Một buổi chiều nào đó, thời niên thiếu, tôi đã nghe tiếng chuông từ 
chùa Linh Mụ  vọng về theo dòng sông, qua những bờ lau lách, qua những 
ruộng mía xanh rì vẳng  đến ngôi trường học bên bờ sông Hương.
Ngày tôi trở về thăm lại quê hương đổ nát  sau những năm dài lưu lạc 
khổ đau, mỗi đêm gần sáng, trong ngôi từ đường, tôi  thường thức giấc 
bởi những hồi chuông từ ngôi chùa nhỏ bên kia sông vọng lại.  Tôi nằm 
nghe tiếng chuông dóng dả khoan thai như một lời an ủi, tỉ tê. Tiếng  
chuông như ru tôi rũ sạch mọi muộn phiền.
 
 Tôi đã xa những tiếng
chuông như thế trong nhiều năm, bỏ lại thành phố nhỏ, con  sông mượt mà
và cả tuổi thơ không bao giờ có thể tìm lại. Danh lợi, chiến tranh,  và
hận thù đã xô đẩy loài người đến với âm thanh của những tiếng bom đạn, 
tiếng  kẻng tù, tiếng rú của những nhà máy nhả khói mịt mù và thế giới 
văn minh với  những dòng xe rộn ràng, vội vã.
 
 Ngày xưa chúng ta
đã từng nghe tiếng chuông trong Đường thi của Vương Duy, Mạnh  Hạo 
Nhiên, Thường Kiến. Chúng ta ai mà không biết đến cái nửa đêm trăng tàn,
sương xuống, quạ kêu và tiếng chuông chùa Hàn San vọng lại giữa đêm 
của Trương  Kế. Và gần đây Quách Tấn với: “Những đêm buồn tỉnh giấc, chùa cũ tiếng  chuông ngân.”
Tiếng chuông luôn luôn là của phần hồn, của siêu thoát, của  an nhiên 
tự tại khác hẳn với những gì trần tục, đời thường. Vậy mà tiếng chuông  
chùa đã không còn nghe nữa!
 
 Câu chuyện sau đây đã giải thích vì
sao tiếng chuông chùa đã ngưng tiếng. Đó là  câu chuyện của Thiền sư Ấn
Độ Ram Gopal Muzumdar:
 
 “Xưa có một người quyết tâm học 
đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái  cốc nhỏ, sống đạm bạc, 
quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư  phải đi xa, 
dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, chớ hề xao lãng cũng, giữ  lối
sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh.
 
 Người đệ tử này chỉ có một
chiếc khố che thân, đêm tới khi ngủ, máng trên vách,  thường bị chuột 
ra cắn rách, phải xin vải thừa bá tánh thay đổi nhiều lần.
 
 Thấy
vậy, thương người tu hành, người làng đến biếu thầy một con mèo dùng để
đuổi bầy chuột. Từ khi có mèo, chuột hết cắn phá khố của thầy nhưng 
lại phải lo  thức ăn thêm cho mèo. Một phú nông trong làng có lòng biếu 
thầy một con bò để  thầy vắt sữa nuôi mèo. Có bò rồi, thầy lại phải lo 
đi cắt cỏ nuôi bò. Dân làng  lại có lòng tốt biếu thầy một đám ruộng màu
mỡ để thầy canh tác.
 
 Chẳng mấy lúc, được mùa, lại bò mèo đều 
sinh sản thêm, thầy phải nhờ đến dân  làng phụ lực cày cấy. Không bao 
lâu, chốn thanh tịnh xưa kia trở thành một nông  trại rộng lớn giàu có.
 
Thầy lúc ấy tiền bạc không thiếu, mới có ý định phá bỏ chùa nghèo cũ, 
xây chùa  mới, bá tính mới nghe đã dốc lòng, ùn ùn góp công góp của cúng
dường để lấy  phước. Chẳng mấy chốc thầy đã xây dựng một ngôi chùa mới 
nguy nga tráng lệ,  tượng lớn, cửa cao, trong ngoài đều sơn son thếp 
vàng như chốn cung đình của Vua  Chúa. Quá giàu, thêm đa đoan công việc,
tính toán kinh doanh làm sao được nhiều  tiền hơn, đêm đêm thầy bù đầu 
với những con số thu chi, không còn dốc tâm cũng  như có thời gian để tu
học. Ngày nay thầy đã trở thành triệu phú, đại tư bản,  chỉ có bộ áo cà
sa bên ngoài cho biết thầy là một tu sĩ.
 
 Một ngày kia sư phụ 
trở về, mới đến rẻo đất cũ đã thất kinh rụng rời, hồn phi  lạc phách, 
không thấy túp lều cỏ đơn sơ ngày xưa mình ra đi, mà trước mặt là một  
ngôi đền tráng lệ, khách thập phương lui tới chiêm bái, ngựa xe dầy đặc,
ồn ào  không kém gì chốn phồn hoa trần tục. Thấy sư phụ chống gậy, tay 
nải trở về, thầy  hân hoan ra đón, cặn kẽ trình bày lại những chuyện đổi
thay tuần tự theo thời  gian, hy vọng được sư phụ nhiệt liệt khen ngợi,
xiễn dương công đức của thầy.
 
 Sư phụ nín lặng hồi lâu, cuối cùng thở dài mà nói rằng:
 
- Từ một cái khố rách chuột cắn, con đã lầm đường đi một bước quá xa 
đến cái lâu  đài này, ngược với những điều gì ta đã dạy con tu học nhằm 
để giải thoát và giúp  người giải thoát. Chùa lớn nguy nga thì phải lo 
tu bổ coi sóc, tín đồ đông thì  ồn ào, hỗn tạp, được phước thì thời giờ 
đâu nữa mà tu học.
 
 Nhân vật trong chuyện chính là thiền sư, người kể chuyện:
 
 "Người
tu sĩ đó là tôi, tôi đã từ bỏ hết để theo thầy lên non học đạo, và  nay
tôi áp dụng nó (đoạn tuyệt tài sản) để chữa mọi bệnh nan y trong tu 
viện này…"
 
 Bây giờ người ta không còn xây chùa trên núi, 
xây chùa trên núi thì thanh tịnh,  dễ tu tập, nhưng không nhiều thiện 
nam tín nữ và khách vãng lai. Ông Trạng  Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mỉa mai: “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”, nhưng bây  giờ đi tìm nơi vắng vẻ quả là dại, thà cứ theo chân “người khôn người tới  chốn lao xao”.
Khi chùa nằm giữ phố thị, chợ búa rộn ràng thì tiếng chuông sẽ bị 
ngăn giữ  giữa phồn hoa tục lụy, có khi chùa lại không được đánh chuông.
Khi thầy bận rộn  đa đoan với năm bảy ngôi chùa, với sổ sách chi thu, 
với suy tính, nợ nần vừa ân  nghĩa, thương ghét thường tình thì khó nói 
chuyện tu học. 
 
 Ngày xưa khi đức Phật tìm ra chánh pháp, nếu 
muốn, vua Tịnh Phạn sẽ cung cấp cho  Người xa mã, tiền hô, hậu ủng, và 
xây dựng hằng chục ngôi chùa nguy nga tráng lệ,  sơn son thiếp vàng cho 
Người hành đạo, đâu có phải lê đôi dép mòn qua hàng nghìn  dặm đường gai
góc, nắng cháy hay sương tuyết.
 
 Tôi là người của thế kỷ trước 
đi lạc tới đây. Vì sao cứ nghĩ chùa phải là chùa  Long Giáng của Hồn 
Bướm Mơ Tiên, chùa phải là chùa làng của Vang Bóng Một Thời,  hay mơ 
màng đến cảnh chùa Hàn San, trong lời thơ không thấy rõ cảnh chùa, chỉ  
nghe tiếng chuông chùa vọng lại.
Chúng ta đánh mất nhiều thứ, trong đó có cả một tiếng chuông chùa. 
Xin cho tôi  tìm lại một chút tuổi thơ và cả tiếng chuông chùa ngày ấy.
 
Tôi đã đi trên những đoạn cuối của con đường đời, vẫn muốn có những 
giây phút  tần ngần đứng lại, nhìn về quá khứ tưởng như đã mờ nhạt, 
nhưng làm sao có được  một vài giây phút như Hồ Dzếnh để:
 
 Chân đi đếm tiếng chuông chùa,
 Tôi ngờ năm tháng ngày xưa lại về…
 
 Trích từ "Hạnh Phúc Xót Xa" của Huy Phương, xuất bản tại California,  USA tháng 10-2010