Phật Học Online

Thái độ của người học Phật

Học Phật cũng như học bất cứ môn học nào khác, phải tìm thấy cho được niềm vui ở trong đó, thì nhất định học Phật sẽ có kết quả. Tôi thấy có thể nói khiêm tốn: học Phật trước hết là để cho mỗi người học Phật đều trở thành một người tốt, một người thiện, lương tâm không bao giờ bị bức xúc, vì có điều suy nghĩ, lời nói và việc làm có hại cho người và xã hội, học Phật trước hết là học làm một người có ích cho đời và đạo.

Mỗi người như vậy sẽ có đời sống an vui, vì họ chỉ nghĩ, nói và làm những chuyện phúc đức, lợi tha. Nhờ học Phật mà có được một đời sống an vui. Cho nên học Phật chính là niềm vui, một niềm vui lớn.

Có lẽ vì vậy cho nên ông Khổng Tử nói “Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả” (Luận ngữ, chương “ủng giả”–đệ lục). Nghĩa là biết mà học đạo không bằng học đạo mà thấy được niềm vui ở trong đó. Và người thầy dạy giỏi không phải là ông thầy trao truyền cho học trò thật nhiều kiến thức, mà là người thầy biết tạo ở nơi học sinh niềm vui thật sự trong khi học. Muốn có niềm vui khi học tập, thì học tập phải có sáng tạo. Nhưng nếu chỉ tiếp thu một cách thụ động thì không thể có sáng tạo.

Muốn học Phật có sáng tạo và có được niềm vui lớn, thì không được một chiều đọc sách Phật, và thuộc lòng những điều ghi trong sách Phật, tuy rằng việc ghi nhớ tốt sách Phật cũng là điều đáng khen ngợi rồi.

Việc đọc và học sách Phật chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết kiểm nghiệm những điều ghi trong sách với cuộc sống, với diễn biến ở ngoài đời và ở trong thân tâm chúng ta.

Ðời sống là quyển sách, luôn trải rộng trước mắt. Thân tâm chúng ta, luôn phản ứng trước những diễn biến của đời sống bên ngoài cũng là một cuốn sách khác rất gần gũi đối với mỗi chúng ta.

Muốn học Phật có kết quả, chúng ta phải thường xuyên đọc và nghiền ngẫm sách Phật (Kinh, Luật, Luận), “sách cuộc đời” và “sách thân tâm” của chúng ta.

Thí dụ đọc kinh Pháp Cú, trong phẩm Tâm, chúng ta biết vấn đề uốn nắn tâm, điều phục tâm, phòng hộ tâm, an trú tâm là quan trọng đến dường nào, bởi lẽ đến hai bài kệ 42 và 43 của phẩm Tâm, kinh Pháp Cú cảnh báo rằng tâm nghĩ bậy còn làm hại chúng ta hơn kẻ thù hại ta; tâm nghĩ tốt, nghĩ thiện sẽ làm tốt cho ta hơn cả cha mẹ muốn làm điều tốt cho ta.

Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng tà

Gây ác cho tự thân” (Kệ 42)

Điều mẹ cha, bà con

Không có thể làm được

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn” (Kệ 43)

Ðọc kinh Pháp Cú như vậy, chúng ta đã hiểu tâm nghĩ bất thiện, nghĩ bậy, nghĩ tà tác hại đến chúng ta như thế nào, chúng ta hãy kiểm nghiệm xem, chúng ta có thể hay không, suốt ngày, luôn luôn, bất cứ ở đâu, hay làm gì điều tuyệt đối không bao giờ nghĩ bất thiện, nghĩ điều làm hại người, hại vật. Trái lại, thường xuyên nghĩ thiện, nghĩ điều tốt lành đối với mọi người, mọi vật.

Chúng ta biết, trong các thuyết về đạo đức học ở phương Tây có thuyết của Socrates cho rằng chỉ cần giảng giải cho người biết rõ như thế nào là thiện, là ác thì con người nhất định sẽ làm điều thiện, tránh điều ác. Có thể nói, yêu cầu này của thuyết đạo đức học của Socrates, đạo Phật đã đáp ứng một cách đầy đủ vớí thuyết 5 giới, 10 thiện: không làm 3 điều ác về thân là giết hại, ăn trộm và tà dâm; không làm 4 điều ác về lời nói là nói ác, nói dối, nói chia rẽ, nói lời vô nghĩa; không dung dưỡng 3 điều ác về ý là tham lam, sân hận và si mê.

Có thể nói thuyết đạo đức của Phật giáo đã phân biệt rạch ròi điều thiện với điều ác. Kinh Pháp Cú còn khuyên chúng ta tránh điều ác, siêng làm điều thiện ngay từ trong tâm của mình, ngay trong suy nghĩ.

Vậy thì điều mà chúng ta kiểm nghiệm đối với thân tâm mình, là có thể hay không, sau khi được giảng về thuyết đạo đức của đạo Phật, thân tâm chúng ta luôn luôn nghĩ thiện, nói thiện, làm thiện, luôn tránh nghĩ bất thiện, nói và làm điều bất thiện. Có thể hay không thể? Và nếu không thể thì vì sao?

Ðó là điều tất cả chúng ta phải kiểm nghiệm khi học Phật. Hãy xem trước một việc bất thiện, không nên làm, thân tâm chúng ta sẽ phản ứng ra sao. Và trước một việc thiện nên làm phản ứng như thế nào. Phải chăng chúng ta sẽ không ngần ngại, không do dự làm việc thiện và tránh việc bất thiện.

Tôi biết rằng việc này không dễ. Trong Thiên Chúa có thuyết đạo đức cho rằng do con người phạm nguyên tội từ thời Adam, cho nên trong nhiều trường hợp, chân tay không làm theo cái đầu, mà còn làm trái lại.

“Mọi người đều mâu thuẫn với bản thân vả cuối cùng với Thượng đế, bởi lẽ có một quy luật của tay chân chống lại quy luật của tâm thức của nó” (Xem “Christ vs Socrates” – Reinhold Niebuhr, chuyển dẫn từ cuốn “Towards liberal education”, tr.773).

Thuyết này của Thiên Chúa giáo được minh họa bằng câu tâm sự của Pauline: “Điều thiện mà tôi muốn làm thì tôi không làm. Điều ác mà tôi không muốn làm, thì tôi cứ làm”.

Chúng ta cũng có thể nhắc lại câu thời danh của Bertrand Russell xác định xu thế căn bản của con người là lòng tham “quyền lực và danh vọng”.

Tôi kể ra hết như vậy, để người học Phật được học thuyết đạo đức rạch ròi thiện ác, chúng ta nỗ lực nghĩ điều thiện, nói và làm điều thỉện. Tránh nói, làm điều ác, điều bất thiện.

Còn về thuyết của Thiên Chúa giáo, nói tay chân không vâng lời cái đầu, và về tâm sự bất lực của Pauline, thì người học Phật suy nghĩ thế nào?

Tôi nghĩ là đạo Phật đã có câu trả lời: Kinh Lăng Nghiêm nói tới tập khí nan trừ, tức thói quen lâu ngày khó bỏ. Sách Phật cũng khuyến cáo Phật tử phải sống như ngưòi chiến sĩ,có một nỗ lực đạo đức không ngừng. Nỗ lực đạo đức của người Phật tử có hai mặt: một mặt là tự mình phấn đấu để trở thành người hoàn thiện, một mặt nữa là hết lòng giúp đỡ chúng sinh, giúp đỡ người khác.

Hai mặt đó bổ sung và hỗ trợ nhau. Cũng như muốn tránh ác thì làm thiện. Muốn làm thiện thì tránh ác. Làm thiện tránh ác thì tâm ý mình sẽ trong sáng, tâm ý trong sáng giúp cho việc làm thiện, tránh ác được dễ dàng. Cũng như hai chuyện hướng ngoại và hướng nội của đạo Phật là bổ sung và hỗ trợ cho nhau chứ không mâu thuẫn nhau.

Nhiều người lầm, khi nghe nói đạo Phật hướng nội bèn vội cho đạo Phật là ích kỷ, là bàng quán với đời. Họ không hiểu rằng muốn giúp đỡ người khác có hiệu quả thì nội tâm người giúp phải trong sáng, thiện lành. Ðó là những điều chỉ cần qua kiểm nghiệm ở đời là thấy liền không phải bàn cãi.

Giúp người có năm bảy cách. Có thể giúp người mà làm hại người. Thí dụ có những đạo sư tà giáo tổ chức cho hàng loạt đệ tử mình tự tử tậr thể! Chuyện này đã từng xảy ra với giáo phái gọi là “Cổng Thiên đường” ở Thụy Sĩ và ở Mỹ.

Chính vì vậy mà đạo Phật khuyến cáo nỗ lực giúp đỡ chúng sinh phải đi đôi với nỗ lực hoàn thiện bản thân. Ðể giúp loại bỏ niệm ác (tức là tư tưởng ác), Phật nói là người có niệm ác không khác gì nuôi kẻ thù trong nhà, nó làm hại mình còn hơn kẻ thù làm hại mình. Trái lại người có niệm thiện, niệm lành thì niệm thiện, niệm lành đó còn giúp đỡ mình hơn cha mẹ , bà con giúp đỡ mình nữa (Xem kinh Pháp Cú, kệ 42, 43).

Ðối với người bị niệm ác ám ảnh, dày vò, sách Phật khuyên chúng ta dùng 5 biện pháp:

a) Dùng niệm thiện, đánh bật niệm ác, cũng như người thợ mộc thiện xảo dùng một niêm gỗ này đánh bật một niêm gỗ khác.

b) Xem niệm ác là một cái gì ghê tởm, như xác chó hay xác rắn, sao lại đem quàng vào cổ, mà trái lại phải vứt xa đi.

c) Ðối với niệm ác, cũng như đối với một vật xấu, chúng ta đừng nhìn nó nữa, mà nhìn sang nơi khác.

d) Hãm chậm dòng ý niệm lại, cũng như người đang chạy, chuyển sang đi bước một, đang đi thời đứng lại, rồi ngồi lại.

e) Cũng như người lực sĩ, mím chặt môi, dùng cả sức mình vứt niệm ác ra xa.

Năm biện pháp trên, có trong kinh An Trú Tầm, thuộc kinh Trung Bộ, tôi chỉ thuật lại ý đại khái, không dẫn nguyên văn. Nhưng qua lời thuật đại khái, chúng ta cũng đủ thấy Ðức Phật cũng không nói sống đạo đức là chuyện dễ dàng, không những phải cố gắng thường xuyên mà còn phải khéo léo, thiện xảo nữa.

Riêng về biện pháp thứ tư, tôi xin giải thích thêm một ít. Ðây là biện pháp chủ động làm giảm tốc độ của dòng chảy tâm thức, của dòng ý niệm.

Thí dụ có người nghĩ tới thuốc lá, vội đi tìm ngay bao thuốc, rút thuốc ra châm hút... Con người hành động như cái máy. Ở đây người học Phật nghiện thuốc, cũng sẽ không làm thế. Vừa nghĩ tới thuốc lá, anh ta sẽ không đứng dậy đi lấy bao thuốc, mà ngồi lại nghĩ tới ung thư phổi, bệnh lao, nghĩ tới chuyện tốn tiền, vợ con la rầy... Nói tóm lại , tức là hãm chuyện hút thuốc lá lại, rồi chuyển dòng ý nghĩ mình sang các chuyện như ung thư phổi, bệnh lao phổi...

Nhưng muốn làm được việc đó, thì đừng có chạy theo dòng ý niệm hút thuốc lá như một cái máy, như một người không biết suy nghĩ. Lợi ích của việc hãm chậm dòng chảy ý niệm là như vậy. Niệm ác, niệm bất chính có nhiều lắm, và còn phức tạp hơn nhiều niệm hút thuốc lá.

Nhà phân tâm học Freud nói đến sụ ám ảnh tình dục. B.Russell nói đến tham vọng “quyền lực và danh vọng”, sách báo phương Tây nói nhiều đến lòng ham muốn hưởng thụ vật chất, ý muốn tham nhũng của một số người muốn “hy sinh đời bố, củng cố đời con”... Ðối với tất cả những ý mệm ác, bất thiện có khả năng xảy ra như trên, chúng ta sẽ gắng áp dụng một trong năm biện pháp Ðức Phật dạy trong kinh An Trú Tầm.

Là người học Phật, thường xuyên được đọc sách Phật, chứa đựng những tư tưởng đẹp, thiện, lành. Những tư tưởng đó, tiếp thu vào người, tạo ra một chuyển biến nội tâm hướng thiện và hướng thượng.

Chúng ta thường xuyên gần gũi những người học Phật khác, sống theo năm giới, mười thiện đều là những gương sáng thúc đẩy chúng ta tránh ác, làm thiện. Nhiều người đều sống như vậy, thì chúng ta sẽ tạo ra cả một cộng nghiệp thiện lành. thành cả một áp lực thúc đẩy xã hội hướng thiện và hướng thượng. Tất nhiên, không tránh khỏi có ngoại lệ.

Nhưng người viết bài này rất tin ở sức mạnh bất khả kháng của điều thiện, điều lành, tin ở sức mạnh của lòng thương, lòng từ, một sức mạnh tỏa sáng một cách tự nhiên từ tấm lòng của mọi người Việt Nam trải qua nhiều đau khổ, bất hạnh, nhưng suối nguồn tình thương đó không bao giờ cạn, vẫn dồi dào thêm, sẽ làm dập tắt mọi hận thù và bất hạnh, đẩy lùi mọi tệ nạn xã hội, khai mở những trang sử mới đẹp đẽ nhất cho thiên niên kỷ mới này.

Giáo sư Minh Chi

(Bài đăng trong NSGN số 74– tháng 5 - 2002)

 

Hãy chiêm nghiệm lời Phật dạy:


“Đừng tin điều gì
chỉ vì nghe người ta nói như thế

Đừng tin vào các truyền thống
chỉ vì chúng đã được lưu truyền qua nhiều đời

Đừng tin điều gì
chỉ vì đó là dư luận trong quần chúng

Đừng tin điều gì
chỉ vì thấy nó được ghi chép
trong kinh điển của tôn giáo mình

Đừng tin điều gì chỉ vì căn cứ vào uy tín
của các bậc thầy hay tiền bối của mình.

Nhưng sau khi quán sát và phân tích,
thấy điều gì phù hợp với lý trí
và đưa đến sự tốt lành,
đem lại lợi ích cho cá nhân và cho tất cả;
hãy chấp nhận điều đó và thực hành theo nó.”

- Kinh Tăng Nhất A Hàm -

*

*****
“Do not believe in anything
simply because you have heard it.

Do not believe in traditions
because they have been handed down
for many generations.

Do not believe in anything
because it is spoken and rumored by many.

Do not believe in anything
simply because it is found written in your religious books.

Do not believe in anything merely on
the authority of your teachers and elders.

But after observation and analysis,
when you find that anything
agrees with reason
and is conducive to the good
and benefit of one and all,
then accept it and live up to it.”

- The Anguttara Nikaya -

Giáo sư Phạm Phú Thành dịch


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage