạc. Sau đó có hướng dẫn cho ai tu cũng hướng dẫn đúng
với chánh pháp. Tuy nhiên, học để ứng dụng tu thì được lợi mình lợi
người; còn học hiểu suông nói suông, chẳng những không tăng trưởng trí
tuệ, mà sanh bệnh kiêu căng ngã mạn, làm chướng đạo không được lợi ích.
Hòa thượng Pháp chủ Khánh Anh có dạy:
Tu mà không học là tu mù,
Học mà không tu là đãy đựng sách.
Thế nên chúng ta phải thực hành cả hai mặt học và tu. Học hiểu giáo
lý Phật dạy một cách chín chắn sâu rộng, rồi ứng dụng lời Phật dạy cho
đời sống bản thân mình. Lâu ngày thâm nhập Phật pháp, trí tuệ sẽ sáng
suốt rộng lớn như biển cả. Khi trí tuệ đã rộng lớn thì thành tựu được
biện tài, ra hoằng hóa làm lợi ích cho chúng sanh. Biện tài được chia
làm bốn thứ:
1- Pháp vô ngại biện: nghĩa là đối với pháp Phật dạy, thông suốt hết không còn nghi ngờ gì cả.
2- Nghĩa vô ngại biện: tức là nghĩa lý sâu xa mầu nhiệm mà Phật dạy trong kinh đều thâm nhập, thấu triệt không còn gì nghi ngại.
3- Từ vô ngại biện: nghĩa là những ngôn ngữ của từng địa phương đều nói thông suốt không trở ngại.
4- Nhạo thuyết vô ngại biện: là thông suốt nghĩa lý Phật
pháp và ngôn ngữ từng địa phương. Khi giảng nói Phật pháp cho người
nghe, đều khế hợp với căn cơ trình độ khiến họ vui nghe, không chán
ngán.
Như vậy, trước là do học tu mà được sáng suốt an lạc, đó là tự lợi
hay tự giác, kế đến là lợi tha hay giác tha. Muốn giáo hóa người, phải
thâm hiểu giáo lý Phật dạy, phải thông thạo ngôn ngữ, sau đó tùy căn cơ
tùy hoàn cảnh, mà giảng dạy hướng dẫn đưa người từ chỗ tối tăm đau khổ
đến chỗ sáng suốt an vui. Cái vui mà người tu Phật đạt được, không phải
là cái vui tầm thường ở thế gian. Cái vui của người thế gian là do thọ
hưởng ngũ dục, còn trong vòng đối đãi hơn thua được mất… Ví dụ người làm
ăn gặp thời, được lợi nhuận gấp đôi gấp ba lúc bình thường, thì lòng
vui vẻ mặt tươi cười hớn hở. Tuy nhiên niềm vui đó không lâu, chỉ trong
một thời gian là mất. Vì hết thịnh đến suy, làm ăn thua lỗ hay gặp
chuyện bất như ý xảy đến, lại buồn khổ bất an.
Cái vui mà Phật nói ở đây là cái vui lớn của người gắng công tu hành,
hết vô minh phiền não thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. Cái vui này
kinh Đại thừa gọi là Niết-bàn tịch tĩnh, không bị hạn cuộc trong thời
gian. Thế nên người tu khi đạt đến giác ngộ giải thoát, thì giờ nào phút
nào tâm cũng được an vui. Cái vui của người thế gian và người xuất thế
gian khác nhau. Người thế gian vui theo ngũ dục, hết vui liền khổ, khi
vui thì cười nói náo động ồn ào… Người xuất thế giác ngộ, hết khổ được
vui, niềm vui nhẹ nhàng vĩnh viễn. Người thế gian suốt ngày tìm tòi nắm
bắt cái vui cỏn con, nhưng được rồi lại mất. Thế nên Phật dụ như người
vớt bong bóng nước, vừa thấy bong bóng đẹp lóng lánh, đưa tay vớt, nó
liền tan mất. Cái vui của người thế gian là cái vui trá hình của sự đau
khổ, là cái vui của kẻ mê, là cái vui của chúng sanh. Còn cái vui của
người xuất thế là cái vui vĩnh viễn của người tỉnh giác có trí tuệ, là
cái vui của Bồ-tát, Phật. Chúng ta thấy kẻ mê và người trí có thái độ
sống rất khác biệt. Chúng sanh vì mê lầm, nên cứ tìm cầu chạy theo những
cái vui nhỏ giả dối tạm bợ, không biết mệt nhọc nhàm chán. Còn hàng
Bồ-tát trí tuệ sáng suốt, biết rõ cái vui ngũ dục giả dối tạm bợ, vui đó
liền khổ, nên tránh, luôn luôn đem nghị lực ý chí để tu hành, tìm cái
vui chân thật cho mình và giúp cho người được vui.
Tóm lại, người đời ai cũng sợ khổ tìm vui. Song, tùy theo người trí
hay ngu mà tránh khổ nhỏ hay khổ lớn và tìm vui nhỏ hay vui lớn. Người
ngu thì sợ cái khổ nhỏ như đói khát, lạnh nóng… để tìm cái vui nhỏ là có
tiền của nhiều, có nhà lầu, xe hơi, ở sang, ăn ngon… Trái lại, người
trí thì sợ cái khổ sanh, già, bệnh, chết vô thường thiêu đốt, nên tìm
cái vui lớn là cái vui bất diệt Niết-bàn giải thoát. Vậy chúng ta hãy
nghiệm xét lại xem mình là ngu hay trí, là chúng sanh hay Bồ-tát? Làm
Bồ-tát hay chúng sanh là tùy mình chớ không do ai khác. Trong cuộc sống
hằng ngày nếu ba nghiệp chúng ta thiện, phù hợp với đạo giải thoát thì
cứ như thế mà tiến cho đến khi được giác ngộ giải thoát hoàn toàn mới
thôi. Ngược lại, nếu ba nghiệp chúng ta hay làm ác, xuôi theo hướng si
mê của chúng sanh, thì phải cố gắng sửa đổi cho lương thiện phù hợp với
đạo, để được lợi lạc ngay trong đời hiện tại và mai sau. Tu là ở chỗ đó,
biết việc làm nào mê lầm đưa đến khổ đau thì mau chừa bỏ, biết tỉnh
giác đưa đến sự an vui thì huân tu cho thuần thục. Nếu người không chịu
chuyển mê lầm thành giác ngộ thì dù có đi chùa thường, lạy Phật nhiều,
luôn cầu nguyện để được hết khổ, chắc chắn người ấy không được toại
nguyện.
Vậy, người Phật tử chân chánh nên biết cái vui thế gian là cái vui
tạm bợ, cái khổ đói cơm, thiếu áo… cũng là cái khổ tạm bợ nhỏ nhoi, có
thể chuyển khổ thành vui được, chớ nên kêu than rên xiết. Phải nhớ đến
khổ lớn của vô thường sanh, già, bệnh, chết, mong cầu thoát ra và cố
gắng tu hành để được vui Niết-bàn vĩnh viễn.
Quí vị đừng nghĩ rằng kinh này Phật dạy cho hàng Bồ-tát, chúng ta là
kẻ không có phần rồi không tu, mà tất cả người tu Phật dù tại gia hay
xuất gia, nếu muốn thành tựu quả Phật thì chúng ta phải thực hành hạnh
Bồ-tát, tức là chúng ta phải vận dụng trí tuệ quán sát các pháp đúng như
thật như lời Phật dạy để đoạn gốc vô minh, trí tuệ dần dần tăng trưởng,
tự lợi lợi tha đầy đủ. Không mong cầu quả vị Bồ-tát cũng nghiễm nhiên
là Bồ-tát.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 6
CHÁNH VĂN:
Đệ lục giác tri:
Bần khổ đa oán,
Hoạnh kết ác duyên,
Bồ-tát bố thí,
Đẳng niệm oán thân,
Bất niệm cựu ác,
Bất tắng ác nhân.
DỊCH:
Điều thứ sáu phải nên giác biết:
Người khổ nghèo lắm kết oán hờn.
Không duyên tạo ác đâu sờn,
Bồ-tát bố thí, ai hơn kẻ này.
Lòng không còn thấy kia đây,
Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào.
Dù người làm ác biết bao,
Một lòng thương xót, khổ đau cứu giùm.
GIẢNG:
Đệ lục giác tri:
Bần khổ đa oán,
Hoạnh kết ác duyên.
Điều giác ngộ thứ sáu, Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha phải biết
tâm bệnh của chúng sanh là quá nghèo khổ nên hay oán hận, hay kết nhiều
duyên ác. Phàm người nghèo khổ có nhiều oán hận là vì thiếu thốn vật
chất, lúc nào cũng bị những điều bất như ý bức bách ép ngặt, không bực
dọc với người ngoài thì bực bội trong gia đình. Nếu có ai động chạm tới
là họ quạu quọ nổi sân giận làm hung làm dữ. Nhất là người không biết
tu, không thông lý nhân quả, khi lâm vào cảnh nghèo khổ đói cơm rách áo
thì oán trời trách đất. Thấy người giàu có hơn mình là sanh tâm đố kỵ,
thấy người quyền quí hơn mình là sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng có mặc
cảm không tốt với người hơn mình; mặc dù người quyền quí giàu có biết
tu, không hề khinh chê hay làm phiền lòng họ mà họ vẫn ghét. Vì họ cảm
thấy họ khốn khổ đủ điều, còn người giàu sang quyền quí sung sướng đủ
cách. Do mặc cảm không tốt đó, không duyên cớ gì mà cấu kết duyên ác
xấu, gây kết oan trái với người. Vì vậy mà người nghèo học đạo khó,
ngược lại người đủ ăn đủ mặc ít bị những bực bội ép ngặt thì dễ tu.
Là Phật tử đã học Phật pháp, thấu suốt lý nhân quả, nếu hiện tại lâm
vào hoàn cảnh nghèo khổ, hiểu rằng mình trước đã gieo nhân keo kiệt bỏn
sẻn, không biết giúp đỡ ai, lại thêm tham lấy của người. Đã lỡ gieo nhân
xấu nên ngày nay nghèo khó, vui chịu không oán trách than van, nỗ lực
xả bỏ tâm keo kiệt bỏn sẻn, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Cố gắng
phát triển hạnh lành phát tâm bố thí giúp đỡ mọi người, đó là đoạn cái
nhân nghèo khổ, sẽ được giàu có an vui về sau.
Có nhiều Phật tử than nghèo, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, của
cải vật chất không có, lấy gì để bố thí? Quí vị nghiệm lại xem, trong
đời này có ai nghèo đến nỗi không dư vài ba hột cơm để bố thí cho kiến
ăn, hoặc không dư một mảnh vải để băng bó vết thương cho người bị nạn!
Chắc chắn ai cũng có những món tối thiểu này. Tu không phải đợi có tiền
nhiều bố thí cúng chùa mới là làm phước, chúng ta biết thương người,
nghĩ đến người, tùy theo khả năng, phương tiện sẵn có của mình mà giúp
đỡ người. Chẳng hạn nhường chỗ ngồi cho người già yếu khi xe chật, phụ
giúp người đi đường gánh bưng quá nặng… Như vậy là chúng ta chuyển đổi
tâm niệm keo kiệt bỏn sẻn thành tâm bố thí lợi tha, chuyển đổi hành động
xấu ác thành lương thiện làm lợi ích cho người vật. Người nghèo mà sống
như thế thì đâu có kết duyên ác gây oán hận với ai. Ngược lại, cứ khư
khư ôm ấp tâm niệm xấu xa oán hờn, đã khổ lại chồng chất thêm khổ. Thế
nên người Phật tử nghèo hiểu rõ lý nhân quả, phải khéo tu để chuyển đổi
hoàn cảnh nghèo nàn đau khổ của mình, trở thành an vui sung sướng trong
hiện tại và mai sau.
Ở trước Phật chỉ cho biết nhân luân hồi sanh tử là vô minh. Đến đây
Phật dạy gốc nghèo khổ là keo kiệt bỏn sẻn, tham lam lấy của người. Phải
nỗ lực cố gắng tu để phá trừ nó.
Bồ-tát bố thí,
Đẳng niệm oán thân,
Bất niệm cựu ác,
Bất tắng ác nhân.
Do vì người nghèo khổ hay có tâm bệnh oán hờn, tạo nhiều nghiệp ác,
nên Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha, gặp người nghèo khổ như đã nói
thì phải thông cảm cho họ. Nếu họ lỡ kết oán gây hờn thì Bồ-tát hoan hỉ
tha thứ và đem lòng từ bi bình đẳng mà đối xử, không phân biệt thân sơ.
Tùy theo tâm niệm hoàn cảnh sở cầu của họ, biết họ đang bị khổ ách nào
chi phối, đang cần cầu điều gì, theo đó mà giúp cho phù hợp. Như thế mới
có kết quả tốt, giống như lương y tùy bệnh cho đúng thuốc thì bệnh mau
lành.
Cũng vậy, Tăng Ni hay Phật tử chẳng những thương cái khổ hiện tại của
người bần cùng, mà còn thương cái khổ vị lai của họ nữa. Tìm hiểu tâm
niệm hoàn cảnh của từng hạng người để giúp đỡ họ. Phật dạy do nghèo khổ
mà phần đông chúng sanh có tâm oán hờn và kết nhiều duyên ác, nên khi
gặp những người có hoàn cảnh như vậy, thì phải phương tiện giúp cho họ
bớt khổ, nghèo thiếu trong hiện tại, sau đó hướng dẫn cho họ học hiểu
đạo lý, biết nhân nào là ác xấu, phải chịu quả báo khổ đau thì nên
tránh, nhân nào là tốt, cần phải làm để được an vui lợi ích.
Khi Tăng Ni hay Phật tử ra làm lợi ích cho chúng sanh, luôn nhớ chúng
sanh nghèo khổ, nhiều lòng tham, nhiều oán hờn. Chẳng hạn đi phát gạo
phát tiền, họ lãnh rồi trở lại lãnh nữa, lãnh nhiều lần như vậy; hoặc họ
đến muộn, phẩm vật chia đã hết họ tức giận chửi mắng. Chúng ta nên
thông cảm và thương họ đang bị nghèo khổ ép ngặt, mất sự sáng suốt bình
tĩnh, tha thứ và an ủi họ mà không buồn giận.
Phật lại dạy thêm, Bồ-tát khi bố thí là do lòng từ bi bình đẳng, đối
với kẻ oán người thân đều bố thí ngang nhau, không nhớ nghĩ những điều
ác mà họ đã làm ngày xưa và cũng không hề ghét bỏ người hung dữ. Việc
làm này hơi cao, người thường khó thực hiện được. Nhưng đó là tinh thần
Đại thừa, nhằm lấy ân báo oán, khởi tâm từ bi hỉ xả, vong kỷ lợi tha.
Nên khi ra làm việc, chúng ta cần phải xem xét tâm niệm mình có còn vị
kỷ không? Có còn thân sơ không? Có còn nhớ nghĩ đến oán cừu xưa không?
Nếu còn thì phải tiến tu hơn nữa, để chuyển hóa tâm niệm nhỏ hẹp cho
xứng đáng với lời Phật dạy. Vì nếu chúng ta còn vị kỷ thì không thể nào
thực hiện đúng lời Phật dạy. Giả sử có người giàu có quyền thế lấn áp
chúng ta, sau đó họ sa cơ thất thế nghèo khổ, ngược lại chúng ta được
quyền thế giàu có. Trong một dịp đi bố thí gặp lại người lấn áp mình
ngày xưa, chúng ta không hoan hỉ cho người đó. Như vậy là chúng ta còn
nhớ lỗi xưa của họ, chúng ta còn tâm vị kỷ hẹp hòi, chưa có tâm hỉ xả.
Bồ-tát thì không như vậy, dù xưa họ có làm khổ các ngài, nay thấy họ
khổ, các ngài vẫn ra tay cứu giúp.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Bố thí cho một trăm người dữ ăn
không bằng bố thí cho một người hiền. Bố thí cho một ngàn người hiền,
không bằng bố thí cho người giữ năm giới. Bố thí cho mười ngàn người giữ
năm giới, không bằng cúng dường cho một vị Tu-đà-hoàn… Cúng dường một
trăm ức vị Bích-chi Phật không bằng cúng dường một vị Phật.” Nghĩa là bố
thí cho người tu cao chừng nào, thì có phước nhiều chừng nấy. Song, tại
sao kinh này Phật lại dạy bố thí phải bình đẳng? Đồng là lời Phật dạy
sao có sự mâu thuẫn nhau? Vậy kinh nào dạy đúng với tôn chỉ của Phật?
Tôi xin đưa ra một ví dụ để giải thích đoạn này cho quí vị hết nghi
ngờ. Phật tử nào lớn tuổi có con đông khéo dạy dỗ con thì sẽ thông cảm
điều này. Khi con còn nhỏ, quí vị thường dạy: “Con phải chọn bạn mà
chơi, đứa nào hiền lành siêng học nên thân cận gần gũi, đứa nào hung dữ
biếng nhác nên tránh xa, vì gần nó sẽ nhiễm những thói hư tật xấu, mà
hỏng cả cuộc đời.” Khi con khôn lớn học hành thành tài, có đức hạnh trí
tuệ vững vàng, quí vị lại khuyên con: “Con hãy coi bạn bè, đứa nào nghèo
khó, kém đạo đức nên tới lui giúp đỡ cho nó được tốt được vui…” Sở dĩ
quí vị khuyên dạy các con như thế, là vì con quí vị có đủ khả năng tự
chủ và làm lợi ích cho người, góp phần xây dựng cho xã hội được tốt đẹp,
chớ không còn đóng khung bằng cách dạy con phải gần người hiền người
tốt mãi.
Cũng như thế, người mới tu, tập khí tham sân si phiền não còn dày, mà
sức huân tu còn kém, nên Phật dạy tránh xa người dữ, gần gũi người trí
người hiền để được duyên thuận, được yên ổn dễ tu dễ tiến. Đến khi phiền
não tham sân si cạn mỏng, đạo lực vững, có đức tự chủ không bị chi phối
bởi nghịch duyên, thì Phật dạy nên giúp đỡ làm lợi ích mọi người, giúp
kẻ dữ người hiền như nhau. Người mới tu đạo lực non yếu cần bạn lành
duyên tốt để tiến, còn tu lâu có đạo lực, nếu ở trong cảnh thuận hoài sẽ
bị chìm trong ấy không tiến được. Giả sử có người tu lâu, ăn trên ngồi
trước mọi người, Phật tử đến chùa đều đảnh lễ cúng dường, muốn gì được
nấy, tha hồ hưởng thụ, không gặp khó khăn thử thách nên không biết mình
tu đến đâu? Tuy tu mà không có ai chọc phá nên không biết sân giận phiền
não còn hay hết. Hoặc không có ai bỏ đói, đâu có biết kham nhẫn cơn đói
đến đâu? Vì vậy, giai đoạn sau của người tu, cần phải có thử thách, để
trắc nghiệm xem tu đã thật sự tiến bộ chưa? Có đối xử bình đẳng giữa kẻ
xấu người tốt, kẻ sơ người thân chưa?
Thế nên tu trong cảnh thuận được an ổn thấy có tiến bộ, thì chưa tin
mình đã tiến thật sự, an ổn thật sự. Khi nào gặp nghịch duyên thử thách
mà vẫn thản nhiên an ổn vượt qua thì mới thật là tiến bộ. Ví dụ tôi
tuyên bố tu hạnh nhẫn nhục, nhưng tôi cứ ở trong cảnh thuận, không có
người đến chửi mắng khi dể, vu oan giá họa, thì làm sao tôi biết được
tâm nhẫn nhục của tôi đến đâu? Người tu khi phát nguyện tu hạnh nào, cần
phải có duyên nghịch để thử thách cho vượt qua mới thành tựu hạnh tu.
Giống như đứa học trò qua một năm học, cuối năm, chịu sự khảo hạch của
giám khảo, trả lời đúng mới được đậu. Việc tu hành nói thì dễ, tưởng
tượng thì dễ, sống trong thuận cảnh cũng dễ. Nhưng, đối diện với thử
thách, vượt qua một cách thản nhiên, không bị sân si phiền não làm ô
nhiễm mới thật là khó.
Thế thường, người đời khi bị chửi mắng, đánh đập, lấn hiếp thì cho đó
là ma quỉ theo phá không cho tu. Ngược lại, đối với người tu Phật, thấy
đó là Bồ-tát nghịch hạnh, giúp cho mình cái duyên thù thắng để sớm
thành tựu viên mãn công hạnh tu hành. Vậy khi quí vị phát tâm tu, nếu
gặp duyên thuận gần gũi được bạn lành tận tâm giúp đỡ mọi mặt, thì biết
đó là thiện hữu tri thức ở mặt thuận, chúng ta cũng phải nỗ lực tu tiến,
chớ bằng lòng trong cảnh thuận rồi quên tu. Nếu gặp nghịch duyên, người
xấu ác phá phách làm chướng ngại, thì biết mình đang gặp thiện hữu tri
thức ở mặt nghịch, chúng ta càng cố gắng nỗ lực vượt qua, không thối chí
nản lòng bỏ tu. Đối trước người giúp đỡ hay làm chướng ngại mình vẫn
bình thản, tâm không chao động, ấy mới là oán thân bình đẳng, khi giúp
đỡ họ thì giúp như nhau tâm không thiên vị. Hiểu như thế, chúng ta sẽ
không thắc mắc khi đọc kinh Pháp Hoa thấy Phật kể chuyện Đề-bà-đạt-đa
trải qua nhiều kiếp về trước, tạo nhiều duyên nghịch trong đời tu hành
của Phật. Sau đó Phật kết luận Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc
nhất của Ngài, nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Ngài mau thành tựu
Phật quả.
Người tu mà chỉ mong gặp cảnh thuận, gặp người hiền thì không biết rõ
khả năng tu của mình. Người mong ước như thế chỉ tu với Phật chớ không
tu với chúng sanh. Song, Phật không cần chúng ta tu với Ngài, vì lạy
Phật hoài Ngài cũng không mừng, chê Phật mãi Ngài cũng không buồn. Thế
nên không cần tu với Phật, mà phải tu với chúng sanh, thì sự tu hành mới
có ý nghĩa. Muốn được như thế, phải luôn nhớ người chửi mắng gây phiền
chướng cho mình, biết đâu là Bồ-tát thị hiện giúp mình tu tiến.
Chúng ta không nên tưởng Bồ-tát là những vị từ trên trời giáng xuống,
có hào quang có phép linh, để chúng ta đến đảnh lễ cầu xin việc này
việc nọ. Bồ-tát hiện thân rất thực tế, có khi lại tầm thường, ở bên cạnh
mà chúng ta không biết. Sách xưa ở Trung Hoa có ghi lại câu chuyện: Tại
chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai có hai vị Bồ-tát tên Hàn Sơn và Thập
Đắc. Ngài Hàn Sơn không ai biết rõ tông tích. Một hôm trời lạnh như cắt,
Ngài từ trong núi lạnh đi ra, quần áo rách rưới bẩn thỉu, vô chùa xin
ở. Do từ núi lạnh đi ra, nên Ngài được gọi tên là Hàn Sơn. Còn ngài Thập
Đắc thì do Thiền sư Phong Can đi khất thực về, gặp đứa bé bị bỏ bên
đường bơ vơ, Ngài đem về chùa nhờ nuôi, đặt tên là Thập Đắc, nghĩa là
lượm được. Hai vị sống trong chùa rất là bần hàn, ăn thì không ngồi trên
quả đường như chúng, lại ra sau bếp lượm cơm dư cơm đổ lọc rửa lại để
ăn. Ngủ thì ngủ ngoài hiên chùa, sống không cần ai biết đến. Tuy nhiên,
các Ngài sống rất vô tư hồn nhiên. Sau khi Thiền sư Phong Can tịch, quan
Tri phủ ở gần chùa bị bệnh, mộng thấy ngài Phong Can chỉ cho món thuốc,
ông uống lành bệnh, nên ông rất tin tưởng Ngài. Lại một hôm ông mộng
thấy ngài Phong Can bảo ông có muốn đảnh lễ Bồ-tát, thì đến chùa Quốc
Thanh tìm hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc mà đảnh lễ, hai ngài là Bồ-tát
Văn-thù và Phổ Hiền thị hiện. Quan Tri phủ đến chùa tìm, Hòa thượng Trụ
trì bất đắc dĩ cho gọi hai Ngài ra. Tuy thấy hai Ngài ăn mặc lôi thôi dơ
bẩn, thái độ ngây ngô, nhưng ông vẫn đảnh lễ. Hai Ngài biết tông tích
mình đã bại lộ liền cõng nhau chạy vô núi, mất luôn. Đó là Bồ-tát thật
mà mọi người không nhận ra được. Nên người đời thường ỷ mình khôn lanh,
tranh giành hơn thua, lắm khi phạm tội với Bồ-tát mà không hay!
Tóm lại, điều giác ngộ thứ sáu Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha,
phải biết rõ tâm lý hoàn cảnh căn cơ của từng người, thực hành lòng từ
bi bình đẳng, không phân biệt thân sơ ân oán, tha thứ mọi lỗi lầm cho
người, nhất là thương xót cứu giúp người nghiệp chướng nặng nề tạo nhiều
tội ác.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 7
CHÁNH VĂN:
Đệ thất giác ngộ:
Ngũ dục quá hoạn.
Tuy vi tục nhân,
Bất nhiễm thế lạc,
Thường niệm tam y,
Ngõa bát pháp khí,
Chí nguyện xuất gia,
Thủ đạo thanh bạch,
Phạm hạnh cao viễn,
Từ bi nhất thiết.
DỊCH:
Điều thứ bảy là thường giác ngộ:
Năm dục gây lầm lỗi ngất trời.
Tuy người thế tục ngoài đời,
Mà lòng không nhiễm vui chơi thế tình.
Ba y thường nhớ của mình,
Ngày nào sẽ được ôm bình ngao du.
Chí mong lìa tục đi tu,
Đạo gìn trong sạch chẳng lu không mờ.
Hạnh lành cao vút kính thờ,
Thương yêu tất cả không bờ bến đâu.
GIẢNG:
Điều giác ngộ thứ bảy, đức Phật dạy cho hàng cư sĩ tại gia hạnh “ly
nhiễm xuất thế”. Nghĩa là lìa xa ô nhiễm và ra khỏi thế gian. Vì sao? Vì
năm dục tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thanh, hương, vị, xúc là
lỗi lầm là tai họa, khiến cho con người chịu nhiều khổ đau truyền kiếp.
Thế nên người cư sĩ tại gia biết rõ tai họa của năm dục, thân tuy còn
trong thế tục, mà không nhiễm trước dục lạc thế gian, lại còn nuôi chí
nguyện xuất gia để thực hành hạnh tự giác giác tha. Nghĩa là tâm thường
nhớ tưởng mong cầu ngày nào đó, mình sẽ được xuất gia thoát tục, đắp y
mang bát đi khất thực, sống phạm hạnh thanh tịnh, làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh, chớ không ở hạn hẹp trong phạm vi gia đình nhỏ bé. Vì thế
mà người Phật tử học đạo có tâm cầu tiến, phải nuôi chí xuất trần siêu
việt không tự mãn mình là cư sĩ tu giữ năm giới đủ rồi. Người có quan
niệm như vậy là người không cầu tiến, đã giẫm chân đứng tại chỗ. Chúng
ta tu cũng giống như học trò đi học, học hết chương trình cấp một, phải
lên cấp hai, cấp ba rồi lên đại học. Nếu chỉ học cấp một rồi dừng ngang
đó, thì kiến thức chẳng được bao nhiêu và không thể dạy lại cho người
sau. Nếu đời này Phật tử lỡ tạo những nghiệp duyên ràng buộc, chi phối
khó tu không thể cắt gỡ ra được, phải cố gắng gieo duyên lành, nguyện
đời sau sớm gặp Phật pháp để xuất gia. Nếu không nuôi chí nguyện như
thế, thì đời này kiếp khác mải vướng bận trần lao, không bao giờ ra
khỏi. Vì sao? Vì đời sống của người cư sĩ tại gia lắm điều ràng buộc,
nhiều chướng duyên ngăn ngại khó tu khó tiến. Nhìn vào lịch sử, chúng ta
thấy hai vị Giáo chủ của hai tôn giáo lớn là Phật và Chúa, và những bậc
đắc đạo giải thoát, đa số là người xuất gia từ bỏ gia đình nhỏ hẹp buộc
ràng, sống đời sống vô gia đình vì nhân loại vì chúng sanh. Tuy nhiên,
cũng có vài trường hợp đặc biệt, ở Trung Hoa có Bàng Long Uẩn, ở Việt
Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thánh Tông là người cư sĩ ở trong trần
thế mà không nhiễm bụi trần.
Tóm lại, điều thứ bảy, Phật khuyên hàng cư sĩ tại gia, tuy đang ở
trong trần lao ô nhiễm, tâm luôn nhớ dục lạc thế gian là lỗi lầm là tai
họa, phải nuôi chí nguyện xuất trần, giữ phạm hạnh thanh tịnh làm lợi
ích cho chúng sanh.
ĐIỀU GIÁC NGỘ 8
CHÁNH VĂN:
Đệ bát giác tri:
Sanh tử xí nhiên.
Khổ não vô lượng,
Phát đại thừa tâm,
Phổ tế nhất thiết,
Nguyện đại chúng sanh,
Thọ vô lượng khổ,
Linh chư chúng sanh,
Tất cánh đại lạc.
DỊCH:
Điều thứ tám lại nên giác ngộ:
Tử sanh hoài đau khổ vô cùng.
Phát tâm dõng mãnh đại hùng,
Quyết lòng độ hết đồng chung Niết-bàn.
Thà mình chịu khổ muôn vàn,
Thay cho tất cả an nhàn thảnh thơi.
Mọi người đều được vui tươi,
Đến bờ giác ngộ rạng ngời hào quang.
GIẢNG:
Đệ bát giác tri:
Sanh tử xí nhiên.
Khổ não vô lượng,
Phát đại thừa tâm,
Phổ tế nhất thiết.
Điều giác ngộ thứ tám, Phật dạy việc sanh tử của chúng sanh quá
nhiều, liên tục không dứt, nên sự khổ não không thể nào kể hết được, mỗi
lần chết đi sanh lại là chịu nhiều khổ đau. Hiện tại chúng ta đang mang
thân này, là đã trải qua vô lượng kiếp bỏ thân rồi mang thân. Như vậy
thì sự khổ não không thể tính kể. Quí vị thử xét lại xem, như ở trước đã
nói, chỉ một đời này thôi chúng ta cũng đã chịu nhiều đau khổ, huống là
trải qua nhiều đời. Khi lọt lòng mẹ mở mắt chào đời cất tiếng khóc vang
là một lần khổ, rồi lớn dần, mỗi khi biết lật biết bò, biết ngồi biết
đi… là ấm đầu nhuốm bệnh… Khi lớn khôn đi học hay đi làm ăn xa, mỗi lần
xa cách là mỗi lần nhớ thương đau khổ. Lại mỗi lần buồn lo, sợ hãi, giận
ghét là mỗi lần đau khổ. Lại nữa, mỗi lần yếu đau bệnh hoạn hay chết
chóc của người thân hoặc của mình là mỗi lần đau khổ… Một đời người
chuyện buồn lo thương ghét giận hờn… xảy ra không biết bao nhiêu lần,
không thể tính hết được. Như vậy vô lượng vô số kiếp niềm đau nỗi khổ
của chúng sanh làm sao tính đếm được!
Chúng sanh vì mê muội hiện sống trong đau khổ lại tưởng là vui, cứ
đắm mình trong đau khổ. Chết đi sanh lại là khổ mà có ai biết chán biết
sợ! Sống trong đau khổ mà nghe nói chết là không ưng. Ai cũng muốn cho
mình được sống lâu. Nhưng thử hỏi sống để làm gì? Đa số người đời mong
sống lâu để thọ hưởng ngũ dục, chớ không biết nương nhờ mạng sống để tu,
để giải quyết cái khổ sanh tử luân hồi. Nhiều người lầm tưởng người tu
do chán đời sợ khổ, nên trốn vô chùa để ẩn dương nương Phật, tránh không
còn thấy không còn bị khổ nữa. Người tu với tâm niệm như thế thì tu
không tiến bộ, không lợi ích. Người tu cần phải có trí tuệ, trước là
phản tỉnh phá trừ vô minh phiền não tự tâm, sau đó phát tâm Đại thừa làm
lợi ích cho tất cả chúng sanh. Phát tâm Đại thừa làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh bằng cách nào? Nguyện thay chúng sanh chịu vô lượng khổ. Giả
sử có người phạm pháp bị tội, chính quyền đang truy nã tội phạm. Lúc đó
có người phát tâm ra nhận tội thế cho kẻ phạm pháp, chính quyền bắt
người nhận tội hành hình chớ không bắt người phạm pháp. Đó là trường hợp
thay chúng sanh chịu khổ. Tuy nhiên, ở đời có mấy ai tốt bụng như thế.
Giả sử bị đổ tội thì lại kêu oan không nhận tội. Như vậy với tâm niệm
của chúng sanh, ai cũng muốn cho bản ngã mình được sung sướng, luôn bảo
vệ cho bản ngã được an ổn, chớ không ai chịu khổ thế cho ai, ngoại trừ
hàng Bồ-tát. Song Bồ-tát thay chúng sanh chịu khổ như thế nào?
Trước tôi giải thích những việc của chúng sanh và sự đau khổ của sanh
tử. Sau đó mới nói đến thay chúng sanh chịu khổ của Bồ-tát.
Trong kinh có ghi lại đoạn Phật nói về tương lai:
“… Qua thời kỳ kiếp giảm, sẽ tới thời kỳ kiếp tăng. Khi tuổi thọ
con người tăng lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi thì Phật Di-lặc ra đời.
Khi Phật Di-lặc ra đời thì có một vị Chuyển Luân Thánh vương cũng ra đời
cai trị thiên hạ bằng chánh pháp. Bấy giờ dân chúng được an cư lạc
nghiệp sống đời thái bình. Khi nghe Phật nói như vậy, một vị Tỳ-kheo
bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, con nguyện tu cho đến khi đức Phật Di-lặc ra đời,
con sẽ làm vị Chuyển Luân Thánh vương đó, để đem giáo pháp của Phật ra
giáo hóa chúng sanh.
Đức Phật bèn duỗi ngón tay xuống đất, khơi một chút phân trâu
(tập tục Ấn Độ thường dùng phân trâu để tráng nền nhà), Ngài đưa ngón
tay có dính phân trâu lên, hỏi đại chúng:
- Ngón tay ta có dính chút phân trâu là dơ hay sạch?
- Bạch Thế Tôn, dơ.
- Như vậy đáng bỏ hay đáng giữ?
- Đáng bỏ.
Phật dạy: Một chút phân trâu dính trên đầu móng tay còn chán sợ
phải bỏ, huống nữa là nhiều. Cũng thế, mỗi một lần sanh tử là mỗi một
lần khổ đau nhơ nhớp. Nhơ nhớp gấp mấy lần chút phân trâu này mà ông
không biết chán sợ, lại muốn sanh tử nhiều lần, chờ chừng đó để làm
Chuyển Luân Thánh vương có phải là ngu si không?”
Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ một lần sanh tử là chịu vô số khổ
não. Vì vậy, mà phải biết đặt vấn đề: Làm sao giải quyết việc sanh tử
của mình cho xong, để rồi còn giúp người khác giải quyết sanh tử của họ
nữa. Khi đã được nghe kinh sớm giác ngộ, mà cứ quan niệm rằng: “thôi
mình an phận, cứ lo làm phước lành, mong cầu đời sau được giàu sang sung
sướng, hưởng phước báo ở cõi trời cõi người…” người quan niệm như thế
là không có tâm muốn thoát ly khổ sanh tử luân hồi, vì khi hưởng hết
phước thì sẽ bị đọa. Thế nên người trí phải tỉnh giác, thấy rõ sanh tử
là nỗi khổ lớn cần phải thoát ra, chớ có lầm tưởng sống đây là khỏe mạnh
là hạnh phúc, rồi không chịu tu hành cứ đắm chìm mãi trong đó.
Ở đây Phật chỉ cho chúng ta thấy vòng sanh tử liên tục, sự khổ não
không thể nào đo lường hết được, để chúng ta phát tâm cần cầu thoát ra
khỏi vòng khổ não đó và thay chúng sanh chịu khổ.
Thay chúng sanh chịu khổ, không phải thấy người khuân vác gánh gồng
ngoài phố ngoài đồng nặng nhọc, chúng ta đến đó xin gánh giùm cho họ.
Nếu thay như thế thì chúng ta chỉ thay được vài người thôi, còn bao
nhiêu người khác khổ cực ai thay cho họ? Ít người gánh gồng khuân vác
nặng nhọc, chúng ta thế được, còn khổ vì bệnh hoạn phiền não, chết chóc
thì làm sao thế được? Tất cả bệnh như tim, gan, phổi, ruột… ai đau người
ấy phải chịu. Hoặc buồn rầu, lo sợ, giận tức… ai phiền não thì người đó
mang. Hay chết chóc, dù con cũng không thế cho cha được, vợ cũng không
thế cho chồng được… Chỉ thay bằng cách đem lời Phật dạy, phá mê đánh
thức cho người khổ đau tỉnh giác, hết mê lầm, không tạo nghiệp ác để thọ
quả khổ, và không còn đi trong luân hồi sanh tử nữa. Song, đem lời Phật
dạy ra nói suông để người nghe suông chưa được, mà tự mình phải chịu
cực khổ nhọc nhằn, thức khuya dậy sớm để học để tu, tìm cầu cho ra lý
đạo, rồi đem đạo lý được giác ngộ ra giảng giải cho mọi người nghe, và
hướng dẫn cho họ tu hành khiến họ giác ngộ, thoát vòng luân hồi sanh tử.
Thay cái khổ cho chúng sanh là thay như thế. Khi xưa, Thái tử Sĩ-đạt-ta
(Siddhàta) giác ngộ lý vô thường sanh già bệnh chết khổ đau của kiếp
người, Ngài liền bỏ cung vàng điện ngọc, đi tu để tìm một lối thoát,
trước tự cứu mình sau cứu độ chúng sanh, vì Ngài thấy rõ mình cũng đang
chìm đắm trong sanh tử khổ đau cần phải thoát ra trước, rồi mới có thể
cứu người thoát ra sau.
Quí Phật tử nghe Phật dạy thân chúng ta không thật, chỉ là tạm bợ vô
thường là khổ, không, vô ngã, nên sự còn mất của thân này không còn là
vấn đề quan trọng nữa, nhờ vậy mà bớt chấp về thân. Bớt chấp thân thì
bớt khổ về thân. Ví dụ, từ trước có người bị tai nạn hay đau bệnh thì
khóc sướt mướt kêu than thảm thiết. Sau, biết tu hành có tỉnh giác tuy
gặp tai họa, ốm đau hay chết chóc, họ không còn lo sợ buồn khổ khóc lóc
nữa. Lại, bớt chấp tâm là bớt khổ về tâm. Chẳng hạn người bị mạ lị chỉ
trích, khi chưa biết tu thì tự ái buồn phiền khổ sở, nhưng khi biết tu
thì tự xét lại mình xem có vấp phải lỗi lầm ấy không? Nếu xét thấy có
lỗi thì sửa chữa, nếu không có lỗi thì bỏ qua, lòng an ổn, lo tiến tu.
Sở dĩ lâu nay chúng ta khổ nhiều là do chúng ta mê mờ thấy biết sai lầm,
cùng một sự việc xảy ra mà khi mê thì khổ, lúc tỉnh thì an, có khác
nhau. Ngay trong cuộc sống này, người giác ngộ biết tu đã làm vơi đi mọi
sự khổ đau rồi. Như thế, Phật không cứu khổ cho chúng sanh là gì? Tuy
nhiên, nói Phật cứu chúng ta, nhưng kỳ thật mình tự cứu lấy mình. Vì nhờ
Phật chỉ dạy pháp tu, chúng ta học hiểu và ứng dụng vào cuộc sống, nên
bớt khổ an vui, tức là đã tự cứu lấy mình. Như vậy là mỗi người đều có
sẵn Phật của mình, nên ở bất cứ trường hợp nào cũng được an ổn. Như
trường hợp một Phật tử người Việt gốc Hoa ở Vĩnh Long, giỏi chữ Hán,
thâm hiểu Phật pháp. Trước kia Sư cụ Huệ Quang có tặng cho Phật tử ấy
một cuốn kinh Pháp Bảo Đàn, dặn dò hãy đọc cho kỹ để ứng dụng tu hành.
Đạo hữu đọc mãi gần thuộc lòng. Một hôm công việc làm ăn bất ổn sao đó,
đạo hữu bị bắt nhốt trong khám. Những người cùng bị giam buồn rầu than
oán rên xiết, còn đạo hữu thì nhớ lời Phật dạy cố gắng tu hành, cứ ngồi
thiền hoài, nhờ lo tu mà không thấy khổ. Chúng ta thấy cùng một hoàn
cảnh, người không biết tu thì đau buồn khổ não, người thâm hiểu Phật
pháp biết tu hành vẫn được an ổn không khổ đau.
Nếu không vạch rõ ra thì quí Phật tử không hiểu, cứ thắc mắc kinh nói
Phật cứu chúng sanh, sao chúng sanh khổ mà Ngài không hiện ra để cứu?
Chớ thiển cận! Đừng tưởng Phật cứu là đưa tay kéo mình lên, hoặc bị nhốt
trong khám, Phật mở cửa khám đưa mình ra. Không phải vậy! Phật cứu khổ
chúng sanh là chỉ dạy cho thấy rõ lý vô thường khổ, không, vô ngã, rồi
chúng sanh nương theo lời Phật dạy tu hành, tự mình thoát khỏi sanh tử
khổ đau và cứu giúp người được hết khổ như mình. Hiểu như vậy mới không
lầm phát tâm Đại thừa, nguyện thay chúng sanh chịu khổ là làm mọi việc
nặng nhọc thế cho mọi người, mà mọi người phải lưu ý là, chính mình tu
cho hết phiền não mê mờ dứt khổ đau, mới đủ khả năng, đủ sáng suốt hướng
dẫn người khác tu. Nếu tự mình không tu, không hết phiền não vô minh,
trí tuệ chưa sáng, làm sao hướng dẫn người ta tu? Cũng giống như muốn
cứu người sắp chết chìm giữa dòng sông, điều kiện tất yếu là mình phải
biết lội, lội giỏi, có thuyền bè hoặc phao nổi thì mới cứu được. Ngược
lại, nếu thấy người đang lặn hụp sắp chết chìm giữa dòng sông, lòng
thương xót muốn cứu vớt, mà không biết lội, không phao nổi, không thuyền
bè làm sao cứu? Chỉ thương suông thôi!
Lội giỏi, thuyền bè, phao nổi, chỉ cho sự tu hành, đoạn dứt vô minh
phiền não, hết khổ đau, trí tuệ sáng suốt, đạo lực vững vàng. Người như
thế mới đủ khả năng tế độ người đang trầm luân trong sanh tử khổ đau.
Ví dụ quí vị có bạn bè hay thân nhân gặp tai nạn, hoặc làm ăn bị thất
bại họ đau buồn khổ sở. Quí vị gặp hoàn cảnh như vậy, cũng buồn rầu khổ
não như họ, thử hỏi quí vị có thể khuyên bảo họ bớt buồn bớt khổ được
không? - Chắc chắn là không. Vì quí vị đâu tỉnh sáng, đâu có lời chân lẽ
thật để khuyên. Chỉ khi nào quí vị tu giác ngộ giải thoát rồi, gặp hoàn
cảnh xuôi ngược thế nào cũng vẫn an nhiên tự tại, thì mới có thể khuyên
họ được. Như vậy, chúng ta phải tự tạo cho mình một đời sống an vui
sáng suốt tự chủ. Tức là chúng ta lấy trí tuệ và từ bi làm chiếc bè, làm
phao nổi, để chở mình và đưa người qua bể khổ lên bờ giác ngộ.
Hàng Bồ-tát phát tâm Đại thừa, muốn cho chúng sanh được an vui, nên
các ngài phải hi sinh chịu đựng mọi gian khổ, khép mình vào thanh qui
giới luật, thức khuya dậy sớm tu hành, mong cầu sớm được giác ngộ giải
thoát để rồi giúp chúng sanh cũng được giác ngộ giải thoát. Người tu
chân chánh có hai trường hợp xuất gia:
- Trường hợp thứ nhất: Thấy cuộc đời lắm chuyện nhiễu nhương đau khổ, sợ khổ mà đi tu. Đi tu để tự cứu mình.
- Trường hợp thứ hai: Thấy chúng sanh bị trầm luân trong sanh tử khổ
đau không thoát ra được, nên phát tâm đi tu tìm cho ra lối thoát để cứu
độ chúng sanh, đó là hàng Bồ-tát Đại thừa đi tu. Cũng như người đóng
thuyền để cứu vớt người, chớ không nghĩ đóng thuyền chỉ để chở mình.
Nhưng khi chèo thuyền cứu người bị chết chìm, thì mình đã thoát chết
rồi. Nghĩa là khi phát tâm nghĩ đến sự lợi tha là mình đã được phần tự
lợi rồi. Tức là chăm lo cứu người là mình đã tự cứu mình vậy.
Trong kinh Phật có kể lại câu chuyện:
Vào một kiếp xa xưa, có người thợ săn giết nhiều thú rừng. Sau
khi chết đọa vào địa ngục kéo xe chở vật nặng và bị đánh đập đau đớn khổ
sở. Trong khi bị đánh đập khổ sở, thợ săn chợt thấy một cây trụ đồng
cháy đỏ, hơi nóng tỏa ra hừng hực, quỉ sứ bắt người ném vào, họ la khóc
kinh khủng. Thấy vậy, thợ săn động lòng thương xót, phát thệ nguyện:
“Tôi xin chịu khổ một mình trong địa ngục này, để thế cho mọi người, cầu
mong mọi người được thoát ra an ổn, không còn khổ sở nữa.” Ngay sau đó
cảnh khổ của địa ngục không còn đối với người thợ săn.
Do tâm từ bi rộng lớn của người thợ săn, nguyện chịu khổ thế chúng
sanh, nên chuyển hóa được cảnh khổ của ông. Vì vậy nên nói: “Trong lợi
tha đã có tự lợi.”
Người tu hành khi thấy chúng sanh bị khổ, cảm nhận như mình bị khổ,
đó là người đại phát tâm, đại tu hành. Thế nên khi vì người mà hoan hỉ
chịu lao nhọc khốn khó thay cho người, thì không cảm thấy bực bội khổ
não, vì tâm cao thượng thương người bộc phát mạnh, lấn át mọi ý niệm khổ
đau. Ngược lại người chỉ muốn cho mình được sung sướng an lành mà bị
khổ, thì cảm thấy bực bội khổ não vô cùng. Khổ nhiều hay khổ ít là do
tâm lượng rộng hẹp của con người mà ra vậy. Ví như người mê mờ, không
sáng suốt làm điều sai quấy lỗi lầm, bị quở trách la rầy nên tự ái lo
buồn, bèn biện hộ bào chữa, không nhận lỗi. Vì thế chúng bạn nhìn họ với
tâm dò xét nghi ngờ. Một người bên cạnh thấy vậy, đứng ra nhận lỗi thay
để đánh tan sự dò xét nghi ngờ trong chúng. Khi bị khiển trách la rầy,
người nhận lỗi không thấy buồn khổ, lại còn vui, vì họ có đủ sáng suốt
và tự chủ. Quả thật như vậy, khi đã phát tâm thay thế chịu khổ để cứu độ
người, thì tâm mình thấy vui mà không thấy khổ. Vì niệm từ bi hỉ xả đã
tỏa rộng ra, thì niệm đau khổ đoạn diệt.
Người tu Phật thường lấy cái khổ của người làm cái khổ của mình để lo
cứu giúp; lấy cái vui của người làm cái vui của mình, mà không đố kỵ tị
hiềm thì thường vui hơn là khổ. Để thấy rằng khi phát tâm từ bi rộng
lớn, thì tâm niệm ích kỷ khổ đau ngay đó liền tiêu tan, nên hết khổ. Khi
nào mọi người đều mở rộng lòng thương cứu giúp cho nhau, thì mọi sự khổ
trên thế gian này không còn nữa.
Cho nên hàng Bồ-tát phát tâm Đại thừa, chỉ vì thấy được cái khổ thống
thiết của sanh tử luân hồi, mà chúng sanh đang gánh chịu, nên các ngài
khởi nguyện đi vào lục đạo để làm lợi ích cho chúng sanh. Trong kinh
nói: “Bồ-tát dĩ lợi sanh vi bản hoài.” Nghĩa là Bồ-tát lấy việc lợi ích
chúng sanh làm hoài bão chánh, nên các ngài đi từ nơi này đến chỗ kia,
làm tất cả mọi việc, chỉ vì mục đích là cứu độ cho chúng sanh hết khổ.
Người biết thương xót chúng sanh, nỗ lực tu học, để giảng giải cho
mọi người thấy rõ cái khổ sanh tử luân hồi, mà chán sợ không tạo tác
nhân trầm luân ấy nữa. Người hiểu và làm được như vậy, tự mình dứt khổ
đau được vui lớn là giải thoát Niết-bàn. Ở đây không nói riêng hàng
Bồ-tát, mà tất cả mọi người trong chúng ta đều nên phát tâm và làm như
thế.
TÓM TẮT
CHÁNH VĂN:
Như thử bát sự,
Nãi thị chư Phật,
Bồ-tát đại nhân,
Chi sở giác ngộ,
Tinh tiến hành đạo,
Từ bi tu tuệ,
Thừa pháp thân thuyền,
Chí Niết-bàn ngạn,
Phục hoàn sanh tử,
Độ thoát chúng sanh.
Dĩ tiền bát sự,
Khai đạo nhất thiết,
Linh chư chúng sanh,
Giác sanh tử khổ,
Xả ly ngũ dục,
Tu tâm Thánh đạo.
Nhược Phật đệ tử,
Tụng thử bát sự,
Ư niệm niệm trung,
Diệt vô lượng tội,
Tiến thú bồ-đề,
Tốc đăng chánh giác,
Vĩnh đoạn sanh tử,
Thường trụ khoái lạc.
DỊCH:
Tám điều như thế dạy qua,
Chính hàng Bồ-tát cùng là Thế Tôn,
Đã từng giác ngộ lẽ chân,
Tiến tu đạo hạnh vô ngần từ bi.
Đốt đèn trí tuệ phá si,
Pháp thân thuyền quí dạo đi Niết-bàn.
Trở vào sanh tử thanh nhàn,
Chúng sanh độ thoát an toàn vui lây.
Lại dùng tám việc trước này,
Mở đường khai lối dắt dìu chúng sanh.
Khiến cho hết thảy biết rành,
Tử sanh khổ não đừng manh chớ mờ.
Xa lìa năm dục đục lờ,
Tâm tu đạo Thánh không giờ nào quên.
Nếu là Phật tử phải nên,
Tám điều như thế hằng đêm tụng hoài.
Ở trong mỗi niệm hằng ngày,
Bao nhiêu tội lỗi diệt rày sạch trơn.
Bồ-đề hoa báu nhẹ thơm,
Trên bờ chánh giác gót chân giẫm liền.
Hằng hà sanh tử lưu linh,
Thường vui yên ổn tâm tình tiêu tan.
GIẢNG:
Như thử bát sự,
Nãi thị chư Phật,
Bồ-tát đại nhân,
Chi sở giác ngộ,
Tinh tiến hành đạo,
Từ bi tu tuệ,
Thừa pháp thân thuyền,
Chí Niết-bàn ngạn.
Chư Phật và Bồ-tát, hàng đại nhân được giác ngộ là do tinh tấn tu
hành, phát tâm tu hạnh từ bi cứu giúp chúng sanh. Các ngài luôn luôn
thắp lên ngọn đuốc trí tuệ nơi tâm mình, để phá trừ si mê mờ tối, kết
quả là ngộ được Pháp thân chứng Niết-bàn. Nên nói ngồi thuyền Pháp thân
đến bờ Niết-bàn. Đó là phần thứ nhất, chư Phật và Bồ-tát y cứ nơi tám
điều này, mà tinh tấn tu hành ngộ Pháp thân chứng Niết-bàn.
Phục hoàn sanh tử,
Độ thoát chúng sanh,
Dĩ tiền bát sự,
Khai đạo nhất thiết,
Linh chư chúng sanh,
Giác sanh tử khổ,
Xả ly ngũ dục,
Tu tâm Thánh đạo.
Sau khi Phật và Bồ-tát đã ngộ Pháp thân chứng Niết-bàn giải thoát,
các ngài khởi bi nguyện trở lại trong sanh tử, để giáo hóa cứu độ chúng
sanh. Tuy cũng lăn lộn trong sanh tử, nhưng các ngài không vì nghiệp
hoặc dẫn dắt, mà vì lòng từ bi khởi nguyện cứu độ chúng sanh, nên các
ngài ra vào trong sanh tử rất tự tại, không bị phiền não khổ đau bức
bách. Lúc giáo hóa, các ngài cũng dùng tám điều giác ngộ đã nêu, để mở
đường dẫn lối cho chúng sanh thấy rõ cái khổ của sanh tử luân hồi, để xả
bỏ năm món dục lạc thế gian, lo tu Thánh đạo. Đây là phần thứ hai là
phần giáo hóa chúng sanh của hàng Bồ-tát.
Nhược Phật đệ tử,
Tụng thử bát sự,
Ư niệm niệm trung,
Diệt vô lượng tội,
Tiến thú bồ-đề,
Tốc đăng chánh giác,
Vĩnh đoạn sanh tử,
Thường trụ khoái lạc.
Phần thứ ba nói: Người đệ tử chân chánh của Phật, mỗi niệm mỗi niệm
hằng nhớ tám điều giác ngộ này. Nhờ mỗi niệm hằng nhớ đến tám điều giác
ngộ, mà không nhớ tưởng điều gì khác, do đó không tạo tác nghiệp nhân
ác, nên tội lỗi theo đó mà dứt. Tại sao? - Vì tâm không còn nghĩ đến tư
lợi, không nghĩ đến điều hại người hại vật. Lúc nào cũng nhớ nghĩ đến
việc tu hành, thường xuyên tỉnh giác, nghĩ nhớ thương chúng sanh tìm
phương thế để cứu độ. Người sống được như vậy thì sẽ tiến đến quả Bồ-đề,
chóng thành tựu quả Phật. Khi đã đoạn lìa sanh tử vĩnh viễn thì thường
được ở trong cảnh an tịnh vui vẻ.
Để quí Phật tử dễ nhớ và nhớ kỹ, tu hành khỏi sợ sai lạc. Tôi tóm lược lời giảng như sau:
1- Điều giác ngộ thứ nhất: Thường thấy thân tâm của
mình và sự vật bên ngoài là vô thường không bền chắc không có thật ngã.
Phải biết tâm là gốc sanh ra tội ác, chớ mê chấp tâm là thật, là ta.
Biết vọng tưởng không thật nên không mê chấp chạy theo nó. Lại cũng biết
thân này là rừng tội lỗi, nên không chấp thân là thật, là ta. Thường
quán xét như thế để xa lìa khổ luân hồi sanh tử.
2- Điều giác ngộ thứ hai: Nên biết tham cầu nhiều
thì khổ đau cũng lắm. Gốc của luân hồi sanh tử là do tham đắm ngũ dục
thế gian. Vì vậy mà phải bớt tham muốn. Khi tâm bớt tham cầu ngũ dục thì
sẽ được an ổn vui vẻ.
3- Điều giác ngộ thứ ba: Nên biết người nào dục vọng
càng nhiều thì tội ác càng lớn. Do đó mà phải dứt tâm ham muốn, không
tham cầu ngũ dục. Lúc nào cũng ít muốn biết đủ, an phận nghèo để gìn giữ
đạo đức, phát huy trí tuệ, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, không để tâm đuổi
bắt danh lợi thế gian.
4- Điều giác ngộ thứ tư: Người lười biếng giải đãi
không đoạn trừ nghiệp ác, tu hạnh lành, thì bị trụy lạc trầm luân. Vì
vậy mà phải tinh tấn tu hành, để phá trừ vô minh phiền não, hàng phục
các thứ ma chướng, ra khỏi ngục tù ngũ ấm và tam giới.
5- Điều giác ngộ thứ năm: Phải biết gốc của luân hồi
sanh tử là ngu si. Vì vậy phải học rộng nghe nhiều về Phật pháp, nhờ
thế mà trí tuệ tăng trưởng sâu rộng, có đủ khả năng, đủ biện tài để giáo
hóa chúng sanh.
6- Điều giác ngộ thứ sáu: Nên biết người nghèo khổ
nhiều hay sanh oán hận, thường kết nhiều duyên ác, vì vậy không tránh
khỏi quả báo khổ đau. Nên người tu phát tâm thương xót họ, thứ tha cho
những lầm lỗi hờn oán không duyên cớ của họ. Lại còn đem tâm bình đẳng
bố thí giúp đỡ họ, không nhớ lỗi lầm ngày trước mà ghét bỏ họ. Biết và
làm được như vậy, mới là người thực hành đúng theo hạnh bố thí của Phật
và Bồ-tát.
7- Điều giác ngộ thứ bảy: Biết rõ ngũ dục là tội lỗi
là tai họa. Tuy hiện đời là người thế tục mà biết tránh, không đắm mê
theo ngũ dục, luôn nuôi chí nguyện xuất gia, muốn gìn giữ giới hạnh
nghiêm minh thanh tịnh, sống đời siêu thoát. Tự làm lợi ích cho mình để
rồi khởi lòng từ cứu độ tất cả chúng sanh.
8- Điều giác ngộ thứ tám: Phải biết luân hồi sanh tử
liên tục là khổ đau vô cùng vô tận. Nên phát tâm từ bi rộng lớn, nguyện
thay chúng sanh chịu khổ và giúp cho tất cả được đến chỗ cứu kính an
lạc là Niết-bàn giải thoát.
Đó là tám điều giác ngộ, mà chư Phật, Bồ-tát đã làm và những người tu
Phật chân chánh đang làm. Ai là người muốn học Phật, tu theo Phật thì
phải làm những điều này không thể bỏ qua được. Tại sao? Vì học Phật là
học giác ngộ. Phàm nói đến học Phật là nói đến đạo lý giác ngộ của Phật
và Bồ-tát đã tu đã giác, chớ không phải học thuộc lòng kinh nhiều, hay
tụng kinh giỏi mà không tu không giác, rồi cho rằng mình học Phật. Nhớ
là không phải như vậy! Giác ngộ những gì? - Giác ngộ từng phần như trước
đã kể. Thấy rõ thân người và cảnh vật là vô thường, thấy rõ tham dục
nhiều thì khổ đau nhiều… Thấy rõ như vậy là mình đã có mầm giác ngộ, kế
đó nhờ trợ duyên thầy sáng bạn tốt làm thiện hữu tri thức, để tiến đến
chỗ giác ngộ viên mãn.
Đến đây tôi xin nói rộng ra để quí vị dễ hiểu dễ nhớ, không lầm.
Trong kinh này Phật chỉ nói một chiều, chê thân tâm là vô thường, vô
ngã, khổ đau, gốc tội lỗi. Nhưng, ở chỗ khác Phật lại nói có thân này là
do tích chứa nhiều phước đức mà được. Thế nên làm người phải luôn tự
vấn: “Được thân này, sống để làm gì?” Có người đã tự vấn mình, nhưng
không giải đáp được. Lại cũng có người không biết mình có thân này, sống
để làm gì? Phật dạy được thân người là khó, thế nên phải biết lợi dụng
thân này để tiến tu cho được giác ngộ giải thoát, sau dẫn dắt chúng sanh
từ chỗ mê mờ đến chỗ giác ngộ, từ chỗ tội lỗi đến chỗ an vui.
Phật dụ người đi biển bị chìm thuyền, không có phao nổi, sóng dồi gió
dập, trồi lên hụp xuống mệt lả, bỗng vớ được khúc gỗ mục đang nổi trên
mặt biển. Khi ôm khúc gỗ mục, người ấy biết nó là gỗ mục đang trôi nổi,
rồi sẽ hư hoại không lâu. Song, người ấy biết rằng mình đang cần nương
nó, để lội vào bờ, khỏi bị chết chìm. Khúc gỗ mục ấy, lúc bấy giờ đối
với người sắp chết đuối thật là hữu ích, vì nhờ nó mà khỏi chết chìm.
Như vậy, mục đích của người dùng khúc gỗ mục không phải để khoe khoang,
không phải để tô điểm sơn phết cho đẹp, không phải để quí trọng như một
bảo vật, mà khúc gỗ là vật hữu dụng, đang cần để đưa người vào bờ.
Cũng vậy, mọi người cần phải thấy đúng ý nghĩa về thân này. Biết thân
này là vô thường tạm bợ không chấp chặt nó, không quí thân này hơn thân
khác. Không vì nó mà tạo nghiệp ác, cũng không vì thấy nó vô thường tạm
bợ mà bi quan than thở, ngồi chờ chết. Biết thân này vô thường tạm bợ,
phải cấp thiết lợi dụng thân này làm tất cả mọi việc hữu ích. Lo tu hành
để mình được giác ngộ giải thoát mọi khổ đau và giúp người cũng được
giác ngộ giải thoát khổ đau hoàn toàn.
Người sống được như vậy là người giác ngộ, biết đúng ý nghĩa về thân
này và có thái độ sống hợp đạo. Đó là điều căn bản của người tu theo đạo
Phật.