Phật Học Online

Đức Phật là bậc nhất thiết trí
TT T Giác Dũng

Đức Phật có nhiều danh xưng khác nhau như Như lai, Thiện thệ, Chánh đẳng giác, Thế tôn, Đạo sư, bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Toàn giác, v.v... Bậc Nhất thiết trí là danh xưng của chư Phật không phải là danh xưng của đức Phật Thích Ca. Vị nào đạt được Phật qủa, vị đó có Nhất thiết trí. Nói cách khác, Phật là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết trí là Phật. Bậc Nhất thiết trí là bậc có trí tuệ hiểu biết tất cả (nội dung cụ thể sẽ được trình bày ở phần sau), được dịch từ từ sabbaññù, sabbavidù (Pàli) hay từ sarvajña[1] (Sanskrit). Từ sabbaññù (hay sarvajña) có khi được dịch là bậc Nhất thiết trí, bậc Toàn tri, bậc Toàn giác[2]...Để bài viết được thống nhất, người viết sẽ sử dụng từ ngữ Nhất thiết trí. Người đệ tử Phật dù xuất gia hay tại gia nếu có học Phật pháp thì đều biết rõ đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Vì điều đó được ghi rất rõ không những trong kinh điển Phật giáo Đại thừa mà ngay cả trong kinh điển A-hàm[3].

Bài viết này có hai phần : Phần I : Trích dẫn. Ở đây, người viết chỉ trích dẫn các đoạn trong kinh điển A-hàm nói về Nhất thiết trí của đức Phật, không lý luận vì tự thân những ghi chép của kinh điển A-hàm đã nói rất rõ (không cần nhờ tới lý luận hay hý luận) rằng ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’; Phần II : Nội dung của Nhất thiết trí. Trước khi đi vào nội dung chính, người viết thấy cần khẳng định một điều : Kinh luật Phật giáo (từ kinh điển A-hàm cho tới kinh điển Đại thừa Phật giáo) đều ghi rõ : “Đức Phật là bậc Nhất thiết trí”, Nhất thiết trí đó chính là Ba minh (Tam minh) và Nhất thiết trí của đức Phật không phải là Nhất thiết trí của ngoại đạo. 

I. Trích dẫn  

I.1. Kinh luật Pàli 

I.1.1. Kinh Trung bộ, Kinh Thánh cầu số 26 

Sau khi thành đạo, đức Phật đi tới vườn Lộc uyển để thuyết pháp cho năm vị tì kheo cùng tu với Ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Upaka đã hỏi tại sao đức Phật xuất gia, ai là bậc đạo sư của đức Ngài, v.v... đức Phật trả lời :

"-- Ta, bậc Thắng tất cả, 

Ta, bậc Nhất thiết trí (sabbavidù) ... "[4]. 

I.1.2. Luật tạng Pàli 

Nội dung giống như đoạn vừa được trích dẫn ở trên : Đức Phật trả lời câu hỏi của người ngoại đạo Upaka như sau : 

"-- Ta, bậc Thắng tất cả, 

Ta, bậc Nhất thiết trí (sabbavidù) ... "[5].  

I.1.3. Kinh Bản sanh quyển I, phần II : Nhân duyên gần (avidùre-nidàna)

Phần Nhân duyên gần này ghi lại lịch sử của đức Phật, bắt đầu từ khi Ngài còn ở cung trời Đâu suất cho tới khi Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ đề. Đoạn trích dẫn sau đây diễn tả tiến trình Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ đề.

 “Khi trời chưa tối, bậc Đại nhân hàng phục ma binh... Canh đầu[6] Ngài chứng được túc trụ trí, canh hai Ngài đạt được thiên nhãn thanh tịnh, canh cuối Ngài đạt được trí duyên sanh...Khi ánh bình minh xuất hiện, mười ngàn thế giới phát ra âm thanh vi tế, bậc Đại nhân đạt được trí chân thật của bậc Nhất thiết trí (sabbaññùta)...

Như vậy, chúng ta phải hiểu : câu chuyện bắt đầu từ cung trời Đâu suất cho tới khi Bồ tát đạt được trí chân thật của bậc Nhất thiết trí được gọi là nhân duyên gần.”[7].  

I.1.4. Kinh Bản sanh quyển IV, chuyện số 479 : Tiền thân Kalinga-Bodhi

Tóm tắt đoạn có liên quan tới chủ đề : Sau khi thống trị thiên hạ, vua Kalinga cưỡi voi chúa, bay trên không trung về thăm cố hương. Đang bay, bỗng nhiên voi chúa dừng lại. Nhà vua dùng roi thúc giục nhiều lần, voi chúa vẫn không di động. Bấy giờ, tế sư Bhàradvàja (tiền thân của đức Phật) liền xuống tìm hiểu. Sau khi tìm hiểu xong, vị tế sư bay lên không trung tâu với vua rằng khu vực này có cây Bồ đề là nơi chư Phật đắc đạo và khuyên nhà vua nên xuống đảnh lễ cây Bồ đề. Khi xuống tới nơi, thấy khung cảnh linh thiêng, nhà vua khen ngợi tế sư chính là bậc Nhất thiết trí nhưng tế sư không dám nhận những lời khen thái qúa đó và trả lời rằng chư Phật mới xứng đáng những lời khen như thế.

 Lúc bấy giờ, đức Phật dùng bài kệ giải thích việc này :

“ Không nhận những lời khen thái qúa đó,

  Bà la môn Bhàradvàja tâu với vua rằng :

   Thưa đại vương, thần chỉ là một người đoán tướng số, 

Chư Phật mới là những bậc Nhất thiết trí (sabbaññù).”[8]. 

I.1.5. Mi-Tiên vấn đáp[9]

Trong Mi-Tiên vấn đáp, có hai lần Vua Mi-lan-đà[10] hỏi ngài Na-tiên[11] : “ Thưa ngài Na-tiên, đức Phật có phải là bậc Nhất thiết trí (sabbaññù), bậc Nhất thiết kiến không?”. Cả hai lần, ngài Na-tiên đều trả lời : “Thưa đại vương, đức Phật là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến.”[12]. Ngoài ra, còn có nhiều lần vua Mi-lan-đà nghi ngờ và gặn hỏi ngài Na-tiên về Nhất thiết trí của đức Phật. Dưới đây chỉ ghi lại đại ý của hai lần. 

Có một lần, vua hỏi rằng nếu đức Phật là bậc Nhất thiết trí, tại sao Ngài không chế ra giới cấm cùng một lúc mà phải đợi có người phạm giới rồi mới chế. Ngài Na-tiên trả lời : Đức Phật cũng như thầy thuốc, biết tất cả các phương thuốc trị bệnh nhưng phải chờ khi nào có người bị bệnh và tùy theo căn bệnh của từng người mà cho thuốc. Sau đó, ngài Na-tiên khẳng định đức Phật là bậc Nhất thiết trí [13]. 

Chỗ khác, vua Mi-lan-đà hỏi ngài Na-tiên rằng nếu đức Phật biết Đề-bà-đạt-đa sau này sẽ phá hòa hợp tăng và do tội phá hòa hợp tăng này sẽ thọ nghiệp trong một kiếp mà vẫn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia thì đức Phật không phải là bậc Đại từ bi; còn nếu như không biết Đề-ba-đạt-đa sẽ phá hòa hợp tăng mà cho xuất gia thì đức Phật không phải là bậc Nhất thiết trí. Ngài Na-tiên trả lời rằng vì đức Phật là bậc Nhất thiết trí nên biết rất rõ Đề-bà-đạt-đa sẽ phá hòa hợp tăng, và vì ngài là bậc Đại từ bi nên mới cho Đề-ba-đạt-đa xuất gia. Nếu không xuất gia, ở tại gia, Đề-ba-đạt-đa sẽ còn tạo nghiệp nhiều hơn và sẽ thọ nghiệp trong trăm ngàn kiếp chứ không phải chỉ có một kiếp[14].  

I.2. Kinh luật Hán văn 

I.2.1. Trường A-hàm kinh, Kinh 1 : kinh Đại bản

Nội dung kinh này : đức Phật nói về chư Phật qúa khứ. Có một đoạn nói về đức Phật Tỳ-bà-thi như sau :

  “ Đấng Lưỡng túc khi sinh,
    Hai suối tự tuôn ra,
    Để cúng Bồ-tát dùng;
    Biến Nhãn tắm sạch sẽ.
    Hai suối tự tuôn ra,
    Nước suối rất trong sạch;
    Một ấm, một lạnh mát,
    Tắm đấng Nhất thiết trí.”[15]. 

I.2.2. Trung A-hàm kinh, kinh 62 : Kinh Tần-tì-sa-la vương nghinh Phật

Bấy giờ, trong chúng hội của đức Phật, dân chúng nước Ma-kiệt-đà cho rằng ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp là bậc đại tôn sư, là A-la-hán và tự hỏi : Không biết đức Phật theo ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp học phạm hạnh hay ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp theo đức Phật học phạm hạnh. Biết được tâm niệm của dân chúng nước Ma-kiệt-đà, đức Phật dạy ngài Ca-diếp (lúc bấy giờ đang ngồi trong chúng hội) hãy hiện như ý túc cho chúng hội được vui lòng và tin tưởng. Vâng lời dạy của đức Phật, ngài Ca-diếp liền biến mất khỏi chỗ đang ngồi, bay lên hư không, trong cùng một thân vừa phát ra lửa, vừa phun ra nước. Sau khi thể hiện như ý túc, ngài Ca-diếp đảnh lễ chân đức Phật và thưa rằng :

  “Bạch Thế Tôn, Phật là Thầy của con. Con là đệ tử của Phật. Phật thành tựu Nhất thiết trí. Con không có Nhất thiết trí.”

  Đức Thế Tôn bảo :

  “Thật vậy, Ca-diếp, thật vậy, Ca-diếp! Ta có Nhất thiết trí. Ông không có Nhất thiết trí.”[16]. 

I.2.3. Tạp A-hàm kinh, kinh 604 : A-dục vương nhân duyên

 Kinh ghi lại ý nghĩa cây Bồ-đề như sau :

  “ Cây Như Lai y cứ
    Gọi là cây Bồ-đề
    Tại đó thành Chánh giác
     Đầy đủ Nhất thiết trí.”[17]. 

I.2.4. Tạp A-hàm kinh, kinh 641 : A-dục vương thí bán A-ma-lặc qủa nhân duyên kinh

Nội dung kinh này nói việc vua A-dục thành tâm đem tất cả của báu cúng dường tam bảo, đặc biệt là chùa Kê tước do nhà vua xây dựng thêm. Trước khi chết, vua chắp tay làm lễ cảm niệm ân đức chư Phật rồi làm bài kệ :

“Nay, Diêm-phù-đề này,
 Nhiều trân bảo trang sức;
 Cúng cho ruộng phước lành,
 Tự nhiên được qủa báo.
 Đem công đức bố thí này,
 Chẳng cầu Thiên đế Thích;
 Phạm vương cùng nhân chủ,
 Các diệu lạc thế giới.
 Những qủa báo như vậy,
 Tôi đều không thụ dụng,
Nhờ công đức thí này,
Mà mau thành Phật đạo.
Nơi tôn ngưỡng cho đời,
Thành được Nhất thiết trí;
Làm bạn lành thế gian,
Là Đạo sư bậc nhất.”[18] 

I.2.5. Tạp A-hàm kinh, kinh 1207 : Thi-lợi-sa-gía-la

Ma Ba-tuần muốn gây chướng nạn cho tì kheo ni Thi-lợi-sa-gía-la nên hóa hiện thành thanh niên khôi ngô tuấn tú, đến chỗ của vị tì kheo ni đó và hỏi rằng “Cô thích đạo giáo nào?”. Tì kheo ni Thi-lợi-sa-gía-la dùng kệ trả lời :

   “Các đạo ngoài Pháp này,
    Bị các kiến trói buộc.
    Bị các kiến trói rồi,
    Thường bị ma khống chế.
    Nếu sanh nhà họ Thích,
    Không ai bằng Đại Sư;
    Hay dẹp các ma oán,
    Không bị chúng chế phục.
    Thanh tịnh thoát tất cả,
    Đạo nhãn quan sát khắp;
    Trí Nhất thiết ắt biết,...”[19]. 

I.2.6. Tăng nhất A-hàm kinh, phẩm Cao tràng 24, kinh số 5

 Sau khi thành đạo, đức Phật trong bảy ngày nhìn chăm chú vào cây đạo thọ rồi nói bài kệ này :

  “Chỗ Ta ngồi nay đây
   Trải qua khổ sanh tử.
   Nắm chặt búa trí huệ
   Chặt đứt rễ gai nhọn.
   Thiên vương đến nơi đây,
   Cùng các ma, quyến thuộc.
   Hàng phục bằng phương tiện,
   Khiến đội mũ giải thoát.
   Nay ở dưới cây này,
   Ngồi trên tòa kim cương,
   Chứng đắc huệ vô ngại,
   Thành tựu Nhất thiết trí...”[20]. 

I.2.7. Ngũ phần luật

Sau khi thành đạo, đức Phật đi tới vườn Lộc uyển để thuyết pháp cho năm vị tì kheo cùng tu với ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Ưu-ba-kỳ-bà đã hỏi đức Phật tu theo đạo nào, ai là bậc đạo sư của ngài, v.v... đức Phật trả lời như sau :

" Nhất thiết trí trên hết, 
Không phiền, không ô nhiễm,
Ta tu không nhờ thầy
Tự nhiên đạt thánh đạo... "[21].  

I.2.8. Ma-ha tăng kỳ luật

Ma-ha tăng kỳ luật định nghĩa Phật như sau : “Phật (Thế tôn) là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến,...”[22]. 

I.2.9. Tứ phần luật

Sau khi thành đạo, đức Phật đi tới vườn Lộc uyển để thuyết pháp cho năm vị tì kheo cùng tu với ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Ưu-đà-da đã hỏi đức Phật tu theo đạo nào, ai là bậc đạo sư của ngài, v.v... đức Phật trả lời như sau :

" Nhất thiết trí trên hết,... "[23]   

I.2.10. Thập tụng luật

  Ngài A-nan tán thán công đức của đức Phật như sau :

 “ Đức Phật có niệm, định, trí tuệ, giải thoát tri kiến, đại từ, đại bi, Nhất thiết trí... như thế.”[24]

11. Căn-bản-thuyết-nhất-nhiết-hữu-bộ luật[25]

Ngài Xá-lợi-phất nói : “Đức Thế tôn là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến...”[26]. 

Qua các đoạn văn tiêu biểu (dĩ nhiên còn nhiều) vừa được trích dẫn ở trên, chúng ta có thể kết luận : Kinh điển A-hàm khẳng định đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Về mặt bộ phái : Thượng-tọa bộ, Pháp tạng bộ, Hóa-địa bộ, Thuyết-nhất-thiết-hữu bộ, Căn bản Thuyết-nhất-thiết-hữu bộ, Đại chúng bộ, tuy bộ phái, truyền thừa khác nhau nhưng đều ghi nhận như nhau : “Đức Phật là bậc Nhất thiết trí.”.  

Trên đây đã trích dấn các đoạn văn khẳng định đức Phật là bậc Nhất thiết trí trong kinh điển A-hàm. Tiếp theo, người viết sẽ trình bày nội dung Nhất thiết trí của đức Phật. 

II. Nội dung của Nhất thiết trí

Nội dung của Nhất thiết trí được đức Phật trình bày rất rõ trong bài kinh số 71 của kinh Trung bộ với tựa đề Kinh dạy Vacchagotta về Tam Minh. Nhìn tựa đề : “Kinh dạy Vacchagotta về Tam Minh”, chúng ta biết ngay nội dung kinh này đức Phật dạy về Ba minh (Tam minh) chứ không phải phủ định Nhất thiết trí. Tôi sẽ trích dẫn hai phần chính : Nguyên nhân đưa đến lời dạy của đức Phật  và lời dạy chính của đức Phật.

Phần một : Du sĩ ngoại đạo tên là Vaccha đã hỏi đức Phật như sau:  

“-- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: 'Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục"'. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại liên tục". Bạch Thế Tôn, những vị ấy nói về Thế Tôn có đúng với điều đã được nói, những vị ấy không vu khống Thế Tôn với điều không thực, nhưng đã giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách? ”[27] . 

Trước hết, chúng ta phải biết rằng khái niệm "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục" là nội dung Nhất thiết trí của Nigantha Nataputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử), tổ sư của Kỳ-na giáo[28]. Như vậy, câu hỏi của Vaccha không phải là dạng câu hỏi có-không, không phải câu hỏi “Đức Phật có phải là bậc Nhất thiết trí không?”. Không phải. Câu hỏi của Vaccha thuộc dạng tìm hiểu nội dung Nhất thiết trí của đức Phật. Nói cách khác, Vaccha muốn hỏi : “Nhất thiết trí của đức Phật có phải là Nhất thiết trí của Nigantha Nataputta  có nghĩa là ‘Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục’ không? ". Phải hiểu như thế. Chính để trả lời câu hỏi được hiểu theo dạng thức thứ hai này nên đức Phật mới trả lời câu kế tiếp về nội dung Ba minh.  

Phần hai : Câu trả lời của đức Phật :  

“-- Này Vaccha, những ai nói như sau: 'Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục"'. Thì đấy là họ nói về Ta không đúng với điều đã được nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực, hư ngụy. ” 

Câu trả lời này của đức Phật phải được hiểu rằng “Ai nói rằng Nhất thiết trí của Như lai là  "Khi Ta đi,...liên tục", người đó không nói đúng sự thật. Trong đây không có một lời phủ định nào hết. Nếu như đức Phật phủ định Nhất thiết trí thì Ngài chỉ cần trả lời “Như lai không phải là bậc Nhất thiết trí.” và nội dung kinh chấm dứt ở đây. Không phải thế. Vaccha đã đem nội dung Nhất thiết trí của ngoại đạo gán chép cho Nhất thiết trí của Ngài nên ngài phủ định sự gán ghép đó và Ngài trình bày rõ nội dung Nhất thiết trí của Ngài ở phần kế tiếp.

Vaccha lại hỏi : 

“-- Phải giải thích như thế nào, bạch Thế Tôn, chúng con mới nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, chúng con không vu khống Thế Tôn với điều không thực, chúng con mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp; và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách? ” 

 Đức Phật lại trả lời. Đây là nội dung chính của kinh.

“-- Ông phải giải thích: "Sa-môn Gotama là bậc có ba minh (tevijja)", thì này Vaccha, Ông mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách.  

Này Vaccha, khi nào Ta muốn, Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta sẽ nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.  

Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Ta nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này". Như vậy, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.  

Này Vaccha, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, Ta ngay trong hiện tại, tự mình với thượng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.  

Và với sự giải thích: "Sa-môn Gotama là bậc có ba minh," này Vaccha, người ấy mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một vị đồng hành pháp nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách. ”[29]. 

Như vậy, nội dung toàn bộ bài kinh vừa được trích dẫn ở trên không phải phủ định Nhất thiết trí của đức Phật mà là giải thích Nhất thiết trí của đức Phật là Ba minh. Hiểu như thế mới phù hợp với tất cả những lời dạy trong kinh điển A-hàm mà người viết đã trích dẫn ở phần I. Và hiểu như thế mới phù hợp với lời dạy của đức Phật trong Kinh Bản sanh quyển I, phần II : Nhân duyên gần (avidùre-nidàna) (xin xem trang 3 của bài viết này). Hiểu như thế mới thấy được sự phát triển có tính truyền thống, liên tục từ Phật giáo Nguyên thủy tới Phật giáo Đại thừa. Nói cách khác, nhận định ‘đức Phật là bậc Nhất thiết trí’ không phải là tư tưởng đặc thù của kinh điển Đại thừa Phật giáo mà đã có từ thời kinh điển A-hàm. Và khi nghiên cứu kinh điển A-hàm, các nhà nghiên cứu Phật học cũng có cùng một nhận định như nhau : ‘đức Phật là bậc Nhất thiết trí’[30]. 

Ngược lại, nếu cho rằng nội dung “Kinh dạy Vacchagotta về Tam Minh” là đức Phật phủ định Nhất thiết trí, thì giải thích như thế nào về sự khẳng định ‘đức Phật là bậc Nhất thiết trí’ trong kinh điển A-hàm như người viết trích dẫn một số đoạn tiêu biểu ở phần I và giải thích như thế nào những ghi chép của kinh điển Đại thừa Phật giáo : ‘đức Phật là bậc Nhất thiết trí’?

Mùa Phật đản 2632, Phương ngoại am

 
[1] Trong Hán tạng, từ sarvajña có khi được phiên âm là Tát văn nhã (薩云若 : Trung A-hàm kinh, “Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh” (sẽ viết tắt là Đại)2, tr.753c8), Tát văn nhiên (薩芸然 : Quang tán kinh, Đại 8, tr.176b17), Tát bà nhã (薩婆若 : Phật bản hạnh tập kinh, Đại 3, tr.721c13), Tát phạt nhã (薩伐若 : Bảo tích kinh, Đại 11, tr.239c12)...

[2] Trong Wakahara (1985, tr.52-78), từ sarvajña là được dịch là bậc Toàn tri  (Wakahara (1985, tr.52-78) : Wakahara Yusho : 若原雄昭「アーガマの価値と全知者の存在証明―仏教論理学派に於ける系譜―」『佛教學研究』龍谷大學佛教學会、第41号). Trong Mi-Tiên vấn đáp, từ sabbaññù được dịch là bậc Toàn giác. Xin xem http://www.thuvienhoasen.org/mitienvandap-03.htm

[3] Trong bài viết này, từ ngữ ‘Kinh điển A-hàm’ bao gồm : năm bộ Nikàya, bốn bộ A-hàm và sáu bộ quảng luật. Năm bộ Nikàya : Kinh Trường bộ, Kinh Trung bộ, Kinh Tương ưng, Kinh Tăng chi và Kinh Tiểu bộ. Bốn bộ A-hàm : Kinh Trường A-hàm, Kinh Trung A-hàm, Kinh Tăng Nhất A-hàm và Kinh Tạp A-hàm. Sáu bộ quảng luật : Luật tạng Pàli (Vinaya Pitaka) thuộc tạng Pàli; Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Thập tụng luật, Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật và Ma ha tăng kỳ luật thuộc tạng Hán văn.

[4] Majjhima-Nikàya vol. I, PTS (Pali Text Society) , London, 1979, tr.171. Bản dịch Việt văn của HT. Thích Minh Châu, đăng trên http://www.thuvienhoasen.org/u-trung26.htm

[5] Vinaya Piṭaka Vol. I (Mahàvagga ), PTS, London, 1964, tr. 8. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên, đoạn này được dịch là : “ Ta vượt trên tất cả, hiểu biết được toàn bộ...” Xin tham khảo : http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm

[6] Theo lịch pháp Ấn Độ, một ngày một đêm được chia thành 6 thời: ngày có 3 thời, đêm có 3 canh. 『翻譯名義集』Đại 54, tr.1092b24.

[7] Jàtaka vol. I, PTS, London, 1962, tr. 75-77. 

[8] Jàtaka vol. IV, PTS, London, 1963, tr.235.

[9] Mi-Tiên vấn đáp, tựa đề chữ Pàli là Milindapañho, ghi lại nội dung vấn đáp về Đạo giữa vua Mi-lan-đà và ngài Na-tiên, được Phật giáo Tích-lan kết tập vào năm bộ Nikàya. Mi-Tiên vấn đáp có hai bản dịch bằng chữ Hán, đều mang tựa đề giống nhau là 那先比丘經 (Na-tiên tì kheo kinh) mang số hiệu 1670A và 1670B, Đại 32. Về mặt số lượng, cả hai bản dịch Hán văn đều chỉ bằng một nửa của bản Pàli. Na-tiên tì kheo kinh đã được nhiều vị dịch sang Việt văn như quyển Kinh Na-tiên tì kheo của giáo sư Cao Hữu Đính,v.v...   

[10] Vua Mi-lan-đà tức vua Milinda (ghi theo sử liệu Ấn-độ), Menander I (ghi theo sử liệu Hy lạp), cai trị vương quốc Ấn-Hy (Indo-Greek Kingdom ) ở Bắc Ấn-độ và Pakistan ngày nay, từ 165 (hay 155) BC tới 130 BC. Sau khi hỏi Đạo nơi ngài Na-tiên, vua truyền ngôi vua lại cho con, xuất gia, tu học và chứng thánh qủa A-la-hán.  

[11] Ngài Na-tiên tức ngài Nàgasena, một vị thánh tăng ở Ấn độ, sống vào khoảng 150 BC.

[12] Milindapañho, PTS, London, 1962, tr.74, 102. 

[13] Milindapañho, tr.74. Đoạn kinh tương đương bên那先比丘經 là Đại 32, 701c12-21.

[14] Milindapañho, tr.107-108. Những lần hỏi và đáp khác về nhất thiết trí của đức Phật : Milindapañho, tr.191, 210, 217, 132, 267, 272.

[15] Trường A hàm kinh, Đại 1, 4c16-19. Bản dịch Việt văn của Thầy Tuệ Sỹ, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Truong_A_ham/Tr_002.htm

[16] Trung A-hàm kinh, Đại 1, tr.497c28-498a2. Bản dịch Việt văn của Thầy Tuệ Sỹ, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/aham_Trung/trung_00.htm

[17] Tạp A-hàm kinh, Đại 2, tr.168c22-23. Bản dịch Việt văn của Thầy Đức Thắng, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap23.htm#_ftnref44 

[18] Tạp A-hàm kinh, Đại 2, tr.181a24-b2. Bản dịch Việt văn của Thầy Đức Thắng, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap25.htm#_ftn2

[19] Tạp A-hàm kinh, Đại 2, tr.329a10-15. Bản dịch Việt văn của Thầy Đức Thắng, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap45.htm#_1207

[20] Tăng nhất A-hàm kinh, Đại 2, tr.618b21-26. Bản dịch Việt văn của Thầy Đức Thắng, đăng trên : http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tang nhat/tang_024.htm

[21] Ngũ phần luật, Đại 22, 104a25-26. Đoạn này có nội dung tương đương với đoạn trong Kinh Trung bộ, Kinh Thánh cầu số 26 và Luật tạng Pàli đã trích dẫn ở trên. Xin xem trang 2 của tiểu luận này.

[22] Ma-ha tăng kỳ luật, Đại 22, tr.367b22.

[23] Tứ phần luật, Đại 22, 787c1. Bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Đỗng Minh, đăng trên http://www.thuvienhoasen.org/tuphanluat-tangsu-01.htm.

Đoạn này có nội dung tương đương với đoạn trong Kinh Trung bộ, Kinh Thánh cầu số 26 và Luật tạng Pàli cùng Ngũ phần luật đã trích dẫn ở trên. Xin xem trang 2, trang 10 của tiểu luận này.

[24] Thập tụng luật, Đại 23, 99b1-2; 187c26-28.

[25] Luật tạng của bộ phái này không có kết tập thành một bộ có hình thức như Tứ phần luật hay Ngũ phần luật, ngược lại chia ra thành từng phần khác nhau và có tên gọi khác nhau như Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ tì-nại-da hay Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ Tì-nại-da dược sự,v.v... Ở đây xin gọi chung tất cả những phần này là Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật.

[26] Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật, Đại 23, tr.650b12-13; tr.651a21-22.

[27] Kinh dạy Vacchagotta về Tam Minh số 71, Kinh Trung bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, nguồn : http://www.thuvienhoasen.org/u-trung71.htm 

[28] Xin xem Tiểu kinh Khổ uẩn số 14, Kinh Trung bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, nguồn : như trên.

[29] Xin xem chú thích số 29 ở trên.

[30] Xin xem : Wakahara (1985, tr.52-78); Kawasaki (1985, tr.187-203). Kawasaki (1985, tr.187-203) : Kawasaki Shinjo : 川崎信定「パーリ語文献にみられる一切智(Sabbaññū)」『雲井昭善博士古稀記念 仏教と異宗教』(Buddhism and Its Relation to Other Religions Essays in Honour of Dr. Shozen Kumoi on His Seventieth Birthday)平楽寺書店.


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage