Tham
vọng dường như là một hiện tượng tự nhiên của con người. Có người muốn giàu, có
quyền thế hoặc danh vọng. Có người muốn có nhiều kiến thức, có bằng cấp. Có
người chỉ muốn có một tổ ấm nhỏ và từ đó họ có thể ngắm nhìn quang cảnh giống
nhau mỗi ngày. Có người muốn tìm một người tình lý tưởng, hoặc càng gần lý
tưởng càng tốt.
Ngay
khi chúng ta không sống trong thế gian, chỉ sống trong ni viện, chúng ta cũng
có nhiều tham vọng: muốn trở thành thiền giả thượng hạng, muốn có an định toàn
hảo, muốn cách sống này tạo ra kết quả tốt. Lúc nào cũng có một điều gì đó để
ta hy vọng.Tại sao thế? Bởi vì đó là điều sẽ xảy ra trong tương lai, không bao
giờ có trong hiện tại.
Thay
vì chú tâm vào hiện tại, ta lại cầu mong điều tốt đẹp hơn sẽ đến, có lẽ trong
ngày mai. Thế nhưng khi ngày mai đến, ta lại mong đến ngày kế, vì nó cũng chưa
đủ toàn hảo. Nếu ta thay đổi thói quen trong tư duy của mình và chú tâm vào cái
đang hiện hữu, chừng đó ta sẽ tìm được một điều gì đó làm ta hài lòng. Nhưng
khi ta chỉ tìm kiếm những gì chưa hiện hữu, mong rằng có thể toàn hảo hơn, kỳ
diệu hơn, thỏa mãn hơn, ta sẽ không thể tìm được gì cả, bởi vì ta chỉ tìm kiếm
cái mà nó không hiện diện ở đó.
Ðức
Phật nói về hai hạng người, người tầm thường (phàm nhân, puthujjana) và người
cao sang (thánh nhân, ariya). Dĩ nhiên ai cũng mong ước trở thành thánh nhân,
nhưng nếu chúng ta chỉ mong cầu điều đó trong một tương lai nào đó, ta sẽ không
đạt được. Sự khác biệt giữa một thánh nhân và phàm nhân là sự thực chứng về
“đạo và quả” (magga-phala). Giây khắc đầu tiên khi tâm thức đạt đến trạng thái
siêu thế này được gọi là Dự lưu (sotapatti) và người chứng nghiệm điều đó gọi
là Dự lưu nhân (sotapanna), người nhập dòng suối đưa đến Niết bàn.
Nếu
ta đem điều đó vào lòng như là một mục tiêu cho tương lai, điều đó sẽ không xảy
ra, bởi vì ta không đem hết năng lực và sức mạnh để chú niệm từng giây khắc.
Chỉ khi nào tâm chú niệm vào từng giây khắc thì chập tâm Ðạo (sát-na tâm Ðạo)
giải thoát mới có thể xảy ra.
Yếu
tố phân biệt một thánh nhân với phàm nhân là sự đoạn diệt ba kiết sử đầu tiên
đã trói buộc ta vào luân hồi miên viễn. Ba kiết sử này là: thân kiến, hoài
nghi, và giới cấm thủ (sakkayaditthi, vicikiccha, silabbatta paramasa). Người
nào chưa phải là bậc Dự lưu thì người ấy vẫn còn bị trói buộc vào ba loại tà
kiến và hành động sai lầm vốn đem ta xa rời sự tự do và đưa ta vào trói buộc.
Hãy
thử nhìn vào sợi dây “hoài nghi” trước. Ðó là ý tưởng vụn vặt lúc nào cũng ám
ảnh trong đầu óc: “Chắc là có một pháp tu khác, dễ dàng hơn”, hoặc “Tôi biết
chắc là tôi có thể tìm được an lạc ở một nơi nào đó trong thế gian rộng lớn
này”. Khi nào vẫn còn sự nghi ngờ về con đường giải thoát khỏi thế gian và vẫn
còn sự tin tưởng rằng những điều toại ý có thể tìm ra được trong thế gian, khi
đó sẽ không có cơ hội để đắc quả thánh, bởi vì ta đang nhìn lầm hướng.
Trong
thế gian này với con người và vật chất, thú vật và sự chiếm hữu, quang cảnh và
các tiếp chạm qua giác quan, không còn có một cái gì khác ngoài những gì chúng
ta đã từng quen biết. Nếu còn có gì khác, tại sao chúng lại không được xác
nhận, tại sao ta đã không tìm ra? Ðiều này thật hiển nhiên. Thế nhưng tại sao
ta lại phải tìm kiếm chúng?
Dĩ
nhiên là chúng ta đang tìm kiếm hạnh phúc và an bình, cũng như những người
khác. Hoài nghi, anh chàng báo động, bảo: “Tôi chắc là nếu tôi thử tu tập một
cách thông minh hơn là phương cách vừa qua, tôi sẽ được hạnh phúc. Còn có vài
điều nữa mà tôi chưa thử qua.” Có thể ta chưa tự mình lái chiếc máy bay của
riêng mình, chưa thử sống trong hang động Hy Mã Lạp Sơn, chưa từng dùng thuyền
chu du thế giới, chưa từng viết một quyển tiểu thuyết bán chạy nhất. Tất cả các
điều này thật là huy hoàng để thực hiện trong cõi đời, nhưng chúng chỉ là những
phí phạm thì giờ và năng lực.
Hoài
nghi hiện rõ ra khi ta không biết chắc là trong bước kế tiếp, ta sẽ phải làm
gì. “Khi tôi đến đó, tôi sẽ phải làm gì?” Ta chưa định hướng được. Hoài nghi là
một kiết sử trong tâm khi chưa có được một sự minh bạch rõ ràng vốn bắt nguồn
từ sát-na tâm nhập Ðạo. Tâm thức khởi sinh ngay trong giây khắc đó sẽ hủy diệt
mọi hoài nghi bởi vì lúc đó, ta tự thực chứng được con đường. Cũng như khi ta
cắn quả xoài, ta biết được ngay cái vị của nó.
Nhận
thức sai lầm về tự ngã là một kiết sử gây nhiều tổn hại nhất và vây hãm phàm
nhân. Nó chứa đựng ý tưởng chôn sâu trong tâm về “đây là tôi”. Có thể cái ngã
đó không phải là cái thân “của tôi”, nhưng có “một người nào đó” đang hành
thiền. Cái “một người nào đó” này đang muốn giác ngộ, muốn đắc quả Dự lưu, muốn
được hạnh phúc. Tà kiến về tự ngã này là nguyên nhân của mọi vấn đề đang khởi
sinh.
Chừng
nào vẫn còn có ý tưởng có “một người nào đó”, ta vẫn còn nhiều vấn đề. Nếu ở đó
không có một người nào cả, thì ai đang gặp khó khăn đây? Tà kiến về tự ngã là
gốc rễ tạo ra sự đau đớn, buồn rầu và than thở. Kèm theo với nó là sự sợ hãi và
lo lắng: “Không biết tôi sẽ an toàn, hạnh phúc, thanh bình, tìm được cái tôi
đang tìm kiếm, đạt được điều tôi mong muốn như là an lạc, giàu có và khôn ngoan
không?”.
Những
nỗi lo lắng và sợ hãi này được hỗ trợ bằng các kinh nghiệm cá nhân trong quá
khứ. Trong quá khứ, ta đã không bao giờ khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan, đã
không thể đạt được điều mong muốn, đã không có cảm giác kỳ diệu. Do đó, đây là
lý do mạnh mẽ để ta lo lắng và sợ sệt, chừng nào vẫn còn các tư tưởng sai lầm
về tự ngã bao trùm.
Lễ
nghi và cúng tế tự chúng không phải gây nhiều điều hại, chỉ khi nào ta tin
tưởng đó là một phần của con đường đến Niết bàn thì mới có hại. Chúng không cần
phải có tính tôn giáo, dù rằng ta thường nghĩ như thế. Những hành động như dâng
hương hoa trên bàn thờ, quỳ lạy hoặc tham gia vào các cuộc lễ có thể tích tụ
phước báo để tái sinh vào các cõi trời. Sự thành tín, kính trọng và biết ơn đối
với Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) mới là điều quan trọng. Nhưng ngay cả lòng tin
này cũng không chỉ giới hạn vào các hoạt động tôn giáo. Mọi người đều sống với
lễ nghi và cúng tế, cho dù có khi ta không ý thức về chúng.
Trong
sự tương giao của con người, có những cách thức quy định để giao tiếp với cha
mẹ, con cái, vợ chồng. Ta phải xử sự thế nào trong công việc, với bạn bè, với
người lạ, ta mong người khác đối đãi như thế nào, tất cả những điều này đều
liên kết với những định kiến về sự đúng đắn và thích hợp trong một văn hóa và
truyền thống nào đó. Không một điều nào có hàm chứa chân lý, bởi vì chúng chỉ
là do tâm tạo ra. Ta càng có nhiều ý kiến, ta càng xa rời thực tế. Ta càng tin
tưởng vào chúng, ta càng khó gỡ bỏ chúng. Khi ta tưởng ta là một loại người nào
đó, ta sẽ có giao tiếp như thế trong mọi tình huống.
Ðiều
này xảy ra chẳng những trong phương cách ta chưng hoa trên bàn thờ mà ngay cả
trong cách ta thù tiếp người khác, nếu ta làm theo một nghi lễ tiên định nào đó
và không theo cách mà tâm rộng mở của ta sai khiến ta.
Ba
kiết sử trên sẽ bị tiêu trừ khi chập Ðạo và chập Quả được thực chứng. Lúc đó sẽ
có một sự thay đổi rõ ràng trong người đó, dĩ nhiên không thể nào thấy được qua
hình dạng bên ngoài. Nhưng sự thay đổi nội tâm trước tiên là kinh nghiệm thực
chứng đó sẽ làm tiêu tan tuyệt đối các hoài nghi về điều cần phải làm trong đời
sống.
Biến
cố này hoàn toàn khác hẳn những gì đã biết từ trước, cho đến nỗi, người ấy sẽ
thấy những gì đã tạo ra đời sống của mình, từ trước cho đến nay, đều vô nghĩa.
Không có việc gì trong quá khứ là quan trọng nữa. Ðiều quan trọng duy nhất là
tiến hành với công phu tu tập để làm tăng trưởng sự chứng nghiệm này từ trong
chập tâm Ðạo đầu tiên, để tái nghiệm và thiết lập vững chắc trong người ấy.
Các
chập tâm Ðạo và Quả sẽ lại xảy ra cho những vị Nhất lai (sakadagami), Bất lai
(anagami) và Giác ngộ (arahant, A la hán). Mỗi lần như thế, chúng chẳng những
sâu đậm hơn mà còn kéo dài hơn. Ta có thể so sánh với các kỳ thi trong trường
đại học. Nếu ta chọn một chương trình bốn năm để lấy bằng cấp, mỗi năm ta phải
dự kỳ thi cuối năm. Ta phải trả lời các câu hỏi trong mỗi kỳ thi, dựa theo kiến
thức ta đã thu hoạch được.
Các
câu hỏi trở nên sâu sắc hơn, khó khăn hơn trong các kỳ khảo hạch kế tiếp. Trong
khi chúng chỉ liên quan đến cùng một chủ đề, chúng đòi hỏi phải có kiến thức
sâu rộng hơn, cho đến khi ta tốt nghiệp và không cần phải trở lại trường đại học
nữa. Sự phát triển tâm trí của chúng ta cũng như thế. Mỗi một chập tâm Ðạo là
dựa theo chập tâm trước và có liên quan đến cùng một chủ đề, nhưng nó đi sâu
hơn. Cho đến khi ta vượt qua kỳ khảo hạch cuối cùng và không cần phải trở lại
nữa.
Chập
tâm Ðạo không có tư tưởng hay cảm thọ trong đó. Nó không thể so sánh với các
tầng thiền-na (jhana). Mặc dù nó dựa vào các tầng thiền vì chỉ có tâm định mạnh
mẽ mới có thể đi vào chập tâm Ðạo, nó không có những tính chất như trong các
tầng thiền – trong các bước đầu – như là hỷ, lạc, và an bình. Lúc sau, tâm
chứng nghiệm một sự bành trướng, vô sở hữu và một thay đổi về nhận thức. Chập
tâm Ðạo không bao hàm các trạng thái tâm này.
Nó
có tính không sinh hữu. Ðây là một sự nhẹ nhõm và thay đổi quan kiến về thế
gian, hoàn toàn đến đỗi mà giờ đây người ấy hiểu được tại sao Ðức Phật đã dạy
về một sự phân biệt rõ ràng giữa một phàm nhân và Thánh nhân. Trong khi các
tầng thiền na đem đến cảm giác nhất như, nhất thể, tâm Ðạo không có cảm giác
đó. Chập tâm Quả, tiếp theo chập tâm Ðạo, là một chứng nghiệm đã thông hiểu và
tạo ra một cái nhìn hoàn toàn mới lạ về sự hiện hữu.
Sự
hiểu biết mới này nhận thức được rằng mỗi ý tưởng, mỗi cảm thọ đều là khổ
(dukkha). Ngay chính ý tưởng cao sang nhất, cao thượng nhất cũng có tính chất
đó. Chỉ khi nào không có gì cả, mới không có khổ. Không có cái gì, bên trong
lẫn bên ngoài, hàm chứa tính chất toại ý hoàn toàn. Bởi vì có một nhận thức rõ
ràng như thế, lòng ham muốn về bất cứ điều gì được loại bỏ. Mọi việc được nhìn
theo bản thể chân thật của chúng, và không có gì có thể mang lại hạnh phúc như
là những gì khởi sinh qua sự tu tập Ðạo và kết quả của nó.
Yếu
tố Niết bàn không thể diễn tả thật sự như là hoan lạc, vì hoan lạc mang hàm ý
có phấn khởi. Ta dùng chữ “hoan lạc” cho tầng thiền-na, bởi trong đó còn có một
sự thích thú. Yếu tố Niết bàn không công nhận hoan lạc vì tất cả những gì khởi
sinh đều xem là khổ. “Sự hoan lạc của Niết bàn” có thể làm cho ta có cảm tưởng
rằng ta có thể tìm thấy hạnh phúc tuyệt đối, thật ra là điều ngược lại. Ta thấy
ở đó không có gì cả và vì thế, không còn điều bất hạnh nữa, chỉ có an bình.
Nếu
chỉ mong tìm kiếm Ðạo và Quả sẽ không đem chúng đến ta, bởi vì chỉ có sự tỉnh
giác từng thời khắc mới có thể làm được điều đó. Sự chú niệm này dần dần sẽ
giúp tạo một tâm định thật sự, trong đó ta có thể xả bỏ mọi tư tưởng và hoàn
toàn hòa nhập vào đề mục. Lúc đó, ta có thể bỏ đề mục hành thiền. Ta không cần
phải đẩy nó ra, nó sẽ rớt đi theo cách riêng của nó, và sự an định trong giác
niệm sẽ xảy đến. Nếu cần phải có một tham vọng nào trong đời sống, thì đây là
một tham vọng duy nhất có giá trị. Các loại khác không mang đến thành đạt trọn
vẹn.
Ta
cũng không cần phải tự ép buộc xả bỏ hoài nghi. Còn gì phải hoài nghi khi ta đã
chứng nghiệm chân lý? Nếu ta tự đánh mình bằng một cây búa, ta cảm thấy đau đớn
mà không thể nghi ngờ chi cả. Ta biết rõ như thế qua kinh nghiệm tự thân.
Chấp
thủ vào lễ nghi và giới cấm sẽ kết liễu thú vị bởi vì khi ta đã chứng nghiệm
được tâm Ðạo thì không còn trường hợp nào ta cần phải đóng tuồng nữa. Mọi vai
trò chỉ là những cấu tử của hư ngụy. Ta có thể sẽ tiếp tục các lễ nghi vì chúng
hàm chứa những phần kính trọng, biết ơn và thành tín. Nhưng không còn có các lễ
nghi để ứng xử với người khác, với tình huống, và cũng không còn phải tạo dựng
các câu chuyện về tự ngã, bởi vì các phản ứng của ta lúc đó là hoát nhiên với
tâm rộng mở.
Xả
bỏ tư tưởng sai lầm về tự ngã dĩ nhiên là một thay đổi sâu xa nhất, tạo ra tất
cả các thay đổi khác. Ðối với vị Dự lưu, tà kiến về tự ngã không còn khởi sinh
qua lý luận nữa, nhưng vẫn còn các cảm xúc về nó, vì chập tâm Ðạo xảy ra và
biến đi rất nhanh. Nó chưa tạo một tác động tuyệt đối. Nếu nó làm được như vậy
thì đã tạo ra quả Giác ngộ. Có những người có thể đắc nhanh như thế, như đã ghi
trong kinh điển thời Phật còn tại thế. Cả bốn quả thánh có thể được chứng đắc
ngay trong khi lắng nghe Pháp của Ngài.
Chập
tâm Quả đầu tiên cần phải được tái sinh, đó cần phải tái lập nó nhiều lần, cho
đến khi chập tâm Ðạo thứ hai khới sinh. Cũng như thể lặp lại những gì mình đã
biết để khỏi quên, và từ đó tạo dựng thêm cái khác.
Ðiều
cần thiết là ta phải luôn tự nhắc nhở trong mỗi thời khắc thức tỉnh rằng sắc,
thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường và không có bản thể thường tồn, thay đổi
từng chặp. Cho dù ta có một trực kiến về vô ngã (anatta) hay chỉ có kiến thức
về điều đó, trong trường hợp nào ta cũng phải đem điều đó vào trong tâm và sống
với nó càng nhiều càng tốt. Khi ta tiếp tục làm như thế, các vấn đề thông
thường sẽ khởi sinh ít đi. Nếu ta giác niệm về tính vô thường của mọi hiện hữu,
các nỗi khó khăn của ta dường như không còn quan trọng nữa và quan kiến về tự
ngã sẽ từ từ thay đổi.
Quan
kiến ta có về chính ta là kẻ thù độc hại nhất của ta. Mỗi người tạo ra một cá
tính, một mặt nạ để mang, và ta không muốn thấy những gì phía sau mặt nạ đó. Ta
cũng không cho phép người thấy những điều đó. Sau khi đắc tâm Ðạo, sự che giấu
đó không còn nữa. Cái mặt nạ, sự sợ hãi và xua đuổi hiện ra rõ ràng. Ðể đối trị
hữu hiệu, ta phải luôn nhớ rằng thật ra không có ai ở đó, chỉ có các hiện tượng
mà thôi. Cho dù cái nhìn trong tâm vẫn chưa ổn cố đủ để chứng minh điều đó, sự
xác định như thế giúp tháo lỏng các bám thủ, chấp dính và làm ta chấp thủ ít
chặt chẽ hơn.
Ðịnh
hướng của sự tu tập chắc chắn là hướng về quả Dự lưu. Tuy nhiên, không có gì để
chứng đắc, mà tất cả cần phải được xả bỏ. Nếu không làm như thế, chập tâm Ðạo
sẽ không xảy ra, và ta tiếp tục sống như trước: bị khổ não hành hạ và ràng
buộc, trải qua các sự khen chê, được mất, sang hèn, vui buồn. Các vấn đề thông
thường – tạo ra bởi cái “ngã” – sẽ lại sinh ra, rồi cứ thế sinh ra mãi. Sự thay
đổi thật sự chỉ đến khi nào có được một thay đổi rốt ráo về phương thức ta nhìn
về ta. Nếu không, các khó khăn vẫn tồn tại như cũ vì đó là do một người như xưa
tạo ra chúng.
Có
chánh niệm trong và ngoài lúc hành thiền là phương cách tu tập để mang lại kết
quả. Có nghĩa là giờ nào làm việc ấy, chú ý qua thân và trong tâm. Khi nghe
pháp, chỉ chuyên tâm nghe. Khi ngồi thiền, chỉ chú tâm vào đề mục hành thiền.
Khi trồng cây, chỉ biết trồng cây. Không kiểu cách, không phán đoán. Ðó là để
cho tâm ý được quen dần trong sự sống từng giây khắc. Làm như thế thì chập tâm
Ðạo mới xảy ra. Không phải ở một tương lai xa xôi, mà có thể xảy ra ngay trong
lúc này và tại nơi đây. Không có lý do gì mà một thiền sinh có đủ trí khôn, khỏe
mạnh và quyết tâm, lại không thể đạt được điều đó với lòng kiên nhẫn và trì
chí.
Chúng
ta đã nghe về sự chán chường và lạnh nhạt là những bước trên đường đến giải
thoát và tự do. Chúng không thể có ý nghĩa và tác động nếu không có một quan
kiến về một thực tế hoàn toàn khác biệt, một thực tế không nằm trong sự đa dạng
của thế gian. Khi ta ngồi thiền mà bắt đầu suy luận, đó là cám dỗ cửa sự đa
dạng hóa và bành trướng, phóng tâm (papanca).
Yếu
tố Niết bàn là một, không đa dạng. Ta có thể nói nó không hàm chứa những gì ta
biết. Cho đến khi thấy được như thế, thế gian tiếp tục đặt tên cho nó, nhưng ta
không cần phải tin như thế. Ðó là một công tác khó khăn. Ta phải tự cảnh giác
luôn, nếu không sẽ bị cám dỗ lôi cuốn. Ta không nên ngạc nhiên khi ta không tìm
thấy hạnh phúc; sự đa đoan, đa dạng không thể tạo hạnh phúc, chỉ tạo vọng mống.
Chắc
chắn là ta có thể chứng nghiệm khoái lạc qua các giác quan. Ta sẽ được nhiều
dịp như thế nếu ta tạo nghiệp lành. Thức ăn ngon, phong cảnh đẹp, đối tác dễ
thương, âm nhạc du dương, sách hay, nhà cửa thoải mái, không có tật bệnh khó
chịu. Nhưng những điều này có đem lại một hạnh phúc toàn bích không? Nó đã
không xảy ra trong quá khứ, tại sao nó sẽ phải xảy ra trong tương lai? Ðạo và
Quả mang lại hạnh phúc vì chúng không hàm chứa hiện tượng. Tánh Không không
thay đổi, không trở nên khó chịu mà cũng không thiếu vắng sự bình an, vì không
có gì để chao động nó.
Khi
người ta nghe hoặc đọc về “Niết bàn”, người ta nói ngay là: “Làm thế nào mà tôi
có thể không mong muốn gì cả?”. Khi ta đã thấy mọi thứ ta muốn chỉ là để trám
đầy sự trống rỗng bên trong và đều bất toại ý, lúc đó là lúc ta không muốn gì
cả. Ðiều này vượt qua sự “không mong cầu” vì giờ đây ta chấp nhận rằng trong
thực tế không có gì đáng để sở hữu. Không mong muốn điều gì sẽ giúp ta có thể
thực chứng được rằng thật ra không có gì cả – chỉ có một sự yên lặng và an
bình.
Bình
Anson (lược dịch)
Ni
sư Ayya Khema (Theo Chuyenphapluan)