Do đó những lần ra Hà Nội dự Đại hội
Phật giáo hay Đại hội Mặt trận Tổ quốc Trung ương tôi đều tìm cách đến chùa
Quán Sứ hầu thăm sức khỏe Hòa thượng. Mặc dù cuối năm 2001 thân tứ đại của Ngài
bị bệnh duyên chi phối, nhưng tay Ngài không rời tràng hạt hổ phách, mỗi hạt
chuỗi lần qua là một câu niệm Phật, khi đi cũng như khi ngồi. Được biết thường
nhật Ngài luôn luôn an trú chính niệm, ít khi đi lại nếu như không có việc cần
thiết. Hành trang của Hòa thượng rất tương ứng với câu: “Bớt nói một câu chuyện,
niệm nhiều một câu Phật, dập tắt hết vọng niệm, chơn tâm ấy hiện tiền”. Những
gì Hòa thượng đang thực hiện, cũng là việc làm của chư Tổ hàng trăm năm về
trước. Tuy ngày nay Hòa thượng đã xả bỏ báo thân, nhưng âm của một đời “Thanh
bần phạm hạnh” sẽ gắn chặt suốt hành trang trong tâm linh của thế hệ “con cháu”
kế thừa.
Do phẩm hạnh và đạo đức của Hòa thượng,
nên năm 1981, sau khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã được
Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt
Nam chỉ định Hòa thượng giữ chức trụ trì Tòng Lâm Quán Sứ. Đây là trụ sở của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tháng 11 năm 1983, Hòa thượng được Hòa
thượng Đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận giáo sắc làm Chánh Thư ký Hội đồng
Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, và cũng trong năm này Thành hội Phật
giáo thành phố Hà Nội cung thỉnh Hòa thượng giữ chức vụ Trưởng ban Trị sự kiêm
Trưởng ban Tăng sự đến tháng 9-2002.
Tháng 11 năm 1992, Đại hội đại biểu
Phật giáo toàn quốc lần thứ III suy cử Hòa thượng lên ngôi Phó Pháp chủ kiêm
Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc
lần thứ IV vào tháng 11 năm 1997 (1997-2002) và Đại hội đại biểu Phật giáo toàn
quốc kỳ V (2002-2007) đã suy tôn Hòa thượng lên ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng
minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời tu hành và hóa đạo
của Hòa thượng, dù ở cương vị nào, Hòa thượng luôn thể hiện tâm đức của người
con Phật “xuất trần thượng sĩ” hành trì Giới Định Tuệ, chú tâm tỉnh giác, thu
nhiếp tam nghiệp thân, khẩu, ý”... phụng sự trang nghiêm Tam bảo.
Thường nhật, Ngài rất ít nói, nếu phải
nói thì Ngài cũng chỉ nói ít lời về những công việc cần làm. Hòa thượng luôn
kiên định, thầm lặng, suy tư tìm những phương pháp thích nghi, góp ý chỉ đạo, khuyến
tấn tứ chúng thực hiện những định hướng Giáo hội đã vạch ra để phụng sự “Đạo
pháp và Dân tộc”. Ngài cũng thường nói với Phật tử: “Mọi việc chúng ta làm là
để nhằm góp phần làm cho Phật pháp ngày thêm ngời sáng, tỏ rạng viên minh, đồng
thời điểm tô tấm gương đại từ bi của Đức Phật ngày càng tươi sáng, đẹp hơn
trong tâm trí và cuộc sống nhân sinh”.
Sanh, già, bệnh, chết, hay sanh, trụ,
dị, diệt, thành, trụ, hoại, không là quy luật muôn đời của các pháp hữu vi, vạn
vật và con người. Thân tứ đại của Hòa thượng cũng thế, cuối năm 2001, Hòa
thượng bị bệnh duyên chi phối, khi bệnh duyên thì Hòa thượng cũng tăng sức an
trú nhiếp phục. Mặc dù bệnh trạng chi phối trầm trọng, nhưng Ngài vẫn an nhiên
vắng lặng. Được quý vị thị giả cho biết: hàng ngày, Ngài vẫn niệm Phật, giữ
chánh niệm, chú tâm tỉnh giác trước sự mòn mỏi của huyễn thân tứ đại.
Rồi cái gì đến cũng sẽ đến, công đức
hóa thân viên mãn, Hòa thượng Đệ nhị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã
thu thần thị tịch vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 6-3-2005 tức ngày 26-1-Ất Dậu.
Cây “thạch trụ tòng lâm” đã đổ, để lại hàng tứ chúng Tăng Ni trong và ngoài
nước niềm kính thương vô hạn.
Trong những ngày tang lễ, tôi đã ra Hà
Nội đảnh lễ Kim quan Ngài và thực hiện trách nhiệm của mình cùng quý Hòa
thượng, Thượng tọa trong Ban tang lễ, đón tiếp các phái đoàn Phật tử, ngoại
giao, lãnh đạo trong và ngoài nước và các tỉnh lân cận về dâng hương lễ bái
trước Kim quan Hòa thượng. Trong những ngày Kim quan của Hòa thượng quàn tại
Tòng Lâm Quán Sứ, đủ các tầng lớp người đến dâng hương: Phật tử, nhân dân, lãnh
đạo và quý vị lãnh đạo các tôn giáo bạn, thấy mọi người từ giã Ngài với niềm
thương tiếc.
Ngày 13-3-2005 tức ngày 04-02- Ất Dậu
là ngày cung tiễn Kim quan Hòa thượng nhập Tháp tại Tổ đình Bồ Đề, thuộc phường
Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Trời chưa sáng, Phật tử trong cũng như
ngoại thành đã vân tập về chùa Quán Sứ đông
đặc cả trong lẫn ngoài, tiếng niệm Phật cầu nguyện của quý cụ già vang dội cả
sân chùa, thêm vào đó, tiếng còi, tiếng xin tránh đường của các em Gia đình
Phật tử và ban trật tự đang chen chúc để đưa quý vị lãnh đạo Trung ương, thành
phố và các tôn giáo bạn vào vị trí hành lễ.
Đúng tám giờ, ba hồi chuông trống Bát nhã được chư Tăng
thực hiện, Lễ truy niệm được cử hành. Sau Lễ truy niệm, Kim quan của Hòa thượng
được từ từ di chuyển ra khỏi chùa Quán Sứ, an trí trên một cỗ xe kết hoa, cờ,
phướn... được quý Phật tử trang phục theo lễ nghi, cung tiễn xe an trí Kim quan
về hướng Tổ đình Bồ Đề.
Tiễn đưa Kim quan có quý Hòa thượng,
Thượng tọa giáo phẩm Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự cùng quý vị lãnh
đạo chánh quyền, Mặt trận, Tôn giáo Trung
ương và thành phố Hà Nội. Tiếng niệm
Phật cầu nguyện của quý Phật tử hai bên đường tiếp nối vang lên cả khu phố nơi
Kim quan chuyển đến.
Mặc dù trời rất rét, dòng người tiễn
đưa nghẹt cả lòng đường, các xe cộ di chuyển đều phải dừng lại, hoặc chuyển
sang đường khác, tiếng niệm Phật của quý cụ vang lên cả khu phố khi Kim quan
Ngài di chuyển. Đặc biệt hai bên đường phố từ Quán Sứ đến Tổ đình Bồ Đề, Phật
tử và nhân dân chen chúc đứng hai bên đường phố, mũ khăn cầm tay tỏ lòng tôn
kính với Hòa thượng, thỉnh thoảng có những gia đình thiết hương án bên lề đường
trước nhà, hương trầm nghi ngút. Một đám tang được người tiễn đưa đông đảo
như thế này chưa từng có.
Hòa thượng Thích Tâm Tịch, Đệ nhị Pháp
chủ là vị lãnh đạo tối cao trong Phật giáo. Đời sống của Hòa thượng rất bình
dị, Ngài không dùng giáo quyền để điều hành Tăng Ni Phật tử phải tuân thủ như
thế này hoặc như thế khác, cũng không dùng danh lợi mua chuộc một ai. Hòa
thượng tuy quản lý nhiều cơ sở tự viện tại thủ đô, cũng như ở các tỉnh, Hòa
thượng khuyên tứ chúng có trách nhiệm luôn phải hòa nhã, hòa mình cùng mọi
người chung quanh, cùng xây dựng xóm làng. Tự bản thân Hòa thượng noi gương chư
Tổ tấn tu đạo hạnh, nghiêm trì giới đức làm gương cho hậu thế.
Mặc dù huyễn thân của Hòa thượng không
còn, nhưng hình ảnh đĩnh đạc của Hòa thượng, cũng như những lời nói của Hòa
thượng đã khắc sâu vào tâm khảm của con và Tăng Ni Phật tử Việt Nam.
Cầu nguyện Giác linh Hòa thượng cao
đăng Phật quốc.
Chúng con nguyện noi theo gương sáng
của Hòa thượng và hạnh nguyện của Ngài để phụng sự “Đạo pháp và Dân tộc”.
Nam mô Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật.