Cành
mai còn sót lại trước sân chùa sau đêm giao thừa với không khí tưng bừng của
ngày lễ hội, hoặc còn sót lại cuối mùa xuân. Thậm chí, cho đến nó không có thật
trong mùa xuân đó, thì cũng chẳng có gì để chúng ta thắc mắc. Nhưng chỉ có điều
là chúng ta phải ghi nhận là cành mai đó nó có trong mắt của Mãn Giác Thiền sư,
và không chỉ có khi mùa xuân sắp đến, đang đến mà nó hiện hữu hằng sát na trong
Ngài. Bởi vì, Ngài đã từng lặng ngắm thế sự thăng trầm như vậy nhiều năm và trực
nhận triệt để về tính cách bất biến vô sinh của chân tâm, thấy được bản thể vốn
tịch nhiên vắng lặng và bất sinh bất diệt từ xưa đến nay và mãi mãi về sau cũng
là như vậy. Thì làm gì còn có đến, đi, tàn, phai và héo úa của một cành mai đối
với Ngài. Phải chăng, đó chỉ là cách nói thâm trầm của người Đông phương khi
muốn diễn đạt một vấn đề cho người khác cùng thấy như mình!
Mai
là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp.
Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết, không
thể thiếu vào dịp lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc. Ngoài nét đặc biệt đó ra,
nó còn là một biểu tượng của sự vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong những ngày
tháng ảm đạm và giá rét của Thu Đông. Khi nhìn thấy sắc vàng tươi thắm của hoa
mai người ta còn liên tưởng rằng, nó đồng hành với mùa xuân vào dịp xuân sắp
đến, đang đến hay mới đến. Mang lại vui tươi, hạnh phúc, may mắn, dồi dào,
thịnh vượng, sức khoẻ, trẻ trung…
Mùa
của sức sống rừng rực dâng lên khiến cho lòng người hân hoan thơ thới và lạc
quan yêu đời, yêu người hơn. Vì vậy, khi mai nở, xuân về là một nguồn cảm hứng
bất tận cho những tâm hồn nhân sĩ, thi sĩ, … mặc tình rong chơi hoặc tắm mình
trong thiên nhiên:
“Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
Lê trắng điểm một vài bông hoa…”
Từ
khoảng trời mênh mông nên thơ đó, mỗi người tự cô đọng cho mình thành những vần
thơ bất hủ, những áng văn trác tuyệt đi vào lòng người như bài thi kệ “Cáo tật
thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư:
Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân
đáo bách hoa khai
Sự
trục nhãn tiền quá
Lão
tòng đầu thượng lai
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Đây
là một trong những bài thơ được trong giới nhà Thiền hay những văn nhân thường
nhắc lại cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào những độ xuân về.
Thông
thường, hàng năm khi đưa tay bốc đi tờ lịch cuối cùng trên vách, là mọi người
đều có cùng một ý nghĩ, xuân đã về. Và cũng lấy đó làm cột mốc thời gian cho ba
trăm sáu mươi lăm lần vòng quay của trái đất, để đánh dấu cho ngàn lẻ một
chuyện như: Hạnh phúc, vui tươi, thành đạt, tủi nhục, chán nản, thất vọng, …
Nhưng tất cả đều được gát lại với sự bằng lòng hoặc miễn cưỡng, để hòa mình
cùng sự vươn dậy của trời đất, thiên nhiên đang lai động đến muôn hoa khoe sắc
thắm, nghìn lá đâm chồi nẩy lộc mà mọi người gọi đó là biểu tượng Kiết tường,
và luôn mong mỏi nó sẽ kéo dài cho những ngày sắp tới, để bù lấp cho những điều
bất như ý không trông đợi mà nó vẫn đến! Đó là những ngày tận hưởng hương vị
của xuân hoặc vui cái Tết cổ truyền của dân tộc. Để rồi sau đó, mọi người lại phải
lăng xăng, tất tả, ngược xuôi cho công việc của mình.
Cảm
nhận xuân như thế là xuân của thời tiết, vui xuân trong nỗi thụ động của thế
thường tình, nên Chế Lan Viên đã gom lại thành những vần:
“Tôi
có chờ đâu có đợi đâu
Đem
chi xuân lại gợi thêm sầu
Với
tôi tất cả là vô nghĩa
Tất
cả không ngoài nghĩa khổ đau…”
Quả
là, Thi nhân đã cảm nhận được dòng sinh diệt đang vận hành một cách tùy thuộc,
vay mượn, không có tính độc lập mà con người là nạn nhân trong guồng quay vô
tận đó! Nhưng, chính tác giả cũng không làm gì hơn, để chia sẻ với những ai có
cùng tâm tư – bâng khuâng, xao xuyến… Phải chăng, trong cuộc sống này, tất cả
chúng ta không ai thoát được quy luật hiển nhiên khắc nghiệt đó, để phải suốt
cả một đời đuổi bắt câu vó thời gian! Nên ngay cả Thi sĩ Mãn Giác Thiền Sư cũng
để lại rằng:
Xuân
đi, trăm hoa rãi
Xuân
đến, trăm hoa khai
Xem
chuyện đời trước mắt
Tóc
trên đầu đã phai
Chớ
bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối
qua, vườn trước một cành mai.
(Thi
sĩ Võ Đình dịch)
Không,
mới đọc vào hai câu đầu của Thi kệ, chúng ta đã nghe lạnh cả hư không và tê
buốt cả cõi lòng, vì cách sử dụng ngôn từ khúc chiết, dè xẻn để chuyển tải ý.
Mặc dù, từ ngữ hết sức bình dị, đối với những ai ít khi dùng từ Hán-Việt vẫn có
thể hiểu một cách trọn vẹn. Nhưng nó lại mang ý và tứ thơ vô cùng thâm viễn,
chúng ta thử đọc lại nguyên văn:
“Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân
đáo bách hoa khai…”
Sự
vận hành của thiên nhiên là thế đấy. Khi xuân đã đi thì trăm hoa rơi rụng,
nhưng khi mùa xuân sẽ đến, đang đến thì trăm hoa khoe sắc thắm, dưới nắng vàng
dìu dịu và vài cơn gió thoảng đung đưa cành lá. Xuân đến và đi, trong mắt của
Thiền sư là thế – thanh thoát, nhẹ nhàng, bình thản và an lạc. Cho nên ngay cả:
“Xem
chuyện đời trước mắt
Tóc
trên đầu đã phai …”
Cũng
chẳng có gì là vướng bận tâm hồn. Bởi, Sinh, Trụ, Dị, và Diệt là như thế, nên
cứ bình thản mà sống với hiện hữu. Những việc qua rồi không nên nuối tiếc,
những gì chưa đến thì đừng mong cầu. Sở dĩ, mỗi cá nhân cảm thấy mừng, giận,
thương, sợ, yêu, ghét và muốn luôn bức bách trong cuộc sống là vì không thể
kiềm chế lòng ham muốn. Nói như vậy, không phải triệt tiêu ý chí phấn đấu vươn
lên của cá nhân trong guồng máy xã hội. Mà ngược lại, nó mang một chiều hướng
tích cực, góp phần cho việc ổn định, phát triển và đem lại hòa bình Thế giới.
Bởi mỗi cá nhân là thành viên của một quốc gia, hay nói rộng hơn là thành viên
của cộng đồng loài người, nên mỗi cá nhân có hoàn thiện thì Thế giới mới hòa
bình, đó là điều kiện ắt có và đủ. Chính vì thế, Mãn Giác Thiền Sư đã khẳng
định:
“Chớ
bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối
qua, vườn trước một cành mai…”
Để
cho chúng ta thấy rằng, qui luật dời đổi tan thương của Vũ trụ chỉ là trò đùa
đối với những ai đứng bên ngoài sự vận hành và hiểu rõ từng chuyện đời trước
mắt một cách linh hoạt, tự tại như Vạn Hạnh Thiền sư đã từng thấy:
Thân
như bóng chớp chiều tà
Cỏ
xuân tươi tốt Thu qua rụng rời
Sá
chi suy thạnh việc đời
Thạnh
suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thích
Mật Thể dịch)
Đối
với các Ngài là thế, bình thản trước cảnh biến đổi thời tiết và bãi bể hóa
nương dâu, nên vui buồn, được mất không làm sao nao núng tinh thần. Trong khi
đó, tâm tư của chúng ta lúc nào cũng đầy ấp bóng dáng của khổ đau, sợ hãi, lo
âu và tránh né sự thật. Vì thế, khi được thì vui, mất thì buồn. Biệt ly thì đau
khổ, gần gũi thì hạnh phúc. Ai khen thì nở mặt, ai chê thì ủ rũ. Vừa ý thì hân
hoan, trái ý thì cáu giận. Nên khi gặp cảnh biến thiên của vạn hữu vũ trụ thì
ngậm ngùi như Nguyễn Gia Thiều:
“Trải
qua một cuộc biển dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng…”
Trong
khi đó, ngoài bộ mặt đau thương biến đổi của Vô thường còn có sự vĩnh hằng, an
lạc của tâm thức và ngoại cảnh. Tuy nhiên, chỗ thâm áo này phải trầy trật lắm
mới thẩm thấu được sự thật của vấn đề. Như chúng ta đã đọc biết bao nhiêu lần
bài thi kệ của Mãn Giác Thiền sư, nhưng vẫn không có được cái thấy tự tại, an
lạc và giải thoát như Ngài. Phải chăng, đó chính là mấu chốt của vấn đề mà Ngài
muốn nhắn gởi đến chúng ta, hãy tu tập, thực hành Thiền định, sống trong Thiền
định. Đừng chạy theo hiện tượng thời tiết và chẻ sợi tóc ra làm muôn mảnh để
tìm sự thật trong đó!
Tóm
lại, cành mai còn sót lại trước sân chùa sau đêm giao thừa với không khí tưng
bừng của ngày lễ hội, hoặc còn sót lại cuối mùa xuân. Thậm chí, cho đến nó
không có thật trong mùa xuân đó, thì cũng chẳng có gì để chúng ta thắc mắc. Nhưng
chỉ có điều là chúng ta phải ghi nhận là cành mai đó nó có trong mắt của Mãn
Giác Thiền sư, và không chỉ có khi mùa xuân sắp đến, đang đến mà nó hiện hữu
hằng sát na trong Ngài. Bởi vì, Ngài đã từng lặng ngắm thế sự thăng trầm như
vậy nhiều năm và trực nhận triệt để về tính cách bất biến vô sinh của chân tâm,
thấy được bản thể vốn tịch nhiên vắng lặng và bất sinh bất diệt từ xưa đến nay
và mãi mãi về sau cũng là như vậy. Thì làm gì còn có đến, đi, tàn, phai và héo
úa của một cành mai đối với Ngài. Phải chăng, đó chỉ là cách nói thâm trầm của
người Đông phương khi muốn diễn đạt một vấn đề cho người khác cùng thấy như
mình!
Nhân
mùa xuân năm 2000, mùa xuân bắt đầu của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đầy hứa
hẹn của sự thành tựu khoa học, để phục vụ cho con người về phương diện vật
chất, người viết mạo muội nói lên một vài cảm nhận qua bài thi kệ của Mãn Giác
Thiền sư để được dịp trao đổi cùng các bậc thức giả, nhằm mang lại món ăn tinh
thần cho dân tộc nói riêng và cộng đồng loài người nói chung. Đang khi cầm
chung trà, miếng mứt để thưởng thức hương xuân lan tỏa, chúng ta, đồng thời,
cũng nên lẳng lặng cảm nhận niềm an lạc, trước một mùa xuân mới, mùa xuân của
thời tiết. Nhưng nó lại mang sức sống rừng rực dâng lên khiến cho lòng người
hân hoan thư thới, lạc quan yêu đời và người sống vì mọi người, trên tinh thần
vô ngã, vị tha và bình đẳng. Đó là bức thông điệp của Mãn Giác Thiền sư đã gởi
cho chúng ta từ nhiều thế kỷ qua!
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Nguồn http://daitangkinhvietnam.org