A. Những
bước chuẩn bị. Bồ Tát Quán
Thế Âm đã khả hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp
-khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh- lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả
Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời
bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ “.
Nguồn: Phật
Giáo Việt Nam Net (phatgiaovnn.com)
Như vậy, thế nào là tụng trì đúng pháp?
Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ
rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là
tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt
đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng
sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang
lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt
là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi,
cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.
Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên
tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi
hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước
đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì
tụng.Tóm lại, “Giữ gìn trai giới,ở nơi tịnh thất,tắm gội sạch sẽ, mặc y
phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường,
buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì
chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu
cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và
không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể
trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên
máy bay, tại sở làm, tại nhà... Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ
hòa nhập vào lời trì tụng đểø cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương
chư Phật. Bơỉ vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú
Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.
Bàn thờ.
Hành giả
nên có một phòng riêng yên tỉnh để lập bàn thờ Bồ tát. Bàn thờ nên có
hình tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng
bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ
Tát nên để day mặt về hướng Tây. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng
nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn
sáng mỗi khi hành lễ.
Cách thức ngồi, lạy :
Mỗi người
nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông
xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già
nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp
bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa
hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái
đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn
trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm.
Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính,
tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn
trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm
rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với
kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể
đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường
nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng
sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những
bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể -
nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm
môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn
trong những tư thế rất khó coi... Cho nên, chúng ta có thể thực hành một
cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi
theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu
xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để
niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.
Cách thức
tụng đọc :
Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn
tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng
ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng
đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.
Kinh
“Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn
tiếng có mười công đức sau đây :
1.Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2.Thiên
ma hoảng sợ.
3.Tiếng vang khắp mười phương
4.Ba
đường hết khổ
5.Tiếng đời chẳng lọt vào tai
6.Lòng
không tán loạn
7.Dõng mãnh tinh tấn
8.Chư
Phật vui mừng
9.Tam muội hiện ra trước mắt
10.Vãng
sanh Tịnh Độ
Thật sự, ta
cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại
Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào
cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng
nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như
tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông
thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên,
nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có
nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ
ngơi.
Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc
biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra
tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác,
hoặc đi nằm trước khi ngủ.
B. Nghi
Thức Hành Lễ
Hành giả nên tự mình sắp xếp thời khoá
biểu thích hợp và cố định cho việc hành thiền tu tập của mình hằng ngày,
vào buổi sáng hoặc buổi tối hoặc cả sáng lẫn tối. Đức Phật dạy rằng mỗi
người nên hành thiền ngày hai buổi, buổi sáng sớm lúc mới rạng đông và
buổi hoàng hôn lúc ngày chuyển qua đêm, còn nữa đêm thì nên thức dậy để
đọc kinh. Đó là thời khóa biểu lý tưởng cho người tu tập, tuy nhiên nếu
ta không có điều kiện thì chọn một thời khóa trong ngày cũng được. Thời
gian lựa chọn để thiền định vào buổi sáng hay buổi tối rất quan trọng
đối với mỗi cá nhân bởi vì có người chỉ hành thiền kết quả vào buổi sáng
hoặc ngược lại. Kinh nghiệm cho thấy những người còn sống đời sống thế
tục thì hành Thiền vào buổi sáng sớm kết quả hơn, bởi vì buổi tối sau
một ngày làm việc, thể xác còn mệt mỏi, tâm hồn lại bị vướng mắc bởi bao
nhiêu chuyện lo nghĩ từ chuyện gia đình đến chuyện sở làm ... rất khó
định tâm.
Ngoài ra,
mỗi cuối tuần nên có một buổi hành lễ chung của những người trong nhóm;
đây cũng là dịp để tự sám hối, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Việc tu học
sẽ tăng tiến nhanh chóng nếu ta có những bạn đồng tu, những thiện trí
thức đúng nghĩa.
NGHI THỨC HÀNH THIỀN
Hành giả
ngồi xuống theo tư thế kiết già hay bán già. Điều chỉnh thế ngồi, lắc
vai, lay chuyển thân thể chừng 5 lần, sửa xương sống cho ngay, chuẩn bị
cho mình một thế ngồi thoải mái.
Rải ba tiếng chuông.
Lắng lòng
thanh tịnh theo tiếng chuông ngân, hành giả thanh lọc nội tâm, tiêu trừ
các tội chướng thân khẩu ý để bắt đầu bước vào nghi thức hành Thiền.
1. Tịnh Pháp Giới và Tam Nghiệp Chơn
Ngôn:
ÁN LAM
(21lần)
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt
ma ta phạ bà phạ, truật độ hám (3 lần)
2. Tác
Bạch Cúng Hương:
(Có thể có những bài nguyện hương khác
nhau, hành giả có thể tự chọn bài nguyện hương quen thuộc).
Hương thơm
giăng bủa
Thánh đức tỏ tường
Bồ
Đề Tâm rộng chẳng suy lường
Tùy chỗ
phóng hào quang
Lành tốt phi thường
Dâng
cúng Pháp trung vương
NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT, MA HA
TÁT. (3 lần).
3. ĐÃNH LỄ CHƯ PHẬT, BỒ TÁT
Nhất tâm
đãnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Tây Phương Cực Lạc Thế
Giới A-Di-Đà-Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất
tâm đãnh lễ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Ức Kiếp, Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế Tôn
(Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Kiếp,
Chánh Pháp Minh Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Thập Phương Nhứt Thiết, Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Hiền Kiếp Thiên Phật,
Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương
Cú. (Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quán Âm Sở Thuyết Chư
Đà La Ni, Cập Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Tôn Pháp.(Chuông, niệm 3
lần, 3 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma
Ha Tát.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Lực Đại Thế Chí Bồ
Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát(Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Tổng Trì Vương Bồ Tát
Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm
đãnh lễ Thập Phưong Tam Thế, Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1
lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Ma HA Ca Diếp Tôn Giả,
Vô Lượng Vô Số Đại Thanh Văn Tăng, Chư Lịch Đại Tổ Sư (Chuông, 1 lạy).
4. ĐẠI
BI PHÁT NGUYỆN
(Nếu một nhóm hành thiền chung, người
chủ trì sẽ dâng lời phát nguyện này, các thiền giả chỉ nhẫm đọc theo và
lắng lòng suy nghĩ theo lời nguyện.)
Nam Mô Đại
Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả Pháp.
Nam
Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam
Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con
mau độ các chúng sanh.
Nam Mô Đại
Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam
Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con
mau lên thuyền bát nhã.
Nam Mô Đại
Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
Nam
Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con
mau được giới định đạo.
Nam Mô Đại
Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non niết bàn.
Nam
Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con
mau về nhà vô vi.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện
con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con
hướng về nơi non đao,
Non đao tức
thời liền sụp đổ.
Nếu con
hướng về lửa, nước sôi.
Nước sôi,
lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con
hương về cõi địa ngục,
Địa ngục
liền mau tự tiêu tan.
Nếu con
hướng về loài ngã quỷ,
Ngã quỷ
liền được tự no đủ.
Nếu con
hướng về chúng Tu la,
Tu la tâm
ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc
sanh tự được trí huệ lớn.
Nam Mô Đại
Bi Quán Thế Âm (10 lần)
(chuông,
lạy)
Xong tụng
đọc:
5. THẦN CHÚ ĐẠI BI
(Tụng
5 ,7 hoặc 21 biến)
Nam Mô Đại
Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Thiên thủ
thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.
Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da. Nam Mô A rị da. Bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ
đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát
bàn ra phạt duệ. Số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị
da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị
ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa
(na ma bà tát đa). Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án. A bà
lô hê. Lô ca đế. Ca la đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà.
Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ
lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật
ra da.Giá ra gía ra. Mạ. Mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na
thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô
hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô
rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ Bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì.
Địa rị sắc ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất
đà dạ. Ta bà ha. Tất đà dủ nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn
trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà
ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà
ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà
ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ. Ta bà ha.
Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô
a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.
Án. Tất
điện đô. Mạn đa ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha. (3 lần)
6. Nhập Thiền.
Tùy theo
thời khoá biểu và thời gian cho phép, hành giả tự ấn định cho mình
khoảng thời gian thiền định (15 phút, 30 phút, 1 giờ, v.v...)
7. Xả Thiền.
Trả Ơn Cửu
Huyền Thất Tổ:
Tụng kinh, trì chú cũng là một cơ hội mà
hành giả trả ơn cửu huyền thất tổ. Do công đức trì tụng trong pháp hội
này, dưới sự chứng minh của thập phương chư Phât, chư Bồ Tát, đặc biệt
là vị Bồ Tát Bổn Tôn Quán Thế Âm, ta hướng tâm thành đến các Ngài để
nguyện cầu cho cửu huyền thất tổ, những hương linh của thân bằng quyến
thuộc đã qua đời (nêu tên hoặc pháp danh) được vãng sanh đến miền Tịnh
Độ. Ta cũng nguyện cầu cho những thân bằng quyến thuộc còn ở trong vòng
sinh tử luân hồi, nhờ oai lực và sự trợ duyên của chư Phật, chư Bồ Tát,
Bồ Tát Quán Thế Âm có cơ hội biết đến Phât pháp, tinh tấn tu tập, và
hướng đến giác ngộ. (Phần này mỗi hành giả có một lời nguyện riêng). (3
lạy)
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức này
Hướng
về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều
trọn thành Phật đạo
(3 lạy)
Xong mở
miệng thở vài hơi dài. Nhè nhẹ lay chuyển cổ, vai, thân khoảng 5 lần,
xong dùng hai bàn tay xoa nhẹ vào nhau xoa lên mắt (khoảng 5 lần). Bắt
đầu dùng tay xoa bóp hai bắp vế và tháo chân ra, xoa bóp hai bắp chuối,
bàn chân cho nóng lên (khoảng 5 lần).
Kết thúc buổi hành Thiền.