I. Bốn Chúng Đại Đệ Tử
Trong thực tế, đệ tử Phật
số đã chứng quả có 1.255 vị, nhưng trong các kinh thường nêu con số tròn là
1.250 vị. Với số Thánh đệ tử Phật, bậc gương mẫu tiêu biểu đặc thù có 10 vị,
gọi là 10 đại đệ tử, hay gọi cho gọn là Thánh chúng, như phần trước đã trình
bày. Ngoài ra trong hàng tứ chúng xuất gia và tại gia cũng còn có nhiều vị rất
đặc biệt.
a) Chúng Tỳ Kheo
1. Ba Ca Ly: Tín tâm đệ
nhất
2. Bà Kỳ Sa: Thí tài đệ
nhất
3. Bạc Câu La: Không bệnh
đệ nhất
4. Ca Ly Hào Ðà Tử Bạt Ðề:
Tánh quý đệ nhất
5. Ca Lưu Ðà Di: Giao tế
đệ nhất
6. Câu Hy La: Bác giải đệ
nhất
7. Chu Ly Bàn Ðà Già: Giải
thoát đệ nhất
8. Câu Sát Ðà Na: Hạnh vận
đệ nhất
9. Kiếp Tân Na: Giáo hội
Tỳ kheo đệ nhất
10. Kiều Trần Như: Pháp
lạp đệ nhất
11. La Cưu Sất Ca Bạt Ðề:
Mỹ ngôn đệ nhất
12. Ly Bà Ða: Thiền định
đệ nhất
13. Ma Ha Bàn Ðề: Vô
trưởng đệ nhất
14. Nan Ðà Ca: Giáo hội ni
chúng đệ nhất
15. Tần Ðầu Lô: Sư hống đệ
nhất
16. Tô Na Khảo Lỵ Tỳ Sa:
Tinh tấn đệ nhất
17. Tư Bá Ly: Sở đắc đệ
nhất
18. Ưu Lâu Tần La Ca Diếp:
Lãnh chúng đệ nhất
19. Ưu Bà Ly: Ký ức đệ
nhất
20. Văn Nhị Bách Ức: Mỹ âm
đệ nhất
b) Chúng Tỳ Kheo Ni.
1. Ba Sắt Già La: Trì luật
đệ nhất
2. Bạt Ðà Nhã Ðà La: Tiệp
tuệ đệ nhất
3. Chi Già La Ma Ða: Tín
tâm đệ nhất
4. Cổ Câu La: Thiên nhãn
đệ nhất
5. Kế Ma: Trí tuệ đệ nhất
6. Liên Hoa Sắc: Thần
thông đệ nhất
7. Ma Ha Ba Xà Ba Ðề: Pháp
lạp đệ nhất
8. Nan Ðà: Thiền định đệ
nhất
9. Pháp Dữ: Thuyết pháp đệ
nhất
10. Tô Ma: Tinh tấn đệ
nhất
c) Chúng Ưu Bà Tắc
1. Chất Ða: Thuyết pháp đệ
nhất
2. Kỳ Bà: Y bộ đệ nhất
3. Nan Cưu La: Tín thất đệ
nhất
4. Tu Ðạt: Bố thí đệ nhất
5. Tu La Am Bà Ða: Bất hại
tín tâm đệ nhất
6. Úc Ca: Cúng dường đệ
nhất
d) Chúng Ưu Bà Di.
1. Ca Ðế Nhỉ: Tín ngưỡng
kiên cố đệ nhất
2. Ca Ly: Truyền Tam bảo
đệ nhất
3. Tu Bỉ Ða: Khán bệnh đệ
nhất
4. Tỳ Xá Khư: Bố thí đệ
nhất
5. Uất Ða La: Ða văn đệ
nhất
II. Những Đệ Tử Đặc Thù Của Phật.
Qua 4 chúng đệ tử Phật, cơ
sở đắc đặc thù nêu trên đang được trình bày chi tiết về cuộc đời và đạo nghiệp
của các vị, để Phật tử được thấy rõ và noi gương. Nhưng tư liệu lưu lại rất
hiếm chưa đủ để viết lại một cách đầy đủ. Tuy nhiên, trong số trên có 8 vị
tương đối có tư liệu cần được ghi lại như sau:
1/ Chu Ly Bàn Ðà Già (Suddhi
panthaka)
Chu Ly Bàn Ðà còn được gọi
là Cung Thác Bán Ca, ông và Ma Ha là hai người sinh đôi, và cả hai đều xuất gia
1 lần.
Ma Ha là người thông minh,
khôn lanh, ngược lại Chu Ly rất ngu muội chậm lụt, nhưng rất mực ngay thẳng,
thật thà. Vì thế, Phật thương Chu Ly hơn Ma Ha. Vì lòng ganh tỵ, so bì, cho là
Phật không công bằng, Ma Ha ghét Chu Ly thậm tệ. Một Hôm Phật đi du hóa xa, Ma
Ha đánh mắng Chu Ly là kẻ đần độn, học hành không tiến bộ, không xứng đáng là
bậc Đạo sư ba cõi trong tương lai. Ma Ha nhất quyết buộc Chu Ly phải hoàn tục
ra khỏi Tăng đoàn, vì vừa yếu đuối, vừa không đủ lý luận để biện minh cho cá
nhân, Chu Ly bèn xách gói ra khỏi Tinh xá, ngồi khóc bên vệ đường đợi Phật về
để xin được phán quyết. Trên đường du hóa trở về, Phật thấy nhiều Tỳ kheo vây
quanh an ủi vỗ về, khuyên Chu Ly đừng khóc.
Phật hỏi lý do, Chu Ly
bạch:
- Bạch Thế Tôn! Ma Ha đã
hết lòng dạy dỗ con nhưng vì chậm lụt, ngu muội, học mãi một bài kệ mà con vẫn
không thuộc. Ma Ha cho con là người không có Trí tuệ để tiếp thu giáo pháp
nhiệm mầu của Phật. Về sau, không đủ tư cách đi đó đây truyền bá giáo pháp của
Như Lai làm Thầy 3 cõi. Vì thế, Ma Ha quyết định đuổi con ra khỏi Tăng đoàn,
trở về thế tục lo việc sinh nhai. Nhưng với nguyện vọng quyết tâm xuất gia cầu
đạo, con không thể trở về thế tục. Con ngồi đây đợi Thế Tôn về, để bày tỏ nguyện
vọng xuất gia và xin Phật rộng lượng tiếp độ. Với lượng từ ái cao cả, Phật an
ủi Chu Ly rằng:
- "Ông không nên thất
vọng, khóc lóc, thối chí, ở đời có người thông minh, nhưng cũng lắm người chậm
lụt, mấy ai sinh ra là liền thông hiểu mọi vấn đề, ai cũng phải qua thời gian
rèn luyện, có công mài sắt có ngày nên kim. Con người ai cũng có sãn ngọc quý
trong người, nhưng nếu không rèn luyện dũa mài, thì ngọc vẫn không sáng, trở
thành vô dụng.
Hơn nữa người ngu mà biết
mình ngu sẽ là người có trí, còn người có trí rồi tự hào, kiêu mạn, không chịu
ôn luyện, tiếp tục dũa mãi sẽ trở thành lạc hậu, ngu si, và có thể tạo nhiều
tội lỗi. Lâu nay ông tự biết mình ngu thì đâu phải là người ngu, ông chớ vội
thất vọng. Ông hãy ráng tu luyện có ngày ông sẽ thành công, ông hãy đứng lên,
tháp tùng Tăng đoàn cùng ta trở về Tinh xá Kỳ Viên.
Ðể giúp cho Chu Ly đập phá
được vỏ ngu tối thấp lên ánh sáng Trí tuệ sẵn có trong người. Phật giao Chu Ly
cho A Nan lo việc giáo dục. Ðể tránh mặc cảm, chán nản cho Chu Ly, Phật còn bảo
A Nan nên kiên trì, mềm mỏng, tìm biện pháp thích nghi trong công tác dạy bảo.
Với Chu Ly không cần thuyết giảng tràng giang. Chỉ cần thuyết giảng một bài kệ
là đủ. Sau 1 thời gian A Nan không kiên trì nổi, dẫn Chu Ly đến trả lại Ðức
Phật. Vì chỉ mỗi một câu kệ Chu Ly cũng không thuộc nổi. A Nan cho Chu Ly là
người đã mất trí.
Với lòng đại bi, bao la,
Phật đích thân dạy bảo Chu Ly, Phật phân cho Chu Ly công tác quét dọn Thiền
đường, lau chùi bụi dơ. Phật bảo Chu Ly hằng ngày vừa làm công tác, vừa đọc bốn
chữ "phủi bụi, trừ dơ" (Phất trần trừ cấu). Ðể giúp cho Chu Ly thuộc
4 chữ, Phật đã kết hợp việc làm với ý nghĩa của câu kệ. Thế nhưng hết ngày nọ
qua ngày kia, tháng này qua tháng khác, Chu Ly rất mực chu đáo công tác, nhưng
câu kệ 4 chữ Chu Ly không sao thuộc nổi, học trước quên sau, giống như người
đảng trí. Tăng đoàn đều cho Phật hoài công, bỏ phí không biết bao thời gian để
dạy bảo kẻ ngu đần. Trong đời có biết bao người trí, đáng lý Phật nên giáo hóa
để Tăng đoàn ngày càng đông đảo hơn, việc hóa đạo có nhiều lợi ích hơn. Do đó,
các Tỳ kheo thường theo Chu Ly để chọc ghẹo, chễ diễu, đã bị Phật quở trách,
Phật dạy:
- Khi mạn là một trần cấu,
đáng được gột rửa. Ðại chúng nên hỗ trợ cho Chu Ly bằng cách khi thấy Chu Ly
làm công tác thì hãy đọc: "phủi bụi, trừ dơ", để khai mở tâm trí cho
Chu Ly. Từ đó, mỗi lúc nghe Chu Ly đọc "phủi bụi, trừ dơ" các Tỳ kheo
đều lớn tiếng đọc theo vang dội cả Tinh xá.
Ðúng là: "Có công mài
sắt có ngày nên kim" nhờ vừa chăm chỉ làm, học, vừa được Phật và Tăng đoàn
chiếu cố hỗ trợ qua 6 năm Chu Ly không những thuộc câu kệ mà còn bừng ngộ được
ý nghĩa nhiệm mầu của câu kệ, Chu Ly nghĩ rằng:
- Bụi dơ đâu phải chỉ có ở
Thiền đường, ngoài sân, trên mặt bàn, trên sự vật. Trong tâm con người cũng có
nhiều bụi dơ. Với bụi dơ bên ngoài, bám chặt sự vật, chúng ta dễ thấy và rất dễ
lau chùi. Còn bụi dơ trong tâm mới thật khó thấy, khó chùi rửa cho sạch, vả lại
còn có nhiều thứ hơn. Ðó là các phiền não, tham, sân, si, áo, mạn, nghi, tà
kiến v.v... Trừ sạch được các bụi dơ đó mới thật là khó, phi người kiên trì và
đầy đủ Trí tuệ thì không thanh trừ nổi.
Nhờ đó, trong hiện thế,
Chu Ly đã trừ sạch được trần nghiệp và hoàn toàn thanh thoát. Chu Ly thấy cuộc
đời con người luôn luôn bị ái nhiễm ràng buộc mà phải vào sinh ra tử, chịu sự
luân hồi. Với chí xuất trần thượng sĩ, người xuất gia phải kiên trì giới luật,
trừ bỏ tâm ái dục để tỏ lòng thanh thoát xứng đáng là bậc Đạo sư của nhân
thiên. Qua thời gian rèn luyện, Chu Ly phủi sạch được 3 độc tham, sân, si từ
trong đáy lòng. Trước ngũ dục Chu Ly không động tâm, không ý niệm phân biệt hận
thù, ganh ghét đố kỵ, tâm nhập với lý pháp giới bình đẳng, dứt hết vô minh,
hoàn toàn Giải thoát. Ðể nhờ Phật ấn chứng, Chu Ly đến trước Phật bái yết và
trình bày sự biểu ngộ. Phật tán thán Chu Ly, Phật tập họp đại chúng và dạy
rằng:
- Này các Tỳ kheo! Người
đọc tụng hàng ngàn quyển kinh nhưng không hiểu ý nghĩa của kinh cũng không theo
ý kinh để hành trì, ích lợi không bằng chỉ đọc một câu kệ mà thấu rõ nghĩa lý
và quyết tâm hành trì. Chu Ly Bàn Ðà Già trước đây rất ngu muội, nhưng nhờ
quyết tâm thọ trì một câu kệ ngắn mà được nhập chứng. Chu Ly là một tấm gương
sáng cho tất cả noi theo trên bước đường tìm cầu đạo lý nhập Thánh, siêu phàm.
Dù đã chứng Thánh, đạt
được danh hiệu GIẢI THOÁT ÐỆ NHẤT, nhưng ngày ngày Chu Ly Bàn Ðà Già vẫn tiếp
tục công việc quét dọn Thiền đường, quét dọn rác rưởi ngoài sân, và lau chùi
bụi dơ ở các vật dụng, trong lúc tay quét dọn, miệng vẫn đọc câu kệ "Quét
bụi, trừ dơ".
2/ Kiều Trần Như
Sau khi Thái tử Tất Ðạt Ða
quyết bỏ cuộc sống vinh hoa, vào rừng sâu xuất gia tìm đạo, vua Tịnh Phạn sai
hai đại thần đi thuyết dụ Thái tử trở về. Không thể lay chuyển được chí hướng
của Thái tử, hai vị đại thần đành trở về chiêu mộ người muốn tìm đạo, theo phù
trợ cho Thái tử. Trong số 5 người phát tâm theo Thái tử tu khổ hạnh tại núi Dà
Xa, xứ Ba La Nại có Kiều Trần Như là người nhiệt tình cầu đạo hơn cả.
Kiều Trần Như là người
theo Phật đầu tiên do đó được thành vị Thánh chúng có PHÁP LẠP ÐỆ NHẤT.
Khi chỉ thấy khổ hạnh làm
cho cơ thể suy nhược, tinh thần hết minh mẫn, Phật ra khỏi rừng khổ hạnh dùng
bát sữa của mục nữ Tu Xà Ðề, xuống sông Ni Liên tắm gội rồi trở lại thuyết dụ
nhóm Kiều Trần Như trở về con đường Trung đạo, may ra mới có thể chứng thành
Thánh quả. Kiều Trần Như cho là Phật đã thối chí, nên không theo và tiếp tục
lối tu ép xác, ngày ăn một hạt đậu hoặc một hạt mè v.v...
Vì có thành kiến từ trước,
khi nghe Phật trở lại rừng khổ hạnh để thuyết pháp cho nhóm của ông. Kiều Trần
Như tính kế không tiếp đón. Nhưng với dung mạo oai lực của Phật, Kiều Trần Như
thay đổi thái độ, từ lạnh nhạt qua tôn kính.
Sau khi nghe Phật thuyết
giáo, Kiều Trần Như khai mở Trí tuệ, nhận chân sự cố chấp kiến là chướng đạo.
Sống ở đời say đắm theo lạc thú vật chất, con người sẽ sa đọa vào con đường tội
lỗi. Trái lại tu theo pháp khổ hạnh, khiến cơ thể suy nhược, tinh thần rối
loạn, không còn minh mẫn. Bởi thế, trên con đường hành đạo cần tránh hai thái
cực. Chỉ có con đường Trung đạo mới đạt được Giải thoát, khỏi luân hồi, sinh,
già, bệnh, chết. Qua sự chuyển bánh xe Chánh pháp lần đầu của Phật, Kiều Trần
Như và các Đạo sĩ đồng hành, biết rõ con đường Trung đạo qua pháp Bát chánh. Ðó
là hiểu biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành động chân
chính, mưu sinh chân chính, siêng năng chân chính, nhớ nghĩ chân chính, định
tâm chân chính.
Tám pháp chân chính là con
đường đưa chúng sanh đến cảnh Tịch diệt Niết bàn.
Ngược lại cuộc sống buông
trôi theo tham ái giận hờn, si mê, đó là nguyên nhân chúng sinh đến 3 cõi 6
đường chịu nhiều khổ não.
Các khổ não mà chúng sinh
phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi, đó là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Rộng
hơn đó là sinh, già, bệnh, chết, ân ái, xa lìa, oán thù gặp gỡ, mong cầu không
được và thân Ngũ ấm không được điều hòa.
Nói ngược lại một cách
khác hơn đó là 4 chân lý: Khổ, Tập, Diệt và Ðạo.
Với 4 chân lý qua lần
chuyển pháp đầu tiên của Phật, Các Đạo sĩ khổ hạnh và nhất là Kiều Trần Như đã
rõ:
- Ðó là khổ, vì hay bức
não
- Ðó là tập, vì hay chiêu
cảm
- Ðó là diệt, vì có thể tu
chứng
- Ðó là đạo, vì có thể tu
tập
Và
- Vì nó là khổ, chúng ta
cần phải biết
- Vì nó là tập chúng ta
cần phải trừ
- Vì nó là diệt chúng ta
cần phải chứng
- Vì nó là đạo chúng ta
cần phải tu học
Kiều Trần Như thấy cần
phải theo gương Phật, vì:
- Ðó là khổ, Phật đã biết.
- Ðó là tập, Phật đã trừ.
- Ðó là diệt, Phật đã
chứng
- Ðó là đạo, Phật đã tu.
Sau khi nghe Phật chuyển
pháp luân lần đầu, Kiều Trần Như và các bạn đồng hành phát nguyện bỏ lối tu khổ
hạnh và xin làm đệ tử Phật. Kiều Trần Như đã có công lập thành Giáo đoàn đầu
tiên của Phật. Kiều Trần Như cũng tinh tấn tu tập và trở thành Thánh đệ tử
Phật, có Pháp lạp đệ nhất.
3/ Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp
(Urivilia Kasyapa)
Tại xứ Ưu Lâu Tần Loa,
nhân dân đa phần theo đạo thờ lửa, thủ lãnh là ông Ca Diếp. Ðể tránh lẫn lộn
với Ca Diếp, thủ lãnh Tăng đoàn của Phật, Tăng đoàn ghép tên địa phương với tên
người gọi ông là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Urivilia Kasyapa).
Ba anh em ông Ca Diếp có
nghe danh Phật nhưng thường tuyên truyền là Phật không bằng mình, kể cả đạo
Phật không bằng đạo thờ lửa. Ông cho thần lửa là hơn hết, lửa nấu chín thức ăn,
lửa soi sáng đêm trường, lửa xua đuổi thú dữ, cọp beo... Ai cũng thừa hưởng ân
huệ của thần lửa. Phật cũng nhờ lửa để có thức ăn chín, tránh thú dữ, lạnh lẽo
lúc đêm khuya ở chốn sơn lâm.
Khi nghe tin Phật sắp đến
giáo hóa ở xứ Ưu Lâu Tần Loa, ba anh em ông Ca Diếp chuẩn bị cách đối phó nếu
cần thì sát hại Phật nhân thể. Phật tính phương án muốn giáo hóa nhân dân bỏ
đạo thờ lửa trước hết hãy chinh phục cho được vị thủ lãnh của đạo đó. Vì thế,
Phật giả là một khách lữ hành lỡ đường, xin vào tá túc tại nhà của ông Ca Diếp.
Dù với hình dáng của dân thường, Ca Diếp vẫn biết kẻ lữ hành là Phật Thích Ca.
Ðể hại Phật, Ca Diếp cho Phật ngủ vào phía sau đền, trong kho chứa vật dụng thờ
lửa, nơi có nhốt 4 con độc long. Người và thú tuy có hình tướng khác nhau,
nhưng đều có đức tính đại bi đồng thể. Người và vật dù ác đến đâu trong lòng
vẫn chưa tiêu hết đức tính Từ bi, do đó, với đức tính hiền từ của Phật độc long
trở nên cảm mến và không phun độc ám hại Phật.
Ðêm đó, Ca Diếp tin là
Phật đã bị độc long phun lửa ám hại. Bởi thế, lúc trời chưa sáng, Ca Diếp đến
mở cửa đem xác Phật đi chôn để phi tang. Vì ngại dư luận xôn xao trong ngày đại
lễ của đạo thờ lửa, dân chúng sẽ kéo đến đông đảo lúc bình minh. Biết ý Ca Diếp
Phật ẩn mình vào chỗ kín. Sau buổi lễ, Ca Diếp thu dọn dụng cụ vào kho. Khi vừa
mở cửa kho Ca Diếp thấy Phật từ từ bước ra cửa. Rất đổi ngạc nhiên Ca Diếp hỏi
Phật vì lý do nào Phật không bị độc long ám hại. Phật từ tốn giải thích đạo lý
đại bi đồng thể giữa người với vật. Khi hai đức từ gặp nhau thì điều ác tan
biến. Ngược lại với ác đối đầu, thì điều ác sẽ gia tăng, nóng giận gặp nóng
giận như lửa đổ thêm dầu, lửa nóng giận sẽ bừng cháy, đốt hết sự nghiệp đã có
trong nhiều đời, cả thế gian sẽ trở thành tro bụi.
Trong các thứ lửa, lửa
tham, sân, si, tự phụ, kiêu căng... là thứ lửa dữ hơn cả thứ lửa ở trong thế
gian.
Nhân cuộc gặp gỡ này, Phật
phân tích nguồn gốc lửa trong thế gian cho Ca Diếp nghe.
- Theo Phật lửa có sẵn
trong thiên nhiên, khi hai sự vật ma xát nhau mạnh, lửa phát sinh. Khi âm dương
va chạm nhau mạnh lửa sấm sét sẽ phát sanh, gặp cây cây sẽ cháy gãy, gặp người
người sẽ chết thiêu. Hai hòn đá va chạm nhau mạnh lửa sẽ phát ra, hai thanh tre
khô cưa nhau với một nắm bùi dùi ta có thể lấy được lửa để nấu chín thức ăn, soi
sáng sưởi ấm đêm trường lạnh lẽo, xua đuổi thú dữ. Qua những sự kiện cụ thể như
thế, muốn có lửa, con người chẳng cần cầu sinh ở đấng thần linh vô hình nào.
Phật còn nói lửa trần gian chưa độc hại bằng lửa tham ái, nóng giận, ngu mê,
kiêu căng... ở trong mỗi con người. Con người dẹp trừ hết lửa phiền não trong
lòng, thế gian đã an tịnh, hạnh phúc, khỏi cần bái lạy thần lửa nào khác. Cảm
phục đức Từ bi của Phật đã chinh phục độc long và quan điểm của Phật về thực tế
của lửa trong thiên nhiên. Ca Diếp liền tập hợp lại cả 500 vị đệ tử, xin bỏ đạo
thờ lửa, trở về với Phật. Nan Ðà Ca Diếp (Nada Kasyapa) và Già Da Ca Diếp (Gaya
Kasyapa) nghe tin người anh đã bỏ đạo thờ lửa theo Phật, lòng vô cùng tức giận.
Hai người đã kéo đến 500 đồ đệ để cản ngăn Ca Diếp, nhưng qua sự thuyết phục
của Ca Diếp hai ông cũng quay về theo Phật xin được xuất gia.
Từ đó về sau ba anh em ông
Ca Diếp hết lòng phổ biến đạo lý của Phật, đưa nhân dân xứ Ưu Lâu Tần Loa tôn
thờ Ðức Phật và đạo lý của Phật. Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp đã chứng Thánh quả và
trở thành bậc Lãnh chúng đệ nhất.
4/ Văn Nhị Bách Ức
Văn Nhị Bách Ức (nghe 200
ức) còn được gọi là Nhị Thông Ức Nhĩ (20 ức lỗ tai).
Ông là con một nhà đại phú
hào. Do đó ông được nâng niu chìu chuộng đủ điều. Lúc còn nhỏ, có người bồng ẳm
chân không dính đất. Bàn chân thật xấu xa kỳ dị, bởi dưới bàn chân có lông đen
mọc tua tủa từng chòm. Nhờ được giáo dưỡng chu đáo và có biệt tài, ông trở
thành một nhạc sư nổi tiếng.
Một hôm, được nghe Phật
thuyết pháp, hiểu lý Vô thường Vô ngã của cuộc đời. Văn Nhị xin theo Phật xuất
gia. Vì mong chóng thành đạo quả. Văn Nhị tu pháp môn khổ hạnh, đầu đà, ngày ăn
một bữa, luôn luôn Thiền định dưới gốc cây. Vốn con nhà sung túc, nay lại ép
xác, do chưa thích ứng với môi trường, cơ thể Văn Nhị ngày một gầy còm, gần đến
kiệt sức. Cha mẹ Văn Nhị đến thăm, thấy Văn Nhị không còn phong độ như xưa,
lòng vô cùng xót xa, hai ông bà tìm mọi biện pháp để cản ngăn lối tu khổ hạnh
và buộc Văn Nhị trở về với gia đình. Văn Nhị sắp thối chí muốn trở về với thế
tục, làm người Phật tử tại gia. Với tiền của sẵn có, Văn Nhị định thực hành
hạnh bố thí, giúp đỡ kẻ cơ cực và mong cầu phước báo ngày sau. Bởi thấy lối tu
đầu đà Thiền định đã qua thời gian dài mà không đạt được kết quả gì lại tổn hao
sức khỏe, có lẽ túc duyên không có.
Ðược tin Văn Nhị sắp hoàn
tục, Phật đích thân đến chỗ Văn Nhị đang Thiền định và thuyết hóa. Phật hỏi:
- Trước đây khi vào Tăng
đoàn ông đã dùng âm nhạc giúp ta trong việc giáo hóa, đưa người trở về với
Chánh pháp. Qua công hạnh đó ông đã tạo nhiều phước đức, nhiều người kính nể
ông. Nhưng vì muốn chứng Thánh đạo quả ông theo con đường cấp tiến bằng hạnh
đầu đà ép xác, Thiền định, vì phương pháp hóa độ, có thể chưa chuyển hóa kịp
thời với tư duy của ông. Do đó, ông đã kiệt sức. Với một nhạc sư vốn có sự hiểu
biết luật tắc của cuộc đời, ông không chiêm nghiệm được lý do để có những bước
thái quá, đến nổi phải thối tâm? Vốn có tài nghệ âm nhạc, đờn địch, nay ta hỏi
ông điều này:
- Với một cây đàn, nếu
được lên dây thật căng, tiếng đàn sẽ thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Dây đàn sẽ
đứt.
- Con nếu dây chùng thì
thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Ðàn sẽ
không kêu.
- Này Văn Nhị! Sự tu hành
cũng thế, gấp rút quá nửa đường sẽ đứt gánh. Còn giải đãi, tất yếu cũng hoài
công, không thể đạt được đạo.
Trước đây, ta cũng có thời
gian tu khổ hạnh 6 năm kết quả là kiệt sức. Do đó, ta bỏ lối ép xác và cũng
không trở lại con đường hưởng thụ vật chất, ta theo con đường Trung đạo. Nhờ
đó, ta đã thành chánh quả. Ðiều đó giống như dây đàn, lên dây vừa phải âm thanh
sẽ thanh thoát, êm tai. Vốn là một nhạc sư, lẽ nào ông không tư duy được về sự
kết hợp giữa sự tu hành với cây đàn hay sao?
Nghe Phật đem ví dụ cụ thể
giảng giải, Văn Nhị hiểu được lý Trung đạo. Rồi từ đó Văn Nhị trở lại đem âm
thanh nhạc khí tiếp tục giúp Phật du hóa. Nhờ trung hòa được phương pháp tu
tập, tâm của Văn Nhị dần dần trở lại an tịnh, thư thái...
Về sau, chẳng bao lâu Văn
Nhị chứng quả A la hán và được Tăng đoàn phong tặng là bậc Mỹ âm đệ nhất.
5/ Ma Ha Ba Xà Ba Ðề
Ðạo Phật là đạo của bình đẳng.
Phật nói "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật tử sẽ thành". Bởi
thế, theo lời khẩn cầu của Tôn giả A Nan, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề là con thứ ba
của A Noa Thích Ca Vương, vua thành Thiện Tý, nước Kosala. Bà cũng là em gái
của bà Ma Da phu nhân, là Di mẫu của Phật Thích Ca. Con của bà là Nan Ðà. Tuy
nhiên tình thương của bà dành cho Tất Ðạt Ða nhiều hơn.
Sau khi trở về thành Ca Tỳ
La Vệ thuyết pháp giáo hóa cho các vương tôn công tử và chọn người thừa kế vua
Tịnh Phạn xong xuôi, Phật rút lui trú đóng tại rừng Ni Câu Ðà, ngoài thành Ca
Tỳ La Vệ. Vì đã thấm được giáo lý Giải thoát, một hôm Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề dẫn
500 thể nữ đến rừng Ni Câu Ðà, dâng Phật hai tấm y do chính tay bà may. Phật
không nhận và đề nghị nên đem y dâng cúng chúng Tăng để được phước nhiều hơn.
Bà tỏ ý không bằng lòng. Phật đành nhận 1 tấm và tấm còn lại bà đem dâng cho
một Tỳ kheo. Nhân dịp đó, bà xin Phật được xuất gia như nam giới. Dù giáo pháp
bình đẳng ai cũng có thể thành Phật, nhưng chức năng giữa nam và nữ có khác
nhau:
Trong thực tế tiếp xúc, vì
ngại có thể sinh những điều không hay, quần chúng dị nghị, Phật chưa chấp
thuận.
Vì chí đã quyết nên dù đã
3 lần thưa thỉnh Phật vẫn chưa chấp nhận. khi trở về cung đường bà và 500 thể
nữ tự xuống tóc khoác áo cà sa, tìm phương cách xin Phật xuất gia cho bằng
được. Một hôm bà và 500 thể nữ đồng lên đường đến Tinh xá Na Ma Ðề Kiện Ni, nơi
Phật đang giáo hóa vì đường xa khi vừa đến cổng Tinh xá bà và các thể nữ đều
mệt lả, đành đồng nhau ngồi lỳ đợi cơ hội vào bái yết Phật. Tình cờ từ trong
Tinh xá ra ngoài A Nan thấy việc lạ lùng và hỏi cớ sự, bà Ma Ha trình bày ý chí
và nhờ A Nan khẩn xin Phật giúp để đạt toại nguyện. Trước ý chí tự nguyện cao
độ của Di mẫu, Phật chấp nhận cho bà và 500 thể nữ xuất gia, với 8 điều kiện,
Phật gọi là 8 kỉnh pháp:
1. Tỳ khep ni phải y chỉ
chúng Tỳ kheo mà cầu thọ cụ túc giới.
2. Tỳ kheo ni, mỗi nửa
tháng phải đến trụ xứ Tỳ kheo làm lễ thỉnh Thầy giáo thọ.
3. Tỳ kheo ni mỗi năm một
lần đến kỳ kiết hạ an cư. Nhưng nếu trong vùng không có chúng Tỳ kheo thì tuyệt
đối không được phép tự lập kiết hạ riêng.
4. Tỳ kheo ni không được
cử tội hay nói lỗi lầm của Tỳ kheo. Ngược lại, Tỳ kheo có quyền nói lỗi của Tỳ
kheo ni.
5. Tỳ kheo ni nếu phạm tội
tăng tàn phải tự mình xin sám hối trước hai bộ chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni,
trong kỳ Bồ tát hằng tháng gần nhất.
6. Tỳ kheo ni dù đã thọ
giới cụ túc lâu 100 năm, nhưng với Tỳ kheo mới thọ giới vẫn phải đảnh lễ cung
kính, vái chào.
7. Tỳ kheo ni sau mùa an
cư phải đến trước Tỳ kheo xin chỉ những việc bất xứng ý, qua mắt thấy, tai nghe
hoặc nghi ngờ.
8. Tỳ kheo ni có điều gì
cần hỏi Tỳ kheo mà nếu vì một cớ nào đó Tỳ kheo không đáp, không được gạn hỏi
thêm.
Thể theo ý Phật ngại sự
hiện diện của nữ giới trong Giáo hội có thể làm cho Chánh pháp biến thể hoặc
sớm hoại diệt, và các dị nghị khác có thể xảy ra, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nghiêm
túc chấp hành các điều giao ước. Bà trở thành Tỳ kheo ni đầu tiên trong Giáo
hội Phật giáo và chứng thành đạo quả không kém nam giới. Với hàng Tỳ kheo ni là
vị có pháp lạp đệ nhất làm gương mẫu cho hàng Tỳ kheo ni.
6/ Liên Hoa Sắc.
Thời Phật còn tại thế, tại
thành Ðức Xoa Tỳ La có một mỹ nữ sắc nước hương trời, tên là Liên Hoa Sắc, con
một Trưởng giả vô cùng sang giàu.
Lúc nên 16 tuổi Liên Hoa
Sắc lấy chồng. Sau thời gian chung sống với chồng Liên Hoa Sắc sinh một bé gái,
nhưng cảnh đời trớ trêu cha chồng chết sớm, mẹ chồng còn xinh đẹp, sinh lý còn
cường thịnh, bà dụ dỗ chồng của Liên Hoa Sắc vào con đường mất hết đạo lý, bà
còn đối xử tệ bạc với Liên Hoa Sắc, đúng là mẹ chồng nàng dâu theo thường tình.
Bà cấm Liên Hoa Sắc tiếp xúc nhiều với con bà, và xem Liên Hoa Sắc không khác
hầu thiếp của bà. Cuộc sống của Liên Hoa Sắc không khác một tớ gái trong gia
đình; quá buồn tình uất ức cùng độ, Liên Hoa Sắc trốn nhà ra đi, bỏ con lại cho
chồng, và cũng không dám trở về với gia đình cha mẹ. Lang thang đó đây kiếm kế
sinh nhai. Sau mấy năm ổn định lại được tinh thần, hương sắc phục hồi "gái
một con trông mòn con mắt". Liên Hoa Sắc tái giá với một thương gia giàu
có. Vì sự nghiệp buôn bán ngược xuôi, chồng Liên Hoa Sắc ít có ở nhà.
Nhờ có tay thương mãi
chồng của Liên Hoa Sắc làm ăn ngày một phát đạt thịnh vương... Một hôm từ thành
Ðức Xoa Thi La trở về nhà, thương gia dẫn về 1 nàng hầu trẻ đẹp. Ðể tránh xáo
trộn trong gia đình, thương gia tậu một biệt thự riêng để nàng cư ngụ. Nhiều
đêm, thương gia lấy lý do giao tế, thăm viếng bạn bè, tính kế làm ăn để đến nhà
riêng ăn ở với nàng hầu. Nghe bà con làng xóm xì xầm, Liên Hoa Sắc để tâm theo
dõi. Về sau Liên Hoa Sắc tìm được nhà riêng của chồng nơi thu giấu nàng hầu.
Vào một chiều hôm Liên Hoa Sắc lên cơn thịnh nộ, đi bắt ghen kẻ cướp chồng
mình. Khi đột nhập vào ngôi nhà riêng của chồng bắt gặp hai người đang tâm
tình.
Nhưng than ôi! Nàng hầu
của chồng chính là con gái của mình với đời chồng trước. Tâm hồn bấn loạn, Liên
Hoa Sắc ngã ra bất tỉnh. Khi tỉnh lại, lòng miên man suy nghĩ, chẳng rõ vì
nghiệp báo gì kỳ quặc đến thế. Vì trước đó, bà già cướp chồng nay chồng lại ăn
ở với con gái mình biết xưng hô bằng cách nào cho phải đạo lý luân thường. Cuộc
đời còn gì là ý nghĩa. Chán nản thế thái nhân tình, Liên Hoa Sắc quyết đi làm
gái điếm để phá hoại gia thất của các chàng sở khanh, các mụ đàn bà có máu hoạn
thư, mặt khác để mua vui và quên hết quá khứ thê thảm! Vì quá uất hận Liên Hoa
Sắc không phải chỉ chọc phá người thế tục mà muốn thử thách trêu chọc các nhà
Đạo sĩ nữa.
Một hôm, Liên Hoa Sắc đến
ẩn nấp trong 1 hoa viên nằm trên con đường Mục Kiền Liên thường đi qua vào sáng
sớm. Khi Mục Kiền Liên đi du hóa, đến cổng hoa viên, Liên Hoa Sắc đón đường ra
chọc ghẹo. Nhờ có đạo lực cao, biết đó là một gái điếm lẳng lơ định mê hoặc
mình, Mục Kiền Liên dừng lại từ tốn hỏi thăm và quyết tâm thuyết phục người dâm
nữ trở về nẻo thiện, Mục Kiền Liên nói với Liên Hoa Sắc:
- Hình sáng, diện mạo của
cô thật xinh đẹp, phục sức thật vô cùng lộng lẫy, đến nỗi nào cô không thể kiếm
được một tấm chồng giàu đẹp, có địa vị trong xã hội, mà lại đi vào con đường dơ
uế như thế này. Cô đã lún xuống bùn dơ, cô càng vùng vẫy thì càng lún sâu thêm
nữa. Cô chọc phá đời, cô tội lỗi biết chừng nào hở cô?
Biết không thể khuynh đảo
được Đạo sĩ, Liên Hoa Sắc trình bày với Mục Kiền Liên tất cả tâm sự ngày trước,
nước mắt tràn chảy và thưa:
- Thưa Đạo sĩ! Với hoàn
cảnh của tôi thật là oái oăm, khiến tôi phải tan nát cuộc đời, tạo nhiều lỗi
lầm, giờ đây biết lấy gì chuộc nổi.
Mục Kiền Liên an ủi:
- Con người khi đã ngã
xuống đất, thì phải biết chống đất mà đứng lên, thua keo này ta bày keo khác,
miễn có chí thì sẽ vượt qua tất cả. Còn nếu đã lỡ lầm tạo nhiều tội lỗi hãy
thành tâm sám hối. Ở đời có hai hạng người mạnh nhất:
- Ðó là người không tạo ra
tội lỗi.
- Người có tội biết ăn
năn, hối cải.
Muốn sạch hãy lấy nước mà
rửa, nước tràn sông, rạch, dù dơ đến đâu khi chảy ra ngoài biển cả đều trở
thành trong biếc.
Tâm hồn bất tịnh thì hãy
đem Phật pháp mà tẩy, Ðức Phật của tôi có 8 vạn 4 ngàn pháp môn rất khế lý khế
cơ, con người có thể tùy theo hoàn cảnh, khả năng, để chọn pháp môn tu tập. Mọi
chúng sanh đều sẵn có Phật tánh trong tâm, dù phiền não, lỗi lầm che khuất bao
nhiêu lớp, có quyết tâm đều sẽ chùi sạch để Giác ngộ Giải thoát, cô có thể tháp
tùng theo tôi đến trước Phật cầu phép sám hối, tu tập theo con đường chánh đạo.
Mê nhất kiếp, ngộ nhất
thời, qua lời giải thích an ủi đạo lý, Liên Hoa Sắc tỉnh ngộ, nét mặt trở lại
tươi tỉnh, xin đi theo Mục Kiền Liên và bái yết Phật.
Liên Hoa Sắc được Phật cho
phép xuất gia, trở thành Tỳ kheo ni gương mẫu, về sau Liên Hoa Sắc chứng quả A
la hán và trở thành vị Tỳ kheo ni có thần thông đệ nhất.
7/ Cư Sĩ Tu Ðạt.
Tại thành Xá Vệ nước Kiều
Tát La (Kosala) ở Tây Bắc Ma Kiệt Ðà có Trưởng giả Tu Ðạt rất giàu có thường
hay giúp đỡ người nghèo khó, cô độc. Bởi thế, người trong vùng phong tặng cho
Trưởng giả danh hiệu là Cấp Cô Ðộc.
Một hôm Tu Ðạt đến nhà
Trưởng giả Thủ La (Cùda) để dạm hỏi vợ cho con trai thứ 7. Lúc đang trao đổi
việc hôn nhân cho con, Tu Ðạt thấy trong nhà Thủ La có vẻ rộn ràng, kẻ cắm hoa,
người treo đèn, các cô các bà làm bánh trái... Tu Ðạt hỏi lý do, Thủ La cho
hay, nhà đang sửa soạn để sáng hôm sau thỉnh Phật đến nhà chứng trai. Thủ La
còn trình cho Tu Ðạt biết phong cách và giáo lý Giải thoát của Phật, Thủ La mời
Tu Ðạt lưu lại tham dự lễ cúng dường Phật.
Sau khi dự lễ trai Tăng
cúng dường Phật và chúng Tăng, Tu Ðạt theo Phật đến Tinh xá Trúc Lâm để được
nghe Phật giảng giải tường tận đạo lý của Ngài. Nghe Phật thuyết pháp cúng
dường bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy, lý Duyên sinh, nhân sinh vũ trụ,
nhân quả, nghiệp báo luân hồi... Trưởng giả hết sức tâm đắc giáo lý của Phật.
Do đó xin được quy y Phật, Trưởng giả quyết định thỉnh Phật về Xá Vệ hóa độ mọi
người. Tu Ðạt còn phát nguyện xây dựng một Tinh xá để cúng dường cho Phật và
Giáo đoàn.
Khi trở về Xá Vệ, Tu Ðạt
liền đi kiếm vườn rừng để xây dựng Tinh xá, thực hiện nguyện ước đã trình với
Phật. Quan sát khắp vùng, Tu Ðạt thấy khu vườn rừng của Thái tử Kỳ Ðà (jata),
con vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) là vừa ý hơn hết. Ông Tu Ðạt đánh bạo gặp Thái
tử Kỳ Ðà và đạt được ý định. Nghĩ là Tu Ðạt không đủ vàng để mua khu vườn, Thái
tử Kỳ Ðà ra giá, trong thời gian một ngày hôm sau, nếu Trưởng giả có đủ vàng trải
khắp khu vườn rừng thì tôi sẽ bán.
Y hẹn, sáng hôm sau, Tu
Ðạt cho người chở vàng đến lót khu vườn. Vào lúc trưa vàng đã lót cùng khắp,
chỉ còn một góc vườn, Trưởng giả bóp trán suy tư. Ðoán chắc là Tu Ðạt thiếu
vàng không còn để lót gốc vườn còn lại, Thái tử Kỳ Ðà lên giọng:
- Thế là Trưởng giả không
đủ vàng để lót đủ khu vườn rừng, sự giao ước không thực hiện trọn vẹn, tôi
không thể bán khu vườn cho Trưởng giả.
Tu Ðạt liền trả lời rằng:
- Không phải là tôi thiếu
vàng, tôi đang nghĩ là góc vườn còn lại nên lấy vàng ở kho nào, thời gian giao
ước cũng chưa hết, xin Thái tử yên chí, đợi chốc lát nữa tôi sẽ lót vàng như đã
giao ước.
Quả đúng như thế, vào lúc
xế bóng, vàng đã được trải lót đầy đủ. Thế là Thái tử tự thấy sự đùa bỡn của
chính mình đã thất bại, và suy nghĩ chắc Phật là một bậc cao siêu như thế nào
đây Tu Ðạt mới không tiếc châu báu, vàng bạc để mua cho bằng được khu vườn này.
Với vàng bạc châu báu ta cũng không thiếu gì, có lẽ ta nên hợp tác với Tu Ðạt
góp phần công đức xây dựng Tinh xá cúng dường Phật. Thái tử dẫn Tu Ðạt đến một
bóng mát bày tỏ tâm sự.
- Tôi nghĩ Phật là một bậc
siêu tuyệt, nên Trưởng giả đã không tiếc vàng để mua khu vườn này, vàng đã trải
đủ, thế là khu đất đã thuộc về Trưởng giả, còn cây cảnh trong khu vườn thuộc về
phần tôi. Do đó, tôi xin cùng với Trưởng giả, chúng ta tiếp tục công việc xây
dựng Tinh xá để kịp thỉnh Phật về Xá Vệ giáo hóa cho nhân dân. Còn với số vàng
Trưởng giả đã trải, xem như tôi đã nhận, Trưởng giả có thể thu hồi về để thực
hiện Phật sự khác. Vì như Trưởng giả đã biết vàng bạc châu báu tôi không thiếu
một thứ gì.
Thế là vườn rừng xinh đẹp
rộng rãi đã có sáng hôm sau, Tu Ðạt trở lại Tinh xá Trúc Lâm bạch Phật, hỏi
cách xây dựng Tinh xá, và xin Phật phái Thánh đệ tử nào cùng đến Xá Vệ để chỉ
đạo công trình, có cơ duyên tốt, Phật giao việc lập đồ án và chỉ đạo công trình
cho Xá Lợi Phất đảm trách. Qua sự đóng góp tài sản của Tu Ðạt và Thái tử Kỳ Ðà,
cùng với công sức của dân thành Xá Vệ, trong một thời gian ngắn. Xá Lợi Phất đã
hoàn thành nhiệm vụ được Phật giáo phó. Khi đến tiếp nhận Phật đặt hiệu là Tinh
xá Kỳ Viên. Phật và Giáo đoàn còn tán thán công đức bố thí cúng dường của Tu
Ðạt và phong tặng cho Tu Ðạt là Cư sĩ bố thí đệ nhất.
8/ Ưu Bà Di Tỳ Xá Khư. (Vasàkhà).
Trưởng giả Tu Ðạt
(Sudatta), hiệu là Cấp Cô Ðộc, có biệt hiệu như thế là do Trưởng giả luôn luôn
làm việc bố thí và hết lòng ủng hộ Phật pháp, được Giáo đoàn của Phật phong
tặng là Cư sĩ có lòng bố thí đệ nhất. Nhưng ngược lại, Trưởng giả lại có một bà
vợ vô cùng keo kiệt tên là Tỳ Xá Khư (Vasàkha) thường gọi là Lộc Mẫu.
Thấy chồng phụng sự Phật,
bà luôn luôn bày tỏ thái độ phản đối. Bà cho là ông chồng bà vướng phải bùa mê
của Phật, nên mới đem gia sản cúng dường Phật và Giáo đoàn một cách phung phí.
Khi Phật đến nhà, bà luôn tìm cách lánh mặt vì ngại vướng phải bùa mê của Phật
như ông chồng. Tu Ðạt hết lời khuyên giải và nhiều lần khẩn khoản khuyến dụ bà
đi nghe Phật thuyết pháp, bà nhất mực từ chối. Thấy gia đình Tu Ðạt không được
hòa hợp trên con đường theo Phật, Mạt Lợi phu nhân vợ vua Ba Tư Nặc, cùng với
Tu Ðạt đến hỏi Phật lý do và tìm biện pháp hóa giải. Phật cho biết là Lộc Mẫu
không có thiện duyên với Phật từ kiếp xa xưa.
Tuy nhiên, để hóa độ Lộc
Mẫu, Phật giáo giao phó trách nhiệm hóa giải tình cảm gia đình của Tu Ðạt cho
La Hầu La.
Sau một thời gian thực
hành nhiệm vụ, La Hầu La về trình Phật là đã đạt được mục đích. Lộc Mẫu đã tỏ
ra cử chỉ không chống đối việc phụng sự Tam bảo của Tu Ðạt và cũng đã giúp cho
Tu Ðạt thực hiện được nhiều công tác bố thí kẻ nghèo, cúng dường Tăng đoàn.
Thẩm tra thực hư thế nào,
một hôm Phật mang bát đi đến khất thực tại nhà Tỳ Xá Khư. Bà ta đem cơm dâng
Phật, đơm đầy bình bát, với cử chỉ vô cùng kính cẩn, thấy cơ duyên đã đến Phật
nói:
- Này Tỳ Xá Khư! Gieo 1
gặt 10, gieo 10 gặt 100 gieo 100 hạt gặt 1.000, cứ thế nhân lên, với công đức
cúng dường bát cơm này nhà người sẽ gặt được vô lượng phước báu. Rất đổi ngạc
nhiên, Tỳ Xá Khư hỏi lại:
- Bạch Phật: Kẻ ngu phụ
này không hiểu tại sao chỉ cúng có một bát cơm mà được nhiều phước báo đến thế?
- Này Tỳ Xá Khư! Phật nói,
nhà ngươi đã thấy cây đại thọ Vi Câu Ðà chưa? Cây đại thọ cành lá sum suê, bóng
mát che phủ 4,5 dặm đường và mỗi năm hạt rụng xuống đất hàng vạn Ni hạt... Thế
nhưng thuở ban đầu chỉ có một hạt nẩy mầm mà thôi. Bát cơm cúng dường của nhà
ngươi cũng giống như hạt Vi Câu đà kia.
Qua ví dụ tuy đơn giản
nhưng Tỳ Xá Khư lại hình dung ra đầy đủ ý nghĩa to lớn của sự bố thí cúng
dường. Từ đó về sau, bà ra sức khuyến hóa dân thành Xá Vệ, cùng với vợ chồng bà
thực hành hạnh bố thí, cúng dường. Bản chất keo kiệt không còn. Tỳ Xá Khư trở
thành con người hào phóng. Một hôm, bà dẫn đông đảo một số chị em đến Tinh xá
Kỳ Viên xin Phật thực hiện 8 việc bố thí. Ðể kiểm chứng thiện tâm của Tỳ Xá Khư
lúc đầu Phật từ chối, nhưng qua nhiều ngày bà hết lòng cầu khẩn, Phật chấp
nhận.
Tám việc bố thí của bà xin
được làm là:
1. Ðược cúng dường áo đi
mưa cho Tăng đoàn khỏi bị ướt khi đi khất thực, hoặc hành đạo gặp mưa gió.
2. Ðược cúng dường các Tỳ
kheo mới gia nhập Tăng đoàn, vì các vị tân Tăng chưa có uy tín, nếu việc khất
thực không được đầy đủ.
3. Ðược cúng dường vật
thực và tiền bạc cho các Tỳ kheo đi du hóa phương xa, phòng lỡ đường phải túng
thiếu.
4. Ðược cúng dường thuốc
men cho Tỳ kheo lâm bệnh phòng không chạy chữa kịp thời có thể nguy khốn.
5. Ðược cúng dường thực
phẩm thích đáng cho Tỳ kheo lâm bệnh, để bệnh chóng thuyên giảm.
6. Ðược cúng dường vật
thực cho Tỳ kheo phát tâm săn sóc bệnh nhân, vì lo cho bệnh nhân không có thì
giờ đi khất thực.
7. Cúng dường cháo cho Tỳ
kheo.
8. Ðược cúng dường áo tắm
cho Tỳ kheo ni, để khỏi trần truồng đi ra tắm ở sông, khác với các dâm nữ
thường tắm ở sông Hằng.
Thấy việc xin cúng dường
có lý do chánh đáng, Phật hoan hỷ chấp thuận và ban lời tán thán:
- Này Tỳ Xá Khư! Trước
Giáo đoàn Ta tán thán thiện tâm, thiện chí của ngươi, vì ngươi đã thấy rõ công
đức của sự bố thí cúng dường, tuy nhiên ta cũng cho người rõ thêm là nếu ngươi
không xả ly của cải, của cải cũng sẽ xả ly ngươi, vì cuộc đời là Vô thường, có
đó rồi không có, hãy cho tất cả, đem của cải ra bố thí, của cải sẽ dồi dào bền chắc
hơn, phước báu sẽ vô lượng, ở hiền gặp thì gặp lành.
Mãi về sau nhờ công đức bố
thí rộng lớn. Tu Ðạt và Tỳ Xá Khư trọn đời hưởng giàu sang và danh tiếng, Tỳ Xá
Khư cũng giống như chồng là Tu Ðạt được nhân dân phong tặng là người bố thí đệ
nhất.
Vu Lan 2532 - 1988
THÍCH MINH TUỆ (Biên
soạn).
Sách Tham Khảo
- Trường Bộ Kinh 1, 2, 3
và 4
- Trung Bộ Kinh 1, 2 và 3
- Tăng Chi Bộ Kinh 1, 2 và
3
- Tương Ưng Bộ Kinh 1, 2,
3 và 4
- Tiểu Bộ Kinh
- Ðại Tạng Tân Tu
- Trường A Hàm
- Trung A Hàm
- Tạp A Hàm
- Tăng Nhứt A Hàm
- Phật Tổ Thống Ký
- Truyền Phép Chánh Tông
Ký
- Phật Tổ Lịch Đại Thông
Tải
- Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
- Cao Tăng Truyện
- Chí Nguyệt Lục
- Thập Ðại Đệ Tử, Của Tịnh
Vân
- Thích Ca Thế Tôn, Của
Tuyết Sơn, Tạp Chí Viên Âm Số 114
- Ánh Đạo Vàng, Của Võ
Ðình Cường, Minh Ðức XB 1962
- Tạp Chí Từ Bi Âm, Hội
Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học XB.
- Phật Và Thánh Chúng Của
Cao Hữu Ðính.
- Ðường Xưa Mây Trắng, Lá
Bối XB- San Jose.
- Ðức Phật Và Phật Pháp,
Của Narada. Thành Hội PG Thành Phố Hồ Chí Minh XB 1989
- Trên Đường Hoằng Pháp
Của Phật Tổ Gotama, Của Giáo Hội PG Nguyên Thủy Biên Soạn. Thanh Mậu XB 1959.
- Kinh Bát Nhã, Của HT
Thích Trí Thủ, Quảng Hương XB 1982
- Kim Cương, Của Trí Quang
Dịch Giải, Photocoppy 1987
- Tập Văn GHPG VN Số 10,
Phật Ðản 1984, Số 7, Số 16...
- Lịch Sử Triết Học Ấn Ðộ,
Trường Ðại Học Văn Khoa Saigon, Quay Ronéo
- Triết Sử Ấn Ðộ, Của
Hoành Sơn. Hoàng Sỹ Quý
- Tam Giáo Sử Đại Cương,
Của Nguyễn Văn Hầu, Phạm Văn Tươi XB 1957
- Le Bouddha, Của H.
Cldenberg
- The Life Of The Bhudda,
Của A. Herrold
- Histoire Du Bouddhisme
Dans l'Inde, Của H.Kern Indian Philosophy, Của Bs Radnakhrisman (Cựu Tổng Thống
Ấn Ðộ)
- East Asia - The Great
Tradition, Của Edwin O. Raishaner- Folm, K. Fairbanks.
Source: daitangkinhvietnam