Lược khảo về sự tích và ý nghĩa lễ Vu Lan
Nguyễn Phúc Bữu Tập
Mỗi năm, sau
lễ Phật đản, người Việt Nam thiết
lễ Rằm Tháng Bảy rất lớn, còn
gọi là lễ Xá tội vong nhân theo câu ca dao "Tháng bảy
ngày rằm xá tội
vong nhân". Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa)
thiết lễ Vu Lan; lễ này không
thấy trong tập tục Nam Tông. Bài này tìm hiểu sự
tích lễ Vu Lan, khởi thủy tại Ấn Độ.
Lễ Vu Lan theo đạo Phật vào Trung Hoa, đã
trở thành một ngày hội lớn từ thành thị
đến thôn quê. Tại Đại Hàn, Đài Loan và Việt
Nam, cho đến bây giờ hàng năm dân chúng không quên
ngày Rằm Tháng Bảy. Riêng tại Nhật Bản là nơi
các tập tục Phật giáo, cho tới cuối thế kỷ
Hai mươi vẫn còn giữ nguyên vẹn truyền thống,
lễ Vu Lan được tổ chức rất trọng
thể. Kéo dài bốn ngày, bắt đầu ngày mười
ba, mãn ngày mười sáu tháng Bảy. Chúng ta sẽ khảo
sát các chi tiết của ngày lễ Phật đẹp
đẽ này. Chúng ta cũng sẽ tìm
cách giải thích nguyên do của buổi lễ tôn giáo
đại chúng này trong phần sau bài.
Lễ Bon Vu Lan tại
Ấn Độ. Vì sao có lễ Bon Vu
Lan?
Trước khi Thích Ca khai sáng ra đạo Phật,
người Ấn đã thiết lễ
Bon, mà người Phật Bắc tông Đông Á và Đông
Nam Á gọi là lễ Vu Lan. Đạo Bà La Môn ở Ấn
Độ tin rằng người chết có nhiều ràng
buộc với người đang sống, và bổn phận
người sống là phải thờ cúng người
đã khuất núi. Vì lẽ đó mà đạo dạy là
những kẻ vô thừa tự không sinh con cái nối dõi
để tiếp tục thờ cúng tổ tiên, sẽ bị
phạt tội rất nặng, bị đày xuống địa
ngục. Ngày trước, ở Ấn Độ, người
Bà La Môn đến tuổi trưởng thành
phải đi tu học các nghi lễ cúng tế để
phục vụ cộng đồng. Nhưng qua thời kỳ
thụ huấn, y phải trở lại gia đình,
lấy vợ, sinh con nối dõi. Y phải có con thừa tự,
để đến
lúc chết khỏi bị đọa đày ở địa
ngục.
Lúc Thích Ca dựng lên đạo
Phật, tông đồ của ngài đã
từng sống trong niềm tin Bà La Môn. Những người
từ bỏ gia đình để
đi tu theo tăng đoàn phải có một cách để
tự thuyết phục đi tu theo đạo Thích Ca không
phạm tội vô thừa tự, vì tổ
tiên sẽ được cứu rỗi bằng lễ Vu
Lan.
Định nghĩa từ Vu-lan: Cho đến bây giờ
các học giả đạo Phật đều thỏa
thuận là chữ "vu-lan-bồn",
phiên âm từ chữ "ura-bon-e", xuất xứ từ
tiếng Phạn Sanskrit "ullambana", một hình thức
đọc gọn chữ "avalambana", có nghĩa là
treo ngược. Tiếng Trung Hoa dịch nghĩa là "đảo
huyền", treo ngược chân lên trời, đầu
xuống đất, là một hình phạt
vô cùng tàn khốc áp dụng cho các tội đồ.
Người Trung Hoa phiên âm từ "ura-bon-e" thành từ
"vu-lan-bồn", nói tắt là "vu-lan". Lễ Vu
Lan trở thành một chức năng của tập tục
thờ cúng tổ tiên, rất quan trọng trong nền văn
minh của Trung Hoa và các nước lân cận chịu
ảnh hưởng văn minh Trung Hoa.
Học giả người Nhật Bunyu Matsuda sưu khảo
trong đại tập Huyền Anh Diễn Nghĩa là một
bộ kinh Phật gồm 25 tập, 449 quyển của
đại sư Huyền Anh sống dưới đời
Tùy, phiên âm và diễn dịch
tất cả từ ngữ trong kinh điển nhà Phật
từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Hoa. Trong tập
số 13, chữ vu lan bồn được phiên
âm và giải thích cặn kẽ. Đại sư Huyền
Anh viết: từ ura-bon mà ta dịch là vu lan bồn là một
hình thức phiên âm sai lạc; phải viết đúng là
ullambana mới có nghĩa là "đảo huyền".
Lại nữa, vào đời
Thịnh Đường, ở phủ Khai Phong, đại
sư Tông Mật lại đưa ra một nhận định
khác, khi ông viết phần Luận của cuốn Vu Lan Bồn
Kinh. Ông viết: ullam không hẳn là
tiếng Phạn, từ này gốc ở Trung bộ Á châu,
nơi đạo Phật theo con đường Lụa hoằng
dương vào Trung Hoa. Chữ ullam có
thể hiểu và dịch là đảo huyền, nhưng
chữ bana phiên dịch ra Hán ngữ là bồn, phải hiểu
là một con thuyền hay một tấm ván, tấm bè làm
khay, một cái chậu đựng
thức ăn. Vậy toàn bộ chữ
ullambana dịch sang
Hán ngữ, phải được hiểu là
"cứu giúp một con thuyền bị lật ngược,
hay là quay lại cho ngay một tấm bè hay một cái khay,
một cái chậu, bị lật ngược". Đại
sư Tông Mật giải thích là ngay trong bản kinh Ullamba
Sutra (Vu-lan-bồn Kinh) cũng có
đoạn nói đến cái khay. Đức Phật dạy
muốn báo hiếu chuộc tội cho cha mẹ, phải
thành tâm "dâng đầy khay thức uống và
hương hoa phẩm vật" cho các bậc tôn trưởng
cầu xin họ giúp lời cầu nguyện.
Ý kiến phân giải của đại sư Tông Mật
được đại sư Đạo Thế là
người trước tác bộ Pháp Uyển Châu Lâm yểm
trợ. Tác phẩm này dày 100 cuốn, là một công trình
hệ thống hóa hai mục Kinh và Luận trong Tam tạng
kinh điển nhà Phật. Trong phần trích dịch Kinh
Ullambana Sutra cũng có đoạn
nói tới lời đức Phật dạy phải dâng
"đầy khay" hương hoa quả phẩm cho
tăng chúng để xin giúp lời cầu nguyện cho tổ
tiên được siêu thoát.
Học giả Bunyu Matsuda còn dẫn thêm là tài liệu
trong bốn cuốn kinh khác, Vu-lan-bồn Kinh sơ, Vu-lan-bồn
Kinh sơ hiếu hành châm, Thích Thị yếu lãm và Fan-i-ming
i-chi (?) để yểm
trợ lời giải thích của Tông Mật. Công trình
nghiên cứu bác học của thế hệ mới, đặc
biệt là trường Nhật Bản sung túc phương
tiện trí óc và nhu cụ làm cho ta phấn khởi về
tương lai của một nền Phật học hàn lâm.
Tuy nhiên nếu đọc thật kỹ tài liệu trình
bày hai ý kiến của hai vị đại sư Huyền
Anh và Tông Mật cùng giải thích từ ngữ "vu lan
bồn", ta có thể kết luận không sợ sai lạc
nhiều là hai ý kiến có vẻ không tương phản,
mà còn hỗ trợ nhau. Người học Phật bước
đầu nghiêng về phía giản tiện, hãy dùng chữ
"Vu Lan" để gọi ngày lễ "Rằm Tháng
Bảy".
Lễ Vu Lan qua Kinh Phật Ullambana Sutra và một số kinh
khác.
Mandgalyayana (viết theo Sanskrit; Moggallana, Pali; tiếng Hán
phiên là Mục Kiện Liên, đọc tắt là Mục
Liên, còn gọi là Đại Mục Kiện Liên) là một
nhân vật lịch sử, sống cùng thời với
đức Phật. Ông ta là một vị giáo chủ có năm
trăm đệ tử, xin quy y theo đức Phật, và
được đức Phật xem là người đệ
tử "thần thông bậc nhất". Kinh chép khi
đắc đạo, trở thành la-hán,
ông phóng nhãn quan xuống địa ngục tìm mẹ, thấy
mẹ bị đọa
đày vì kiếp trước bà mẹ
làm lắm điều bất thiện. Ông lấy bình bát
của ông đựng
đầy cơm dâng mẹ. Bà mẹ cầm lấy ăn,
tức thời cơm hóa ra lửa hồng tuôn vào
mồm bà mẹ. Ông đau
đớn đến trình đức Phật, được
dạy là bà mẹ của ông kiếp
trước nặng dày nghiệp chướng, phải chờ
đến ngày Rằm Tháng Bảy, thiết đại
lễ thỉnh đức Phật và tăng giới mười
phương đến góp lời cầu nguyện và
phù trợ mới có thể giúp mẹ ông giải tội.
Ông hỏi lại đức Phật là nếu trong đại
chúng ai có lòng hiếu thảo muốn chuộc tội cho
cha mẹ có thể thiết lễ xin giải tội cho cha
mẹ như ông được chăng. Đức Phật
phán rõ: "Mỗi năm, vào ngày Rằm
Tháng Bảy, người con Phật phải tưởng nhớ
cha mẹ tổ tiên (...) tìm cách đền
công ơn dưỡng dục (...) bằng cách thiết l-,
lập đàn cầu nguyện chư
Phật và chư tăng
ra ơn cứu độ", thì cha
mẹ tổ tiên được cơ hội xóa bỏ bớt
tội lỗi từ muôn kiếp trước.
Ông Mandgalyayana làm đúng theo lời Phật dạy, và bà
mẹ của ông được siêu thoát. Tăng
đoàn và tín đồ Phật giáo
noi theo gương ông và từ đó lễ Bon Vu Lan trở
thành một lễ Phật.
Kinh điển nhà Phật, ngoài bộ
kinh Ullambana Sutra, còn nhiều bộ kinh khác giải thích lễ
Bon Vu Lan trong thời kỳ Phật giáo hưng thịnh tại
Ấn Độ. Theo
một số người học Phật, Kinh Mahapari nirvana
Sutra, (Kinh Đại Niết bàn), Quyển
16, kể chuyện
đức Phật lúc đi truyền giáo có lần gặp
một bộ lạc sống bằng cách giết người
ăn thịt. Bộ lạc này được đức
Phật cải quy và họ theo Phật
quy y, nhưng họ không quen làm việc chăn nuôi, trồng
trọt nên sống rất đói
khổ. Đức Phật răn dạy đệ tử
trong vùng phải
bố thí thực phẩm giúp đỡ họ. Lâu dần
thành ra tập tục cúng lễ Bon Vu
Lan.
Một cách giải thích khác lễ Bon Vu Lan là ông A Nan
Đà, người cháu và người đệ tử
trung kiên nhất của đức
Phật. Ông A Nan Đà thường tiếp xúc với một
ngạ quỷ đói khát, bị phạt nuốt
than lửa trong miệng, nên mỗi khi xin được thực
phẩm trong bình bát, ông đem
thực phẩm chia cho quỷ đói. Người đời
sau bắt chước phép hành thiện của ông A Nan
Đà mà có lễ Bon Vu Lan.
Một nguyên nhân khác nữa giải thích lễ Bon Vu Lan tại
Ấn Độ lấy dẫn chứng trong bổn Luật
kinh Vinaya của trường Sarvastivada (Nhất thiết hữu
bộ). Kinh ghi rõ lời dạy của đức Phật
cho tì kheo đương thời là mỗi khi đi xin thực
phẩm trở về chùa phải để dành một
bát đầy thực phẩm cúng cho loại vong hồn
Hariti. Hariti là một con quỷ cái chuyên giết người
hút máu, bị kẻ thù rượt chém nên đánh
lạc đứa con trai. Đức Phật cứu đứa
bé, dấu vào áo và đem
trả cho người mẹ. Harati cảm kích, lại
được Phật cảm hóa, bèn
xin quy y, xin bỏ lệ giết hại người và xin
chịu đói khát
để đền tội. Phật
dạy phải lấy lòng từ bi cấp dưỡng, và
do đó có lễ Bon Vu Lan.
Lễ Vu Lan tại Trung Hoa.
Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa bắt đầu
thiết lễ Vu Lan dưới thời Nam Bắc triều
vào thế kỷ thứ Sáu. Tài liệu
cũ nhất tìm thấy trong Phật Tổ thống chí
ghi là lễ được thiết vào ngày Rằm Tháng Bảy
năm 538 TL. Vua Vũ
đế nhà Lương đến lễ Phật tại
Đông Đài Tự và dâng lễ Vu
Lan. Nhưng lễ Vu Lan ngày đó chỉ dành cho vua chúa và
qúy tộc thiết lễ trong các ngôi chùa lớn, chưa
phải là một dịp hội hè của dân gian. Phải
chờ đến hai trăm
năm sau, dưới triều Đường Thái Tôn mới
thấy trong Thích Thị ký cổ lược ghi rõ
ngày lễ Vu Lan, tháng Bảy năm
766 TL, được thiết trong triều có lễ rước
Kiệu Phật vào cung đình, và sau
đó đem trưng
bày Xá lợi tại Quảng An Môn
cho dân chúng chiêm ngưỡng. Từ ngày đó lễ Vu
Lan mới thành ra một ngày lễ cho đại
chúng tham gia. Đồng thời, ý nghĩa của ngày Vu
Lan cũng thay đổi như ta sẽ thấy ở sau.
Khoảng giữa thế kỷ thứ Tám, vào đời
Đường, có một vị pháp sư Ấn Độ
tên là Amoghavajra, tinh thông giáo lý nhà Phật,
muốn đạo Phật tập quán nhiều hơn vào
truyền thống xã hội Trung Hoa tôn trọng việc thờ
cúng tổ tiên, nên thay đổi ý nghĩa của ngày Vu
Lan, làm thành ngày lễ hướng về tất cả
vong hồn những người đã chết vì loạn lạc,
chiến tranh, chết không có con cái thờ tự, chết
vì nghèo đói; danh từ Phật gọi chung là ngạ quỷ.
Cũng vào thời kỳ này gọi là Thịnh Đường,
đạo Phật trở nên cực
kỳ hưng thịnh, cho nên cách thiết lễ Vu Lan cũng
đổi thay. Đến
rằm tháng Bảy, trong mọi gia cư và
tại chùa, dân gian xây đàn, làm chay để cúng
vong hồn; đồng thời ngoài cộng đồng,
nơi các chùa lớn lại có tục
lệ tổ chức chưng bày các bảo vật thờ
tự đức Phật, như là di tích của đức
Phật (ví dụ, Xá lợi là di vật nhục thân của
đức Phật
đựng trong bình đá, bình ngọc) đem từ
Ấn Độ sang, hoặc là các bổn
kinh chép bằng chữ Sanskrit hay Pali, khắc trên đá,
đẽo trên gỗ, chép trên lá cót,
lá gồi...) cho dân chúng được phép chiêm ngưỡng.
Đồng thời nhà chùa lại khuyến khích các gia
đình giàu có tham gia cuộc triển lãm bằng cách chưng
bày các của riêng trân
châu dị bảo cho khách thập phương từ xa
đến thưởng ngoạn. Khách đi xem trong tỉnh,
ngoài tỉnh đến dựng lều ở trên đất
chùa, và tổ chức các buổi ca vũ,
hát tuồng, thi đua tranh tài võ nghệ, thi đua khoe tài
nấu nướng các món chay làm lễ cúng Phật và thết
đãi người
đồng đạo. Từ đó mà
có ý nghĩa thiêng liêng "Đại
hội Vu Lan", xá tội cho những linh hồn chết
bị nghiệp đày đọa và
cởi mở cho những linh hồn sống vui tươi,
hành thiện. Đại sư Amoghavajra hiểu rõ là đạo
Phật từ Ấn Độ vào
Trung Hoa phải vượt qua cái điều
chướng ngại căn bản là
truyền thống luân lý Trung Hoa từ lúc mới khai sáng,
dựa trên nền tảng hiếu đạo: Nguyên thủy,
đạo Phật dạy
xuất thế, từ chối gia đình để hướng
tới giải thoát nghiệp. Từ chối vợ con tức
là chối bỏ cái sứ mệnh nối
dõi giòng họ để cúng
giỗ; từ chối gia đình tức
là bỏ cha mẹ không nuôi dưỡng. Người Trung
Hoa khó lòng mà chấp nhận giáo lý nhà Phật chủ trương
như vậy.
Để giải quyết chướng ngại đó,
đạo Phật phải tập quán vào
xã hội vĩ đại của Trung Hoa bằng ba
phương cách. Thứ nhất là dịch thuật và diễn
giải các bộ kinh Phật liên hệ đến
chữ hiếu, đã có sẵn rất nhiều trong kinh
điển Sanskrit và Pali vừa mới
du nhập vào nước Tàu, để chứng minh là
giáo lý Phật cũng nặng chữ hiếu không kém truyền
thống Trung Hoa. Phương cách thứ hai là thiết
lập một số kinh điển mới do các đại
sư Ấn Độ và Trung Hoa rút ý trong kinh điển
nhà Phật viết ra, chú trọng
vào hiếu để. Phương cách thứ ba còn siêu việt
hơn nữa. Chữ hiếu cổ truyền của
người Trung Hoa chỉ giới hạn trong phạm vi
gia đình: cha mẹ ông bà. Chữ hiếu của nhà Phật
bao gồm người sống và người chết: những
người đã chết trong bao nhiêu đời trước
(tổ tiên), rộng hơn nữa là những người
đã chết cô quả không người cúng tế, và
chính ngay những người đang sống vì trả nợ
kiếp trước. Chữ hiếu theo quan niệm nhà Phật
bỏ cái quan niệm cá nhân và gia đình để bao trùm
hoàn vũ, lại còn đi vào chiều sâu thời gian. Ý
niệm hiếu để
của đạo Phật vượt lên
bậc siêu đẳng,
đáp ứng với nhu cầu hướng thiện và
hướng linh của con người.
Ta thử lược qua kinh điển để dẫn
chứng cụ thể những điều nói trên. Đời
Hậu Hán, An Thế Cao (An Shih-Kao) dịch trước tiên
hai bộ kinh liên hệ đến chữ hiếu: Kinh
Thi-Ca-Việt Lục Phương Lễ, và kinh Phụ Mẫu
Ân Nan Báo. Tiếp theo đời
Ngũ đại, đại sư Tân Pháp Tư dịch bộ
kinh Phật Thuyết Thiện Sinh Tử. Hai bộ kinh
căn bản của trường Phật giáo Nguyên
thủy là Trường A Hàm và Trung A Hàm, được
dịch ra Hán văn từ thế kỷ Bốn và Năm
cũng nhắc lại lời dạy của đức Phật
về chữ hiếu.
Thế nhưng muốn đề cập đến vấn
đề hiếu để trong đạo Phật, ta phải
đọc đến hai bộ kinh căn bản là bộ
Kinh "Bồ Tát Thiện Tử" nói đến một
người con có hiếu tên là Thiện
Tử và bộ Kinh "Vu Lan Bồn" do đại
sư Pháp Phong dịch dưới đời Tây Tấn,
nói đến sự tích Mục Kiện Liên, một vị
đại đệ tử của đức Phật.
Kinh Bồ Tát Thiện Tử do một nhà sư
vô danh dịch ra Hán văn dưới đời Tây Tấn,
được chùa Trung Hoa xem là bổn
kinh, nhưng thật sự là trích ra trong Truyện Tiền
Thân của đức Phật (Jataka). Thiện Tử
(Sanskrit là Syama; Pali, Sama) là một vị bồ tát đã
tình nguyện đầu thai làm con một cặp vợ chồng
đui mù đã phát nguyện từ bỏ đời sống
phù du nơi thành thị, đến
ở một hang núi để tu tập. Đứa con lớn
lên rất có hiếu với cha mẹ
và đem cha mẹ vào ở trong một hang núi để
thực hiện điều nguyện ước. Một hôm
Thiện Tử đội chiếc áo da nai xuống suối
lấy nước. Nhà vua đi
săn qua đó, tưởng lầm là
thú, bắn mũi tên độc vào chàng trai. Thiện Tử
nằm chờ chết, không oán hận nhà vua, cho là mình chết
vì nghiệp, nhưng tiếc thương vì còn cha mẹ
già không ai nuôi dưỡng. Ông và bà cụ già mò đến
xác Thiện Tử. Người cha ôm
đầu con truyền hơi thở, người mẹ
đặt miệng vào vết thương cố hút chất
độc ra. Trong cơn đau đớn họ nguyện
cầu đức Phật cứu độ. Tức thì
Phật Quán Thế Âm hiện ra, chữa lành vết thương
cho Thiện Tử, và đồng thời cứu cha mẹ
Thiện Tử khỏi mù lòa. Cuốn kinh kết
luận bằng lời dạy của đức Phật là
hiếu để sẽ thắng mọi điều khổ
ải. Câu chuyện này rất phổ
thông trong dân gian Trung Hoa. Chuyện Thiện Tử còn
được nhắc lại trong hai bổn kinh là "Lục
Độ Thập Kinh" và "Pháp Uyển Châu Lâm".
Thầy Huyền Trang (Đường Tam Tạng)
cũng có thuật lại chuyện Thiện Tử trong
sách "Đại Đường Tây Vực Ký".
Sang đời Tống, chuyện Thiện Tử được
hoàn toàn Trung Hoa hóa, trở thành một
trong hai mươi bốn mô hình của Nhị Thập Tứ
Hiếu và Thiện Tử được
đổi tên là Yến Tử, chi tiết
câu chuyện được
đặt vào một cảnh vực
Trung Hoa hơn.
Chuyện hiếu của Mục Liên tả trong kinh Vu Lan Bồn
lại càng phổ thông hơn trong các nước Á Đông
theo Phật giáo Đại Thừa. Kinh Vu-lan-bồn do đại
sư Ấn độ Pháp Phong (Dharmaraksha, Đàm-ma-la-sát,
phiên âm chữ Nho) dịch vào cuối đời Tây Tấn.
Bổn kinh này liên hệ trực tiếp với lễ Vu
Lan, nội dung của bổn kinh lại còn trình bày rõ
ràng hơn quan niệm của đạo
Phật về chữ hiếu, ta đã nói ở đoạn
trên.
Ý niệm xuất thế của đạo Phật, bỏ
nhà đi tu, không trọn hiếu đạo với cha mẹ,
được Kinh Vu Lan giải tỏa
và người Trung Hoa cùng với các dân tộc khác ở
Á Đông đã
nồng nhiệt chấp nhận phương cách giải
thích như vậy. Ở Trung Hoa ngày đó, sự tích Mục
Kiền Liên được
phổ cập quanh năm trong nhân gian, không những trong
chùa vào ngày lễ lạc, mà ở khắp
mọi nơi, trong nhà thành câu hát ru em, ngoài chợ thành
bài vè cho người hát xẩm, tạo nên một loại
văn chương gọi là biền văn.
Đầu thế kỷ Hai mươi, khi khám phá ra các
động thờ Phật tại Đôn Hoàng
(Tân Cương) ngừơi ta tìm được
nhiều bổn biền văn này, như
là "Mục Kiền Liên biền văn", "Mục
Kiền Liên Lục Khởi" và bộ "Đại Mục
Kiền Liên Minh Cứu Mẫu Kiến Văn
tịnh độ". Các tài liệu
này đều
được trước bạ trong sách "Đôn hoàng
trích yếu lục" của chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc
ấn hành tại Bắc Kinh năm 1931.
Các bổn chánh đã bị người Âu châu chiếm
đoạt, đem giữ tại Bibliothèque
Nationale de Paris và British Museum.
Sự tích Mục Liên được kể rõ với
đầy đủ
chi tiết trong ba tài liệu nói trên,
và từ ngày đó làm đề tài cho nhiều tác phẩm
văn học nghệ thuật tại Trung Hoa. Quan trọng
hơn hết là một tác phẩm nghị luận (được
kinh điển nhà Phật xếp vào
bộ Luận) của đại
sư Tông Mật. Nơi đây ta cần nói rõ
hơn là ông xuất thân từ quý gia vọng tộc, từ
nhỏ học đạo Khổng rất uyên thâm, và trở
thành một bậc chân tu theo đạo Phật. Ông dựa
trên Kinh Vu Lan để
lập luận, so sánh chữ hiếu giữa đạo Khổng
và đạo Phật. Theo ông, đạo Phật không khác
đạo Khổng, đặt vấn đề hiếu
đạo lên hàng đầu.
Kinh Phật từ Ấn Độ sang "gồm có Kinh (là
lời dạy của đức Phật) và
Luật là giới hạnh của người
tu Phật. Kinh đề ra nguyên tắc
và trí huệ; Luật đề
ra phép tắc để hành trì. Luật
có cả hàng vạn điều,
nhưng điều căn bản là hiếu đạo".
Ông dẫn chứng bổn kinh Phạm Võng (được
xem là kinh Luật căn bản của Phật giáo Đại
thừa): "Khi đức Phật giác ngộ dưới
cây Bồ đề, Ngài công bố
luật Pratimoskha (tùy thuận giải thoát) cho người
tu đạo bồ-tát, và luật này dựa trên nền tảng
hiếu đạo".
Tông Mật cho rằng Nho giáo dạy chúng ta sống xứng
đáng để thanh danh lại cho con cháu đời sau,
nhưng chính Phật giáo lại dạy ta điều nhập
thế là truyền bá lòng từ bi
nhân ái cho thế hệ hiện tại đang sống chung
quanh ta. Nho giáo dạy lễ nghi, chẳng hạn ngày giỗ
ngày Tết phải sát sanh để làm giỗ tổ tiên;
đạo Phật hiếu sinh hơn, dạy ta cầu nguyện
nhưng không sinh sát. Tông Mật còn đi xa
hơn, đề quyết là đức Phật ngày xưa
bỏ ngôi đi tu chính là vì "muốn
báo hiếu cho cha mẹ, không muốn cha mẹ kiếp kiếp
bị trầm luân".
Lập luận dựa trên kinh Vu Lan để trình bày quan
điểm của
đạo Phật đối với chữ hiếu,
như Tông Mật và các nhà học Phật
thời bấy giờ
chắc chắn đã tháo gỡ được rất nhiều
các mối dè dặt của giới nho sĩ đối với
đạo của Thích Ca. Do đó mà
vào đời Thịnh
Đường, lúc đạo Phật thâu hút toàn bộ
nhân dân Á Đông và Trung Hoa, người ta đã
thiết lễ Vu Lan như là một ngày hội chánh,
đầy ý nghĩa tôn giáo và xã hội.
Lễ Vu lan và lễ Trung Nguyên.
Một điều thường gây thắc mắc cho người
học Phật là sự trùng hợp
giữa lễ Vu Lan và lễ Trung Nguyên. Xã hội nông nghiệp
Trung Hoa buộc người nông dân lam lũ suốt năm
trừ ra ba dịp nghỉ ngơi giải trí: đầu
năm có lễ Thượng Nguyên, giữa năm có lễ
Trung Nguyên, và cuối năm lễ Hạ
Nguyên. Một số nhà nghiên cứu về văn
minh Trung Quốc khẳng định nguồn gốc của
ba buổi lễ trên xuất từ đạo Lão, hướng
mọi hoạt động nhân sinh về thiên
nhiên. Vào dịp đầu
năm, người nông dân vui sống
hội hè đình đám suốt tháng giêng; vào cuối năm
lại nô nức nghênh tiếp năm mới. Người
Tàu thiết lễ Hạ Nguyên vào rằm tháng Mười.
Giữa tháng Bảy là thời kỳ nắng bức nhất
trong năm, cũng là lúc nông dân gặt hái mùa màng vừa
xong, nên có cơ hội tổ chức hội hè đình
đám làm lễ Trung Nguyên. Khí trời nắng ấm, người
Tàu đi từ làng này sang thôn khác thăm viếng họ
hàng và bạn bè, biếu xén qùa cáp. Lễ Trung Nguyên
thành ra một cơ hội thắt chặc đời sống
gia tộc và cộng đồng.
Lúc đạo Phật vào Trung Hoa,
sẵn có tính cách linh động tập quán, lại gặp
môi trường thuận tiện là
người Trung Hoa rất chuộng thực tế, ghép ba
buổi lễ trên thành ra ba ngày lễ Phật: Thượng
Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Lễ Vu Lan thành ra trùng hợp
với lễ Trung Nguyên. Nhà chùa ngày đó rất giàu có,
cung cấp cảnh trí cho sinh hoạt cộng đồng
trong dịp Trung Nguyên, và vào ngày rằm thiết lễ Phật
nơi chánh điện. Tập tục này từ Trung Hoa
theo đạo Phật sang Nhật Bổn, ngày Trung Nguyên gọi
là Chugen, lễ cúng cô hồn, ta sẽ nói ở sau.
Lễ Vu
Lan có từ Ấn Độ hay xuất khởi tại
Trung Hoa ?
Đọc kỹ những tài liệu
ở trên về gốc tích lễ Vu Lan ở Ấn Độ
và Trung Hoa do các học giả mới của trường
Ấn Độ và trường Nhật Bổn trình bày,
người học Phật như chúng ta không thể tự
kiềm chế để
đặt câu hỏi là lễ
Vu Lan đã thật có tại Ấn Độ từ ngày
xa xưa trước Thích Ca chăng, hay là
lễ Vu Lan chỉ là một sản phẩm do nhu cầu hoằng
dương đạo
Phật lúc đạo Phật vào
Trung Hoa. Vế thứ nhất của câu hỏi "trước
Thích-ca có lễ Vu-lan không" có lẽ rất hợp lý,
vì tại các quốc
gia sống trong văn minh Ấn Độ và
cùng thờ đạo
Phật như Miến Đyện, Thái Lan, Cam Bốt, Lào,
Nam Dương... không thấy thiết lễ Vu Lan. Tuy nhiên
điều thắc mắc này dễ giải đáp. Tập
tục thờ cúng người khuất vãn đã có trong
kinh Vệ Đà, trước đức Phật cả nghìn
năm, tất nhiên
phải được tiếp tục trong thời Phật
giáo ở Ấn Độ, và vẫn tồn tại cho
đến ngày nay tại Ấn Độ.
Vế thứ hai của câu hỏi, ta thử đặt lại
cho gọn và dễ hiểu: Kinh Ullambana Sutra do đức
Phật thuyết, được dịch qua tiếng Hán,
hay chỉ là sản phẩm của
tín đồ đức Phật khi đi truyền giáo sang
Trung Hoa ?
Nếu ta căn cứ trên bổn
tài liệu về thư mục quan trọng nhất của
kinh điển Phật
giáo do đại sư Bunyo Nanjio soạn thảo Catalogue
Chinese Translation of The Buddhist Tripitaka, Oxford 1883, Kinh Ullambana Sutra
được ghi là đã chép qua văn tự dưới
thời Phật giáo Nguyên thủy và
sau, được dịch
qua Hán ngữ. Nhưng có ba điểm nghi vấn mà các học
giả trường Đại thừa Nhật Bổn nêu
lên, đề nghị phải nghiên cứu lại. Thứ
nhất là về niên lịch và xuất xứ của cuốn
kinh và cá nhân của
dịch giả. Kinh điển nhà Phật được
tổng kê vào nhiều bổn tổng
thư mục (catalogue), và cuốn kinh Ullambana Sutra được
tìm thấy trong bổn tổng thư mục Xuất Tam tạng
Ký tập, Quyển IV, ấn hành vào khoảng thời gian
445-518 TL. Không có tên dịch giả, chỉ
ghi đơn sơ một giòng: "Không thấy danh tánh dịch
giả". Cuốn tổng thư mục tiếp theo Lịch
đại tam bửu ký ghi cuốn kinh, lại có tên
người dịch là đại
sư Dharmaraksa (Đàm-ma-la-sát, còn gọi
là Pháp Phong), sống dưới đời Tây Tấn. Chỉ
một tín hiệu là hai bổn
tổng thư mục gần như đương thời
mà một bổn có tên dịch giả,
một bổn không, cũng đủ
để cho đời sau nghi ngại.
Điểm nghi vấn thứ hai do chính cuốn kinh tạo
nên. Từ ullambana được dịch là
vu-lan-bồn. Ullam có nghĩa là đảo huyền, treo
ngược, phiên âm thành vu-lan, nhưng từ chữ bana
qua chữ bồn (là chiếc thuyền, chiếc khay đựng
thực phẩm) tuy có lời giải thích của đại
sư Tông Mật và những điểm dẫn chứng,
ta vẫn thấy khó thỏa mãn được điều
đòi hỏi suy luận duy lý.
Điểm nghi vấn quan trọng hơn hết là
nội dung bổn kinh. Ngoài bổn Vu Lan Bồn Kinh do
Dharmaraksa dịch, ta còn tìm thấy trong đại
tập Pháp Uyển Châu Lâm một bản dịch thứ
hai với tựa đề Báo Ân Phụ Mẫu Kinh, không
có tên dịch giả. Phần đầu của hai bổn
dịch không thấy điểm nào
khác nhau. Duy phần kết của bổn dịch hai Báo Ân
Phụ Mẫu Kinh chấm dứt ở chỗ ông Mục
Kiện Liên sau trai giới vào hạ ba tháng (từ rằm
tháng Tư cho đến
rằm tháng Bảy), dâng thực phẩm hương hoa cho
tăng đoàn xin giúp lời cầu
nguyện, và nhờ vậy bà mẹ được
xóa tội đọa đày. Bổn
dịch thứ nhất, Kinh Vu Lan bổn Kinh, dài hơn bổn
thứ hai, có thêm đoạn ông Mục Kiền Liên cầu
xin đức Phật cho tất cả cha mẹ tổ tiên
của chúng sinh đang
bị đọa đày, nếu có con cái hiếu thảo
biết dâng lễ Vu Lan cầu xin chuộc tội, cũng
sẽ được xóa tội. Đức Phật đã
phán quyết y theo lời xin.
Như vậy, các dữ kiện vừa trình bày trên dẫn
đến kết luận là Kinh Vu Lan Bồn nhất định
đã được đức Phật thuyết vào
thời kỳ nguyên thủy. Vì nhu cầu hoằng pháp phải
thích ứng vào bổn tính chuộng thiết thực của
người Trung Hoa, phần phụ lục
chi tiết ở đoạn sau đã được thay
đổi khi phiên dịch tại
Trung Hoa.
Lễ Vu Lan tại Nhật Bổn.
Nước Nhật Bổn ngày nay đứng vào hàng
đầu trong kỷ nguyên văn
minh hậu kỹ nghệ, được sắp hạng tối
ưu trong các lãnh vực tiền phong như điện toán,
tín hiệu... Và cũng không có một
dân tộc nào như người Nhật, đi mau và đi
trước nhưng vẫn giữ tối đa nếp sống
cổ truyền đã có từ mấy
nghìn năm trước. Lễ Vu-lan tại Nhật gọi
là lễ Bon, viết tắt chữ urabon, còn viết là
urambon. Trước Thế-chiến II, Vu-lan Bon là ngày lễ
công lập, công sở và trường học đóng
cửa, nhân công được nghỉ việc ăn
lương. Hai ngày lễ quan trọng nhất trong năm là
ngày Nguyên đán và ngày Vu Lan Bon. Tưởng cần nhắc
lại là nước Nhật đang dùng dương lịch
nhưng vài địa phương và trong các chùa vẫn
giữ âm lịch. Tục
lệ khuyến khích những người đi làm ăn
xa gia đình trong dịp Nguyên đán
và Vu Lan phải trở về nhà sum họp và dâng lễ
cúng tổ tiên. Vì vậy mà vào hai dịp lễ lớn
đó các phương tiện chuyên chở tư nhân hay
công cộng đều tấp nập kèn kẹt từ cuối
tháng Sáu cho đến
giữa tháng Bảy.
Cho đến ngày nay, trong các cộng đồng truyền
thông đặc biệt ở vùng
quê, dân chúng chuẩn bị lễ Vu Lan Bon từ ngày mồng
một tháng Bảy. Trong mỗi gia cư người Nhật
đều có một bàn thờ Phật gọi là Budsudan.
Đầu tháng Bảy,
người ta đặt trước
bàn thờ Phật một chiếc bàn vong Shoryodana, trên bàn
vong đặt bài vị để
đón tiếp hương linh người qúa vãn.
Ngày mồng Bảy gọi là ngày Nanoka Bon, gia chủ hay người
trưởng tộc đi mở cửa mả (tức là
quét dọn, làm cỏ) và làm lễ tại ngôi mộ gia
tiên, và từ ngôi mộ
về đến nhà trải một
giây vải trắng gọi là bommichi để chỉ lối
cho người chết trở lại nhà. Trên lối
đi nhiều nơi còn treo đèn lồng ở mỗi
khúc rẽ cho vong hồn khỏi lạc, và mỗi gia cư
tứ bề thắp đèn lồng treo quanh máng xối.
Nhiều gia đình ý tứ hơn, đem
cúng cả ngựa, cả xe kết bằng rơm, hoặc
bằng giấy, bằng hoa quả để cho người
chết dùng làm phương tiện
trở lại nhà. Ngày 13 gọi là ngày "đón vong hồn"
(Mukac Bon), ngoài mộ và trên bàn vong chưng đầy
hoa đẹp gọi là Bonbana. Lúc xế chiều, đốt
đèn ngoài cửa
tiếp đón vong hồn. Lửa này giữ cho đến
ngày 16, gọi là ngày "tiễn
đưa vong hồn" (Okuri Bon). Tại một vài địa
phương lại còn có tục lệ nhảy múa Vu Lan gọi
là Bon odori, chào mừng tổ tiên trở lại nhà sum họp
với con cháu mỗi năm một lần. Sau Thế chiến
II, để phát triển
kỹ nghệ du lịch, lệ nhảy múa Bon odori
được tổ chức rất đẹp và
trọng thể.
Như trên đã nói, người Trung Hoa theo tập tục
Ấn Độ thiết
lễ Vu Lan, biến đổi thành
ra buổi lễ chuộc tội cho tổ tiên riêng mỗi
gia đình. Về sau, ý niệm từ bi của đạo
Phật phát triển mạnh, lễ Vu Lan hướng về
người chết nói chung, không riêng trong gia đình.
Người Nhật đem lễ Vu Lan vào
nước Nhật dưới thời nữ hoàng Suiko và
phát huy rõ hơn cái ý niệm từ bi hiếu sinh của
đạo Phật. Chồng của nữ hoàng Suiko là
Thánh Đức Thái Tử trị vì từ năm
574 tới năm 622 TL. Ông là người phát huy đạo
Phật lớn mạnh tại Nhật, đưa Phật
giáo lên làm quốc giáo. Năm 606, nữ
hoàng chỉ dụ cho tất cả chùa chiền trong nước
thiết lễ Vu Lan, và tiếp tục mỗi năm.
Người Nhật cũng theo đạo Phật Trung Hoa
thiết lễ Trung Nguyên, gọi là Chugen, nhưng biến
đổi có quy tắc
hơn. Tại Nhật, lễ Vu Lan Bon được phân
biệt hai phần: lễ cúng tổ tiên trong gia đình,
và lễ cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn có tên là
Segaki-e, có nghĩa là dâng thực phẩm cho linh hồn bị
phiêu bạt đói
khát, là một ngày lễ Phật
riêng biệt, thường không có ngày nhất định,
nhưng về sau thiết vào dịp Vu Lan, lấy một
ngày trong bốn ngày urabon làm lễ.
Giữa thế kỷ Mười chín, Thiên hoàng Minh Trị
canh tân nước Nhật. Công cuộc duy tân và kỹ
nghệ hóa buộc phải giản dị hóa các hội
hè đình đám, nên lễ urabon và sagaki-e ngày nay biến
thành lễ chung.
Nước Nhật phú cường hiện tại có
khuynh hướng trở lại đời sống tinh thần
và tôn giáo. Ta hãy nghe giáo sư Kenneth
Chen, viện Đại học Princeton, nói về lễ Vu
Lan tại Nhật ngày nay ("Buddhism, The Light of Asia",
Barron, New York 1978, người viết phỏng dịch trang
263). "Trong mỗi gia đình, dân chúng chưng dọn bàn
thờ, dâng cúng hoa quả và thức ăn
đặc biệt cho vong hồn. Chiếu trải ra giữa
sân, đặt các món ăn như mì
sợi, chè kê, canh bí ngô, canh dưa gang, cá hấp. Đúng
ngày mười ba, lại cúng một món chè trôi nước
đặc biệt
để tiếp đón khách vong hồn mới về.
Ngày hôm sau mười bốn, cúng
chè khoai và cà hấp trộn mè. Ngày mười lăm
hay mười sáu cúng tiễn, có cơm đùm
lá sen, và chè bọc nhân đậu. Mỗi ngày, hương
đèn trên bàn thờ không để lụi, luôn luôn châm
thêm hương hoa trà nước. Vào ngày mười ba,
khi bắt đầu lễ, người trong nhà đi viếng
và thắp đèn trên mộ, đồng
thời thắp đèn ở cổng
nhà, hàm ý dẫn đường cho vong hồn biết lối
trở lại nhà hưởng cúng phẩm. Ngày mười
lăm cúng tiễn, cũng
thắp đèn gọi là đèn tạm
biệt tiễn đưa vong hồn. Tại các làng xóm gần
sông lạch và hồ biển, thường có người
chết vì sông nước, lại có lệ sắm các thuyền
bé tí hon, đặt cúng phẩm lên trên và thắp đèn
đem thả xuống giòng nước.
Cái hình ảnh đèn thắp trên cổng nhà, tiếp với
ánh sáng le lói trên con thuyền tí hon dưới sông trôi xa
theo ngọn nước, tiêu biểu cho cái ý niệm gắn
liền người sống thực tại với người
đã ra đi vào cõi hư vô".
Bài sưu khảo nhỏ bé này chỉ hoàn tất khi bổ
túc được việc tìm hiểu lễ Vu Lan tại
Việt Nam. Nếu chúng ta thử đặt qua bên cái mặc
cảm sô-vanh, chúng ta phải nhận thức là các tài liệu
nghiên cứu xã hội và tôn giáo của quê hương
ta rất nghèo nàn. Suốt một thế kỷ sống dưới
sự đô hộ của người Pháp, tiếp theo
là một cuộc chiến tranh huynh đệ triền miên,
có mấy đủ phương tiện và thì giờ
để tìm học cặn kẽ những sinh hoạt
tôn giáo như vấn đề nhỏ nêu ra ở đây
là lễ Vu Lan. Ở Hà Nội hiện nay có một viện
Nghiên cứu Khoa học Xã hội (chắc phải có phần
cho tôn giáo), ở ngoài nước các phương tiện
chất xám và vật chất càng đầy
đủ hơn, ta hy vọng trong tương lai sẽ
được đọc và học một
tác phẩm khảo cứu tường tận về lễ
Vu Lan Việt Nam./.
|