Mới nghe cái tên Không và Sắc, thoạt đầu chúng ta có cảm giác đây là
một tiều thuyết huyền ảo, đầy hư - thực và sẽ khó đọc. Tuy nhiên, sự
thật không phải như thế, bởi Không & Sắc là một tiểu thuyết có nét
duyên rất riêng và khá hấp dẫn.
Sức lôi cuốn của nó chính là
những cảm xúc tự nhiên, chân thật rất con người, rất đời, pha lẫn với
màu sắc huyền thoại về những con người đang nỗ lực đem ánh sáng hòa vào
cát bụi, làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn, nhiều ý nghĩa hơn.
Bên cạnh đó, chúng ta có
thể tiếp xúc với những giáo lý uyên áo mang đầy giá trị thực nghiệm của
triết lý nhân sinh Phật giáo bằng ngôn ngữ văn học...
Vốn sống phong phú, nhận
thức, tư duy Phật học khá cơ bản, cộng với bản lĩnh của một tâm hồn văn
chương nhạy cảm với một niềm tin tha thiết vào con người, tác giả đã đi
từ cái khó nắm bắt trở về với những điều gần gũi, thân quen.
Để tránh khỏi lối viết
theo kiểu hòa âm một cách đơn điệu về Phật giáo, tác giả xây dựng thành
công rất nhiều nhân vật: một Trưởng lão Chân Tâm hành động kì quặc, nói
năng vu vơ một cách rất diệu kỳ; một Thượng tọa Thiện Luật có vẻ lạnh
lùng nhưng mau nước mắt; một Sa di Thiện Tuệ nỗ lực tu hành đến mức hóa
điên; một Thiện Tài mong được xuất gia cống hiến cả cuộc đời mình cho
Phật pháp nhưng vẫn không vượt ra ngoài những khát khao nhục cảm mãnh
liệt; một Tiểu Vân Tử không rõ là nam hay nữ...
Khéo nắm bắt được mối quan
hệ giữa ý thức và bản năng, tác phẩm xuất hiện nhiều trang viết trữ
tình, lung linh huyền ảo. Chúng ta nhiều lần xúc động trước vẻ đẹp thanh
cao, tinh khiết từ hòa của những bậc thầy khả kính. Chúng ta thông cảm
và đồng cảm với những cảm xúc rất bản năng, những dằn vặt khổ đau của
kiếp con người mà không rơi vào cách nhìn dung tục hóa tới mức tầm
thường các giá trị khác trong cuộc sống.
Lợi thế của Không & Sắc
chính là không thể nói hết, không thể giải quyết hết mọi vấn đề. Vì
thế, có những điều nửa muốn thổ lộ, nửa muốn giữ riêng cho mình, có
nhiều điều nói chưa hết, chưa thỏa. Điều này tạo ra sức gợi và sự liên
tưởng, không buộc người ta tin nhưng cần người ta hiểu.
Cũng vì thế, tác phẩm thể
hiện sự đan cài những yếu tố tâm lý muốn vươn lên, thoát ra nhưng cũng
không ngần ngại khi bị buộc ràng. Như vậy Không & Sắc
cũng bộc lộ rất rõ đâu là nhận thức, kinh nghiệm và sự từng trải, đâu
là niềm tin và sự hoài nghi.
Có thể nói, còn nhiều điều chúng ta chưa biết nên
không thể vội vã kết luận bằng những tiêu chuẩn đã được định hình, định
tính. Vạn pháp do duyên sinh nên pháp thiện, pháp ác cũng sinh không
thật sinh, diệt không tận diệt. Vì vậy, hãy tiếp xúc với cuộc đời theo
cách riêng và bản lĩnh của chính mình.
Với sự giao hòa vô bờ của Không &
Sắc, có lẽ cả những lý thuyết đa trị và bất trị đều trở
nên lạc điệu. Ta không nên mất sức vào công việc cố tình xóa đi những
cái mà bản thân nó vốn không có hình tướng nào cụ thể, bất biến.
Ai đó có thể bằng lòng
hoặc không bằng lòng với cách giải quyết vấn đề của tác giả, nhưng quả
thật, sự minh chứng về một hệ thống giáo lý đa phương tiện đã làm cho
cách giải quyết vấn đế có nhiều hợp lý. Nếu đứng ở một góc nhìn nào đó
để đánh giá, tất nhiên, chuyện bàn cãi là không thể tránh khỏi.
Quá khứ không
truy tìm Tương lai không ước vọng Quá khứ đã đoạn tận, Tương
lai lại chưa đến. Chi có pháp hiện tại Tuệ quán chính ở đây Không
động, không rung chuyển, Biết vậy, nên tu tập. Hôm nay nhiệt tâm
làm. Ai biết chết ngày mai Không ai điều đình được. Với đại
quân thẩn chết. Trú như vậy nhiệt tâm, Đêm ngày không mệt mỏi. Xứng
gọi nhất dạ hiền, Bậc an tịnh, trầm lặng. Kinh Nhất Dạ Hiền Giá |
Người
ta vẫn có thể thẩm định giá trị đích thực của kinh điển mà tác giả đã
minh họa. Tuy nhiên, trong một tiểu thuyết, tính đúng đắn của những khái
niệm đã vượt ra ngoài sự định danh. Bằng những dụng ý riêng, tác giả có
thể trích dẫn những câu trong kinh cho phù hợp với ý đồ nghệ thuật của
mình. Vì thế, chúng ta cũng không nên hiểu đó chính là toàn bộ tư tưởng
của Phật giáo.
Tác phẩm có lúc cho chúng ta chứng
kiến những cuộc bàn cãi nẩy lửa chỉ vì ai cũng cho tông phái của mình là
đúng. Cái đúng ghét cái sai, thói thường xưa nay vẫn thế, nhưng cái đẹp
lại vốn ghét chính bản thân nó thì sự thật lại trớ trêu.
Ở
đâu đó, đằng sau suy nghĩ hành động của một số nhân vật, ta có thể hình
dung ra sự xuất hiện của một thế lực đang trở nên cuồng tín với tất cả
các giác quan đang quằn quại, rỉ máu. Nhưng ta cũng trở nên yêu thương
hơn và không có lý do gì để xa lánh những con người ấy. Bởi khi Trưởng
lão Chân Tâm đặt vấn đề tiếng “hét” của ngài Lâm Tế và “con chó” của
Thiền sư Triệu Châu thì ít nhiều những áp đặt tư tưởng đều sa vào giáo
điều và cực đoan một cách vô lối.
Tiếng vọng khổ đau từ ngọn
đời của kiếp nhân sinh vẫn là nỗi lo lắng khắc khoải khôn nguôi trong
lòng người về thiện – ác. Niềm tin trở nên mong manh trước vô vàn những
xao động của cuộc đời. Những mâu thuẫn giằng xé lại chính là biểu hiện
đẹp của tính chất “thấu tình” trong tâm địa chúng sinh.
Và
vì thế, các giác quan vừa có tội, vừa vô tội bởi nó mang trong mình cả
hai chiều tác động của tịnh uế, thiện ác, trí ngu... Thật khó để phân
biệt, lúc cần phân biệt vẫn phải phân biệt nhưng cũng không gì ngớ ngẩn
hơn là sự phân biệt. Mỗi người đến thế gian bằng một cách và ra đi bằng
một cách.
Đến và đi, cái thấy muôn đời vẫn không
gì hơn sự ngây thơ đáng thương hại của nhục nhãn. Đừng lấy tâm địa của
chúng sinh để đo lường Phật trí... Tác giả đã cho nhân vật của mình đặt
ra rất nhiều câu hỏi.
Tuy nhiên, vấn đề không phải ở
câu trả lời mà là ở cách chúng ta nghĩ và đối xử thế nào về những điều
xảy ra trong thực tại. Đức Phật bị ngoại đạo nguyền rủa đó có phải là
nghiệp không? Đề Bà Đạt Đa đang ngồi trên chậu lửa mà thấy nó là hoa sen
có phải là nghiệp không? Quả thật, sự phân biệt của con người đã vượt
ra khỏi tầm kiểm soát của chính con người.
Đọc kỹ
Không & Sắc, chúng ta thấy tác phẩm đôi lúc còn dừng lại ở tư duy
khái niệm, nặng về minh họa, và không khỏi có những tham vọng muốn bao
quát hết tư tưởng Phật giáo.
Chính vì giới hạn này, mà
nhiều vấn đề đặt ra còn nông, vẫn còn ở một vài câu nói mang tính chất
"an ủi", khiến cho tác phẩm có phần loãng. Nếu như sự chuyển đổi từ một
ngôi chùa của Thiền tông sang Tịnh độ tông còn khá bình yên, quen thuộc
thì sự chuyển đổi từ một ngôi chùa Tịnh độ sang ngôi chùa Mật tông lại
sóng gió và đầy xa lạ.
Cái lạ thường hấp dẫn trí tò
mò của con người nhưng không vì thế mà làm cho cái lạ trở thành phản
cảm. Xung đột tông phái xảy ra trong con người Thượng tọa Thiện Luật
không hẳn là xung đột mang tính chất thuôn tôn giáo mà nó còn là xung
đột văn hóa.
Việc đẩy xung đột này trở thành cao
trào và kết cuộc bi thảm là Thượng tọa Thiện Luật đã hành động như một
kẻ điên cuồng, khát máu, chém chết hai vị sư Mật tông và tự đốt chết
mình, đó là điếu quá sức tưởng tượng của người đọc.
“Tựa như nước
của bể cá, chí thấm nhuần một hương vị, hương vị mặn. Đạo lý của
ta cũng chỉ thấm nhuần một hương vị, hương vị của sự giải thoát”
Lời dạy của Thế
Tôn |
Mọi chuyện trên đời đều có thể xảy ra, tuy nhiên,
với mâu thuẫn không phải mang tính cá nhân như vậy thì câu chuyện đã bị
thổi phồng quá chăng? Khả năng về sự “biến thái tâm lý” ấy chính là do
thượng tọa khi xưa là một thái giám. Vì để mèo ăn một con chim qúy của
Ninh Vương nên phải bỏ trốn và luôn sợ bị phát hiện. Cách lý giải như
vậy có nhiều khiên cưỡng. Điều này, có khả năng xuất phát từ ấn tượng
không tốt về một hạng người nào đó. Cho nên, hình tượng nhân vật có thể
đã bị bóp méo bằng chủ quan tính, làm cho câu chuyện thiếu thuyết phục.
Tuy nhiên, chính sự nhận
thức về giáo lý Phật giáo của tác giả đã phần nào bổ sung vào khiếm
khuyết ấy làm cho ngòi bút không thể vượt ra ngoài quỹ đạo của sự bao
dung cần phải có.
Sự việc đã xảy ra không phải để chúng ta chán nản, bi quan,
ghét người, giận đời, mà chính từ đó, hình tượng cái đẹp được tôn vinh
thêm bằng một kinh nghiệm mới hơn về cách nhìn nhận cái đẹp.
Các giá trị đang có của
thực tại càng được nhận thức và trân trọng một cách nghiêm túc. Có thể
có những cái xấu sẽ ngày một đẹp và cái đẹp sẽ không còn đẹp nữa. Nhưng
dẫu sao, với Không & Sắc, mọi cách nhìn
chưa chín kỹ về thiện-ác, khen-chê của con người đều có nguy cơ bị cuốn
vào vòng xoáy của cơn lốc ghét-yêu. Nếu không thận trọng thì niềm tin
vào con người sẽ ngày một có nguy cơ bị hủy báng.
Ngôn ngữ của Không
& Sắc phần nào thuyết lý và khá tỉnh táo. Chính vì
vậy, nhiều lúc chúng ta thấy nó sa vào ngôn ngữ bài giảng và có độ chênh
nhất định khi một số vấn đề không được đặt đúng không gian văn hóa mà
tác phẩm đề cập.
Tuy nhiên, ấn tượng hiện đại mà tác phẩm đem lại chính là
mạnh dạn đề cập đến vấn đề khá nhạy cảm của tôn giáo. Đó là vấn đề dục
vọng và những biểu hiện của chúng trong hàng ngũ Tăng sĩ trẻ.
Từ cơ sở này, tác phẩm
đã đặt ra vấn đề vai trò của những vị thầy tâm linh trong việc đào tạo
con người. Hãy trang bị cho họ bản lãnh trí tuệ, nội lực tâm linh để họ
tự hóa giải khổ đau. Cần hiểu biết về dục vọng bằng chính năng lực
chuyển hóa chứ không phải bằng sự cấm đoán. Do đó, kinh nghiệm chuyển
hóa của các vị thầy chính là đánh thức khả năng tự thanh lọc nơi đệ tử,
và nó phải trở thành thực tại sống động cho một minh chứng về sự điều
phục và chiến thắng.
Thành công của tác giả chính là ở chỗ mở đầu bằng tư tưởng
Bát Nhã và kết thúc cũng bằng tư tưởng Bát Nhã, cho nên những điều khẳng
định hoặc phủ định trong cốt truyện vẫn có sức mạnh thay nghĩa, biến
nghĩa. Vì thế, độc giả, ở nhiều trình độ khác nhau đều có thể tìm ra cho
mình một ý nghĩa riêng nào đó . . .
“...Đừng xét những soi lầm của người khác, mà
hãy sửa đổi những sai lầm của chính mình. Đừng xét những khuyết điểm
của người khác, hãy xét những khuyết điểm của chính mình. Điều xấu nhất
là có thành kiến tôn giáo và phê phán người khác trong khi không biết rõ
tâm trí của họ. Vậy hãy bỏ thành kiến như bỏ thuốc độc”.
Theo: chungta.com