Supanna: Xin sư cho biết thiền định là gì ?
Sư Phước Nhân: Thiền định( Samadhi) là phương pháp gom tâm trụ nó vào
một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng.
Thiền định có 40 đề mục chia thành nhiều nhóm và hành giả có thể
chọn bất cứ đối tượng nào trong các nhóm đó để hành tập, nếu nói hết thì
rất dài nên sư xin trình bày sơ lược.
Muốn tu tập thiền định, hành giả có thể trụ tâm vào một trong những
đề mục như màu trắng, xanh, vàng, đỏ, ánh sáng, hư không, đất, nước,
gió, lửa… hoặc niệm ân Đức Phật, Pháp và Tăng.
Tại sao người ta gọi thiền định là tưởng định?
Sư Phước Nhân: Lấy ví dụ hành giả hành thiền định lấy đất
làm đề mục. Hành giả sẽ lấy một cái dĩa bằng đất sét có màu hừng đông,
đường kính khoảng 25cm, mặt láng, sạch và đặt dĩa ngay trước mặt, vừa
tầm, khỏang từ 70 đến 80 cm. Hành giả nhìn dĩa và để tâm nơi dĩa, lập đi
lập lại trong tâm "đất, đất..." hàng ngàn hàng vạn lần như vậy để nhận
rõ đối tượng từng chi tiết một và ghi thật kỹ vào tâm hình ảnh của nó,
sau đó nhắm mắt lại để đem hình ảnh đó vào trong tâm mà tưởng.
Lúc đầu hình ảnh hiện ra trong tâm giống hệt như dĩa đất thật bên
ngoài, từ màu sắc cho đến những lằn vết thô thiển của nó. Lần lần hình
ảnh nầy sẽ trở thành hoàn hảo hơn. Những khuyết điểm trên dĩa đều biến
mất, và dĩa biến thành sáng loáng. Muốn cho dĩa bự ra hành giả có tưởng
tượng cho nó bự ra, hoặc khi ý khởi lên, muốn cho dĩa thu nhỏ lại thì
hành giả tưởng cho dĩa thu nhỏ lại. Bằng cách này, hành giả sử dụng hai
lộ là nhãn môn và ý môn để trụ tâm lên hình ảnh cái dĩa một cách vững
chắc, từ đó sanh khởi một tâm sở đặc biệt mà từ trước đến nay chưa bao
giờ kinh nghiệm được, đó là tâm định.
Tượng Phật Thích Ca ban phước lành
Một thời gian sau, khi hành giả đi sâu vào định thì sẽ thấy xuất
hiện các ứng tướng thí dụ như hào quang, hồng tướng, trợ tướng, hành giả
tiếp tục đi sâu vào các ứng tướng đó để chứng đắc các tầng thiền định:
sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ thiền, thức
vô biên xứ , vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, sau đó hành giả
bắt đầu luyện thần thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm
thông và túc mạng thông.
Thiền định vì vậy được gọi là tưởng định vì gốc của nó là tưởng, đề
mục của nó là tục đế hay chế định. Thiền định sử dụng đại định, kiên cố
định và an chỉ định.
Thiền định có đem lại giải thoát?
Sư Phước Nhân: Thiền định không đem lại giải thoát vì nó
không giúp phát sinh tuệ ( tuệ ở đây có nghĩa là sự hiểu biết sự sanh
diệt của danh sắc và ngũ uẩn ), tuy nhiên nó có khả năng trợ duyên cho
thiền tuệ.
Thiền Minh Sát là gì?
Sư Phước Nhân : Thiền Minh Sát còn gọi là thiền Vipassana.
Đây là một phương pháp tu tập để đạt đến Giải Thoát của các chư Cổ Phật,
theo thời gian bị mai một và được Đức Phật Thích Ca phát hiện trở lại.
Đức Phật gần như đã dành trọn 45 năm hoằng dương giáo pháp để giảng dạy
về phương pháp thiền này cho các đệ tử của Ngài.
Tại sao thiền Vipassana đưa đến giải thoát ?
Sư Phước Nhân : Đề mục của thiền Vipassana là thân, thọ,
tâm, pháp. Tất cả các đề mục này đều giúp cho hành giả thấy được sự sanh
diệt khi hành tập. Nói một cách khác, hành giả quan sát các đề mục của
thiền Vipassana để thấy được sanh diệt của danh sắc và ngũ uẩn qua đó
kinh nghiệm được vô thường, khổ và vô ngã để cuối cùng chứng đắc các
tầng tuệ Minh sát, đạt được Giải Thoát, Niết Bàn.
Xin sư tóm gọn một số khác biệt cơ bản giữa thiền định và thiền
Vipassana.
Sư Phước Nhân :
Thiền định :
- Định của thiền định là tâm sở nhất tâm,
trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất.
- Đề mục của thiền định là tục đế (chế
định), không có sanh diệt.
- Thiền định sử dụng đại định, kiên cố
định và an chỉ định.
- Thiền định chỉ giúp tạm thời đè nén,
khống chế phiền não.
Thiền Vipassana :
- Định của thiền quán là tâm sở nhất
hành, thực hành thiền Vipassana, hành giả có khả năng định trên nhiều
đối tượng khác nhau.
- Đề mục của thiền Vipassana là chơn đế,
có sanh diệt.
- Thiền Vipassana sử dụng cận định và sát
na định
- Thiền Vipassana bứng tận gốc rễ phiền
não và tham ái.
Cần nói thêm rằng thiền định thì Phật giáo cũng có mà các tôn giáo
khác cũng có. Thiền Vipassana chỉ có trong Phật giáo hay nói một cách
khác Vipassana là thiền của Phật giáo.
Muốn tu tập thiền Vipassana, bước đầu hành giả cần phải làm gì ?
Sư Phước Nhân : Trước khi tu tập Vipassana, hành
giả phải tu sổ tức quan : Đếm hơi thở từ 1 đến 10 rồi ngược lại. Không
nên đếm quá 10 vì tâm sẽ phóng, cũng không nên đếm ít hơn 5 vì như vậy
tâm sẽ bị lúng túng. Khi đã cột tâm yên rồi thì hành giả bắt đầu chuyển
qua tu thiền quán.
Hiện nay, việc tu tập theo Vipassana (dùng chánh niệm theo dõi
các cửa giác quan để ngăn không cho các tâm bất thiện có điều kiện chen
vào các cửa giác quan này) còn khá mới mẽ với nhiều người, xin sư vui
lòng mô tả cách thức tu tập thiền này để giúp cho độc giả của PTVN có
thể hình dung được phần nào.
Sư Phước Nhân :
Trước hết là nên nói một chút về tư thế tọa thiền. Hành giả có thể
ngồi kiết già, bán già hoặc xếp bằng hoặc ngồi trên ghế dựa (nếu chân bị
đau). Giữ đầu thẳng, lưng thẳng, toàn thân buông lỏng nghĩa là thả lỏng
đầu, hai vai, thân, hai chân, không nên gồng cứng, tay mặt đặt trên tay
trái tại chỗ hũng của hai chân giao lại. Mắt nhắm lại một cách thoải
mái.
Tâm lúc nào cũng để tự nhiên, quân bình, thư giãn, không ức chế
tâm, không để tâm chú ý quá sâu vào đề mục, chỉ cần theo dõi hơi thở ra
vào một cách tự nhiên mà thôi.
Hành giả theo dõi hơi thở ra vào chạm ở đầu chóp lổ mũi hoặc qua
sự phồng xẹp của bụng. Cứ để hơi thở ra vào một cách tự nhiên, không nên
cố tạo cho hơi thở dài ra hay ngắn lại vì nếu hành giả ép hơi thở thì
chẳng bao lâu hành giả sẽ bị tiêu hao năng lượng và sẽ thấy mệt. Hành
giả phải nhớ rằng chúng ta quán vô thường vô ngã trên hơi thở chứ không
phải tập khí công.
Cứ để hơi thở vào ra một cách tự nhiên : thở vô biết thở vô, thở ra
biết thở ra, khi hơi thở dài biết hơi thở dài, khi hơi thở ngắn biết
hơi thở ngắn, khi hơi thở thô biết hơi thở thô, khi hơi thở tế biết hơi
thở tế, khi hơi thở còn biết hơi thở còn, khi hơi thở mất biết hơi thở
mất, cố gắng giữ trí nhớ chánh niệm tỉnh giác liên tục đừng để mất.
Trong quá trình hành thiền, khi tai nghe âm thanh hoặc tiếng động,
hành giả ghi nhận nghe, nghe rồi quay trở về hơi thở, khi mũi bắt mùi
hương thì ghi nhận ngửi, ngửi rồi quay về hơi thở, khi tâm suy nghĩ đầu
này đầu kia thì ghi nhận suy nghĩ, suy nghĩ rồi cũng quay trở lại hơi
thở. Tương tự như vậy ngứa ngáy, nhột, nóng, lạnh, đau, chân tê... Nói
một cách khác là trong quá trình hành thiền, hành giả phải ghi nhận mọi
diễn biến xảy ra trong thân và tâm nhưng luôn xem hơi thở là đề mục
chính, hơi thở được xem là ngôi nhà, đi đâu rồi hành giả cũng quay về
nhà của mình. Đây được xem là niệm thân.
Trong trường hợp nhiều đối tượng xảy ra cùng một lúc thì hành
giả sẽ ghi nhận như thế nào ?
Sư Phước Nhân : Trong trường hợp này tâm tự động hướng tới
đối tượng hoạt động mạnh nhất (cảnh trưởng duyên) và hành giả sẽ ghi
nhận đối tượng này.
Thế còn niệm thọ và niệm tâm thì sao ? Xin sư cho một ví dụ để
minh họa.
Sư Phước Nhân : Trong quá trình ngồi thiền, hành giả có thể
bị muỗi cắn, khi thấy ngứa, hành giả ghi nhận ngứa, ngứa : đây là niệm
thọ. Khi hành giả ghi nhận ngứa, ngứa thì cảm giác ngứa, có thể giảm,
nhưng cũng có lúc cảm giác này không giảm mà lại tăng lên, hành giả cảm
thấy bực bội, khó chịu, lúc này tâm sân nổi lên hành giả ghi nhận tâm
sân : đây gọi là niệm tâm sân.
Nếu hành giả không chịu nổi, muốn gãi thì sao ?
Sư Phước Nhân : Nếu hành giả muốn gãi thì ghi nhận tác ý
muốn gãi rồi đưa tay đưa tay đến chỗ gãi (ghi nhận đưa tay), gãi, ghi
nhận gãi, gãi, biết đã ngứa, ghi nhận đã ngứa, xong rồi lại quay trở về
hơi thở.
Xin sư cho thêm một thí dụ khác về niệm thọ và niệm tâm
Sư Phước Nhân : Khi ngồi thiền lâu, cảm giác tê mõi sẽ xuất
hiện, hành giả ghi nhận cảm giác tê mõi này. Tê mõi sẽ thay đổi khi thì
nóng, khi thì quặn thắt, nhào lộn, hành giả ghi nhận tất cả mọi thay
đổi này (niệm thọ). Khi cảm giác đau lên đến tột đỉnh, hành giả sẽ có
khuynh hướng muốn xua đuổi cơn đau, đây là lúc tâm sân đang sinh khởi và
lúc này hành giả phải ghi nhận, quan sát tâm sân (niệm tâm).
Tuy nhiên, hành giả không nên xua đuổi cơn đau mà thay vào đó phải
quan sát cơn đau để thấy sự vô thường, khổ và vô ngã trong cái đau để
giúp tuệ giác phát triển.
Làm sao chúng ta lại có thể thấy được khổ, vô thường và vô ngã
trong cái đau ?
Sư Phước Nhân :
- Thấy vô thường : Cái đau không phải là cái có sẵn hoặc tự nhiên
mà có trong thân mà do có điều kiện mới sanh khởi. Khi đau, cường độ đau
có tăng, giảm, khi thì quặn thắt, khi thì nhào lộn.
- Thấy khổ : Thân đau, tâm phản ứng là khổ.
- Thấy vô ngã : Không có quyền làm chủ đối với con đau vì hành giả
không thể điều khiển cơn đau, có nghĩa là hành giả có muốn hết đau cũng
không được.
Bình thường, khi đau, chúng ta rên rĩ, "Ôi cha, tôi đau quá !" Hôm
nay, Đức Phật bảo chúng ta nhìn cái đau để thấy đau chỉ là đau thôi,
trong cái đau chỉ có đối tượng đau và tâm hay biết chứ không có tôi, ta
trong đó.
Với cách tu tập như thế này, dần dần hành giả sẽ kinh nghiệm được
giáo pháp.
Thưa sư, khi nào thì hành giả niệm tâm tham ?
Sư Phước Nhân : Khi ngồi thiền lâu, hành giả sẽ đạt tới
trạng thái an bình, tĩnh lặng, hành giả phải ghi nhận, quan sát cái cảm
giác an bình, tĩnh lặng này cho rõ. Nếu hành giả chánh niệm hời hợt, tâm
tham sẽ theo vào làm cho hành giả thỏa thích và muốn bám vào cảm giác
này. Lúc này hành giả phải ghi nhận và quan sát đối tượng mới tức là
niệm tâm tham.
Thưa thế nào là niệm Pháp ?
Sư Phước Nhân : Niệm pháp là niệm :
- 5 triền cái: Tham, sân, hôn trầm, trạo hối, hoài nghi
- 5 thủ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn
- 12 xứ: Gồm sáu nội xứ : Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân
xứ, ý xứ và sáu ngoại xứ : sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ và
pháp xứ
- 7 giác chi: Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác
chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, và xả giác chi,
- Tứ diệu đế; Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Sau khi tọa thiền, tại sao hành giả phải thực hiện thiền hành?
Sư Phước Nhân : Thiền hành tăng cường tinh tấn 70% và tăng
cường cho định 30%. Thiền tọa tăng cường cho định 70% và tăng cường cho
tinh tấn 30%, vì vậy thiền hành và thiền tọa phải cân bằng với nhau, hay
nói cách khác định và tinh tấn phải ngang bằng với nhau. Hễ tinh tấn dư
thì tâm sẽ phóng dật, khi định dư thì hành giả sẽ hôn trầm, dã dượi,
lười biếng.
Hễ một giờ ngồi thì một giờ đi, nữa giờ ngồi thì nữa giờ đi.
Muốn thực hành thiền hành, hành giả phải làm gì ?
Sư Phước Nhân : Chọn một lối đi có chiều dài từ 7 đến 10m,
không nên đi quá xa. Khi đi hai tay chắp lại để đằng sau lưng hoặc để
trước bụng, mắt nhìn về trước khoảng 2m, tối đa là 3m, không nên nhìn
quá xa, không nên liếc qua, liếc lại.
Khi bắt đầu đi ghi nhận có tác ý muốn đi, dở bước, theo dõi chuyển
động của hai chân, ghi nhận dở, bước, đạp (chân nào trước cũng được),
hoặc có thể ghi nhận phải bước, trái bước.
Khi tới cuối lối đi phải ghi nhận có tác ý muốn đứng rồi dừng lại,
khi muốn xoay phải ghi nhận tác ý muốn xoay rồi mới xoay, xoay xong đàng
hoàng trước khi muốn dừng lại phải ghi nhận tác ý muốn dừng rồi dừng
một hoặc hai giây, muốn đi tiếp phải ghi nhận tác ý muốn đi và sau đó
bước đi.
Thưa sư, thế nào là ăn trong chánh niệm và cách thức ăn ra sao?
Sư Phước Nhân : Trước khi ngồi vào bàn ăn phải ghi nhận tác ý
muốn ngồi, sau khi ngồi xuống, cầm chén, đũa phải ghi nhận hay biết,
khi đưa tay gắp thức ăn vô chén cũng ghi nhận hay biết, múc thức ăn vô
chén cũng ghi nhận hay biết, gắp miếng vừa ăn, đừng to quá , nếu thấy
thức ăn ngon, gắp miếng lớn thì phải ghi nhận tâm tham, khi hả miệng
biết hả miệng, ngậm miệng biết ngậm miệng, nhai biết nhai.
Trước khi nuốt phải ghi nhận tác ý muốn nuốt rồi mới nuốt . Khi
thức ăn ngon, thì ghi nhận hay biết là ngon, trong trường hợp thức ăn
không ngon cũng ghi nhận hay biết là không ngon. Nếu hành giả khi ăn
ngon cũng không biết mà dở cũng không biết thì đó là ăn với tâm si.
Khi ăn ngon và tâm tham len lõi vô trong lúc ăn, hành giả phải ghi
nhận hay biết tâm tham. Khi ăn không ngon, tâm bực bội, khó chịu phải
ghi nhận tâm sân.
Nếu bao tử chúng ta chứa được 10 phần thì chúng ta chỉ ăn 7 phần
thôi, chừa lại 3 phần uống nước vô là vừa.
Ngoài việc thực hành thiền tọa, thiền hành và thiền ăn, hành giả
phải làm gì để theo dõi tâm và thân trong sinh hoạt hàng ngày ?
Sư Phước Nhân : Trong sinh hoạt hàng ngày, làm cái chi biết
cái nấy, đóng cửa, mở cửa biết đóng cửa, mở cửa, đại tiện, tiểu tiện
ghi nhận hay biết, tắm rửa, giặt giũ đều ghi nhận hay biết, co tay duỗi
chân, cúi đầu, ngẩng đầu, ngó qua, dòm lại v.v... tất cả đều phải ghi
nhận hay biết.
Tại sao hành giả phải ghi nhận tỉ mỉ, hết sức mất công như vậy ?
Sư Phước Nhân : Mục đích là để cho trí nhớ chánh niệm tỉnh
giác không bị gián đoạn.
Giữ cho trí nhớ chánh niệm tỉnh giác không bị gián đoạn như vậy
hành giả sẽ được lợi ích gì ?
Sư Phước Nhân :
Ghi nhận hay biết mọi đối tượng xảy ra trong thân và tâm có nghĩa là
hành giả đang sống trong giây phút hiện tại. Sống trong giây phút hiện
tại giúp cho hành giả luôn giữ tâm trong thân, không cho tâm phóng ra
ngoài thân.
Quan sát tỉ mỉ như vậy sẽ giúp hành giả thấy rõ bản chất của các
pháp là luôn sanh khởi và hoại diệt do có điều kiện và như vậy sẽ tạo
điều kiện cho trí tuệ Minh sát dễ dàng phát triển. Khi tuệ Minh sát phát
triển mạnh, thì phiền não và tham ái sẽ giảm dần.
Nếu lỡ tâm phóng ra ngoài thì phải làm sao?
Sư Phước Nhân: Tâm phóng đi đâu không quan trọng
vì bản chất của tâm là luôn phóng đi đâu này đầu nọ. Khi ý thức tâm đang
phóng đi, hành giả chỉ cần ghi nhận tâm đang phóng đi, có nghĩa là hành
giả đã và đang sống trong giây phút hiện tại rồi đó.
Thưa sư, quan sát tỉ mỉ như vậy có khó nhọc không ?
Sư Phước Nhân : Hành giả cứ để cho các pháp vận hành một
cách tự nhiên và ghi nhận, quan sát để thấy rõ bản chất của chúng là
luôn sanh khởi và hoại diệt do có điều kiện cho nên không mệt nhọc gì.
Buổi đầu hơi khó khăn một chút, nhưng từ từ tập rồi sẽ quen dần. Điểm
mấu chốt ở đây là hành giả phải đóng năm cửa giác quan. "Đóng' ở đây
không có nghĩa là bịt năm cửa giác quan mà dùng chánh niệm theo dõi các
cửa giác quan để ngăn không cho tâm bất thiện có điều kiện chen vào.
Làm thế nào để đóng năm cửa giác quan, Đức Phật dạy, " Hãy ngưng ngay ở
sự thấy, sự nghe... mà không để tâm đến sự phân biệt đối tượng."
Thiền hành
Chúng ta hãy để cho 5 căn sinh họat một cách tự nhiên, khi căn tiếp
xúc với trần (cảnh) thì nuối đuôi sau là hàng loạt tác ý khen, chê,
phân tích, đánh giá... nổi lên, hành giả phải chánh niệm ngay các tác ý
này. Bằng cách này, thiền Vipassana có khả năng thu thúc ngũ căn để
hành giả có thể theo dõi hữu hiệu mọi diễn biến trong thân và tâm qua
cửa thứ sáu là ý căn.
Tu tập Vipassana vì vậy sẽ tập cho hành giả thói quen thấy phiền
não tham ái, ghi nhận rồi buông bỏ chứ không giữ lại, ôm ấp trong tâm
hoặc đè nén chúng vì vậy tâm của hành giả tu tập pháp môn này rất mát
mẽ.
Hiện nay trên thế giới có một số trường thiền dạy cho hành giả
thiền định trước, sau khi đạt được định rốt ráo xong thì xả định rồi
chuyển sang tuệ quán. Một số trường thiền khác thì dạy cho hành giả tu
tập Vipassana ngay từ bước đầu sau khi hành giả đã thực hành sổ tức quán
để gom tâm lại. Đây là hai đạo lộ khác nhau, vậy đạo lộ nào đúng ?
Sư Phước Nhân : Cái nào cũng đúng
Xin sư cho biết ưu điểm và nhược điểm của từng đạo lộ.
Sư Phước Nhân : Tu định rốt ráo rồi chuyển sang Vipassana :
- Ưu điểm : Sau khi đắc đạo quả A
la hán, hành giả sẽ có thần thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
tha tâm thông và túc mạng thông (thiền định) và Lậu tận thông (thiền
Vipassana)
- Nhuợc điểm : Có những hành giả
một khi đã an trú vào trong đại định đâm ra ưa thích sự an bình, tĩnh
lặng nên đã ở luôn trong định, không chịu xả định để chuyển sang tuệ
quán. Những hành giả này sẽ chịu thiệt thòi vì cuối cùng không đạt được
Giác Ngộ - Giải thoát – Niết Bàn.-
- Đây là một lộ trình rất dài đòi hỏi
nhiều công phu tu tập. Muốn đắc được các tầng thiền định, hành giả phải
tu tập ở những nơi thanh vắng. Có khi chưa đắc được các tầng thiền định,
tuổi thọ của hành giả đã hết.
Tu tập Vipassana ngay từ bước đầu :
- Ưu điểm : Thiền Vipassana tu tập
trong đời sống hàng ngày, không cần đến nơi thanh vắng vì hành giả sẽ
lấy những chuyện xảy ra trong đời sống hàng ngày để làm đề mục quan sát,
luôn luôn sống trong hiện tại.
- Hàng ngày có điều kiện nhìn vào phiền
não và tham ái trong lúc sinh hoạt nên thấy được khổ, nhân của khổ, sự
diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt khổ, có nghĩa là thấy được chân lý
Tứ Diệu Đế. Quan sát như vậy dần dần sẽ giúp diệt trừ tận gốc phiền não
và tham ái ngay bây giờ và ngay trong kiếp sống này.
- Những ai có đầy đủ Ba la mật có thể đạt
được đạo quả ngay trong kiếp sống này, những ai chưa đầy đủ Ba la mật
thì nhờ tu tập Vipassana để bổ túc Ba la mật, kiếm được chút đỉnh tư
lương để làm hành trang đem theo cho kiếp sau tiếp tục con đường
tu tập.
- Nhược điểm: Con người có thể gặp
những giai đoạn khó khăn dồn dập, gặp những cú "sốc" về thân và tâm,
trong trường hợp này, hành giả tu định lờ đi, nhập vào định để nghĩ ngơi
trong khi hành giả tu tập Vipassana phải nhìn vào những khó khăn này để
làm đề mục quan sát, hành giả tu Vipassana vì vậy có thể cảm thấy xuống
tinh thần. Trong trường hợp này, Đức Phật khuyên chúng ta phải kham
nhẫn để quan sát những phiền não và tham ái đó mà không nên trốn chạy
chúng. Nếu vượt qua được, hành giả sẽ trưởng thành trong giáo pháp.
Tại sao cùng là tu tập Vipassana mà có thiền sư hướng dẫn để tâm
theo dõi hơi thở ra vào chạm vào chóp mũi, có thiền sư lại dạy theo dõi
qua sự phồng xẹp của bụng. Phương pháp nào chính xác hơn ?
Sư Phước Nhân : Tuy hai địa điểm khác nhau nhưng cùng chung
một trí nhớ chánh niệm giống nhau. Vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại
thế, Ngài dạy hãy để tâm theo dõi hơi thở ra vào chạm vào chóp lổ mũi để
kinh nghiệm vô thường, khổ và vô ngã.
Tuy nhiên vào thời nay, chỉ có một số ít hành giả thành công khi
theo dõi hơi thở ra vào chạm vào chóp của lổ mũi cho nên ngài Mahasi Sayadaw, tu sĩ Phật giáo Miến Điện và là
thiền sư nổi tiếng dạy Thiền Tuệ Quán khắp Châu Á và Châu Âu, đã dạy
theo dõi hơi thở qua bụng phồng, xẹp. Phương tiện này cũng giúp hành giả
kinh nghiệm được vô thường, khổ và vô ngã. Vì vậy, hành giả thuận để
tâm theo dõi hơi thở ra vào chạm vào chóp lổ mũi thì để tâm nơi đây, ai
thấy rõ cảm giác phồng xẹp thì quan sát bụng phồng xẹp, không nhất thiết
bắt buộc phải để tâm ở chóp mũi hoặc theo dõi bụng phồng xẹp
Supanna: Con xin cảm ơn sư.
Thiền viện Phước Sơn tọa lạc tại đồi Lá Giang, 368 suối Tân Cang,
ấp Tân Cang, xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai