Trách nhiệm của chúng ta là chia sẻ tư duy, kiến thức và kinh nghiệm
của chúng ta càng nhiều càng tốt để cuối cùng chúng ta đều nhìn thấy
thông điệp của Ðức Phật, bức thông điệp đem lợi ích cho nhân loại, không
ngưng tiến tới nhân loại ở khắp thôn cùng xóm vắng, ở khắp mọi nơi trên
thế giới.
Ðời sống hiện đại chính tự nó rất khó để định nghĩa. Ta có thể nói
đời sống hiện đại có đặc điểm nổi bật bởi thực ra thế giới càng ngày
càng nhỏ hơn, con người có quyền hay phương tiện đến với nhau, bức tường
ngăn cách về truyền thông đã không còn, chỉ trong khoảnh khắc ta có thể
biết được tin tức xẩy ra bất cứ nơi nào trên thế giới, ta có thể tham
gia vào đời sống rộng lớn tiêu biểu của thế giới mà ta không bao giờ
tưởng tượng được. Ðó là một khía cạnh của đời sống hiện đại.
Liên
quan đến đời sống hiện đại phải kể đến những lãnh vực khoa học và kỹ
thuật. Con người trong hoài bão chinh phục thiên nhiên, bệnh tật, những
chướng ngại thiên nhiên, đã hoàn thành một số kỳ công về kỹ thuật phức
tạp làm tâm giật mình kinh sợ. Ðó là một khía cạnh khác của đời sống
hiện đại.
Ðiểm thứ ba có lẽ là khía cạnh xáo trộn nhiều của đời
sống hiện đại: thế giới càng gần nhau hơn, bức tường chướng ngại truyền
thông đã bị phá vỡ, tiến bộ về khoa học và kỹ thuật tiến nhanh, chúng ta
phải đương đầu vối một số khó khăn về kinh tế và chính trị đối lập, ô
nhiễm, bùng nổ dân số, tài nguyên hiếm hoi, và sự sử dụng bừa bãi tài
nguyên không thể thay thế được. Với những khó khăn trên, xuất hiện hàng
loạt các vấn đề khác được gắn thẳng cánh là "sinh tồn".
Văn Minh
Hiện Ðại Có Thể Sống Sót Không?
Về vấn đề này, ta cũng có thể
thêm vào khía cạnh luân lý - một câu hỏi về đạo đức- và hỏi: Ðến một mức
độ nào, trong tiến trình hiện đại hóa và chinh phục thiên nhiên, chúng
ta đã đi trệch khả năng chinh phục chính mình? Có phải sự tranh đấu sinh
tồn có nghĩa là con người hiện đại phải trở thành nô lệ cho ích kỷ,
ràng buộc bởi tham dục và ý thức bốc đồng của chính mình? Có phải chúng
ta đã mất đi tất cả những thứ về giá trị đặc biệt của con người như việc
tương quan giữa cá nhân, sự lo lắng chăm sóc cho hạnh phúc, tinh thần
vị tha đối với người khác? có phải chúng ta đã mất những điều đó?
Vậy
thì khi nghĩ đến đời sống hiện đại, ta có thể nghĩ với một mức lạc quan
cao độ, và đồng thời, một mức độ bi quan tương đương. Ta có thể hết sức
vui sướng là chúng ta có thể sống ngày nay ở một thời đại hầu như không
có gì là con người không chinh phục được. Có lẽ, vẫn còn một số bệnh
tật là mối thách thức con người. Có thể, vẫn còn một số nơi chốn trong
vũ trụ mà con người muốn đến, và con người vẫn chưa phát triển được kỹ
thuật để đến đấy. Nhưng hình như tất cả những thứ đó đều trong tầm tay
của con người. Với sự lạc quan về khả năng của con người, thì về phía bi
quan, chúng ta, trong tiến trình đó, đã mất mát một cái gì đó. Hãy để
cả hai việc này trong tâm.
Phật Giáo
Vậy thì chúng ta hãy
nhìn vào Phật giáo xem Phật Giáo là gì. Chúng ta hiểu Phật Giáo như thế
nào? Có thể có nhiều thứ đối với nhiều người khác nhau. Có người cho
rằng đó chỉ là đời sống của Ðức Phật, tấm gương của Ðức Phật và những
người đệ tử gần gũi nhất của Ngài đặt ra - đó là kỳ công quang vinh của
một người, một người đứng trước công chúng tuyên bố con đường giải
thoát. Ðó là một loại Phật Giáo.
Với số người khác, Phật Giáo có
nghĩa là học thuyết quần chúng như đã ghi trong văn học Phật Giáo đương
nhiên gồm nhiều tập và gồm vài nghìn trang ghi các lời của Ðức Phật. Và
trong đó miêu tả một triết lý cao quý, sâu sắc, phức tạp và uyên bác về
cuộc đời.
Rồi căn cứ vào lời dạy của Ðức Phật, vào sự tu tập
trong thời kỳ Ðức Phật tại thế, nảy sanh một nền văn hóa xúc tích, một
nền văn hóa đã lan rộng khắp Á Châu từ 2500 năm qua, và các dân tộc từ
những tầng lớp xã hội khác nhau có nền tảng xuất thân khác nhau ở những
quốc gia ấy đã đóng góp vào sự trường tồn của Phật Giáo.
Một số
lớn giáo phái và trường phái, hay hệ thống triết lý, đã phát triển, và
tất cả, đúng hơn đã hoạt động dưới danh hiệu Phật Giáo. Rồi đến một định
nghĩa khác về Phật Giáo: đó là một loại nghi thức phát sanh chung quanh
học thuyết của Ðức Phật do giáo lý và cách sống được thuyết giảng bởi
Ðức Phật, trở thành một tôn giáo.
Dù Ðức Phật muốn hay không
muốn, giáo lý của Ngài thành tôn giáo, một tôn giáo mà người dân chấp
nhận nguyện trung thành có nghi thức riêng, có tổ chức, đường lối hay
tiêu chuẩn để quyết định cái gì làm đúng và cái gì làm sai. Nay lại có
một loại Phật Giáo khác. Nếu ta lấy một trong những khía cạnh riêng rẽ,
và thử khảo sát tác động của cái gọi là Phật Giáo trong đời sống hiện
đại, thì chắc chắn quả là một công việc lớn lao.
Với tôi, Phật
Giáo là tất cả những thứ này. Ðó là Ðức Phật và đời sống của Ngài, học
thuyết, văn hóa đã phát triển quanh nó và đã dự phần đóng góp, và nghi
lễ liên quan. Một khi ta lấy việc này đem so sánh với một khối lớn kinh
nghiệm của con người, đem lọc kỹ càng thành một dạng thức tinh túy nhất
và đem trình bày cho chúng ta thì mỗi chúng ta có thể chọn phần thích
hợp, phần lôi cuốn chúng ta sẽ thấy cái độc đáo phi thường của Phật
Giáo.
Lúc tại thế, chính Ðức Phật thường nhấn mạnh điểm này.
Không cần thiết phải là một học giả mới biết mọi thứ. Phật Giáo không
giống một môn học như toán mà bạn phải học các định lý và các phương
pháp để giải đáp những loại tính. Nếu bạn biết nền móng, căn bản thì sự
nghiên cứu chi tiết uyên thâm không phải là một điềm báo trước quan
trọng để tu tập.
Cho nên ngoài thứ này, văn hóa, tôn giáo hay văn
chương rộng lớn Phật Giáo, hay một khối lớn kinh nghiệm đến với chúng
ta là Phật Giáo, mỗi trong chúng ta sẽ thấy điều gì thích đáng cho đời
sống, cho loại khó khăn của chúng ta.
Một Học Thuyết Vô Tận
Tôi
thường băn khoăn không hiểu sao Phật Giáo được gọi là "Akalika" có
nghĩa là "vô tận" - lúc nào cũng tồn tại. Tôi càng thấy sự thay đổi
trong văn hóa Phật Giáo hay Ðạo Phật, tôi càng thấy phải làm sao tiếp
tục thích ứng với nhu cầu ở mọi lãnh vực, dân số, cá nhân, tôi càng thấy
bức thông điệp của Ðức Phật truyền đạt lúc nào cũng có giá trị bất
diệt.
Cho nên nếu Phật Giáo có sự áp dụng ngày nay, và nếu Phật
Giáo có một vị thế trong đời sống hiện đại thì đó là vì sự liên quan
thích đáng vô tận, bắt nguồn từ một tập hợp các giá trị bất diệt. Nói về
đặc điểm bất diệt là một cách hết sức nghịch lý trong việc trình bày
hay miêu tả một tôn giáo có nguyên lý học thuyết vô thường ở ngọn nguồn.
Cái đặc tính vô tận bắt nguồn từ thực tế được hiểu là mọi thứ đều tiếp
diễn không ngừng, nhưng tiếp tục trong một luồng, trong một tiến trình
thay đổi và tiến hóa không ngừng. Vậy nên Phật Giáo có thể thích nghi
với mọi thời gian và mọi nền văn minh.
Cho nên chúng ta có thể,
không một ngần ngại, tiếp cận với bất cứ một khía cạnh nào của Phật Giáo
như một điều gì thích hợp và có thể áp dụng với chúng ta ngày nay.
Những
vấn đề gì khiến Phật Giáo vô tận? Xin để tôi lấy một vài điều. Ðiều
trước nhất là sự thừa nhận trách nhiệm của một cá nhân. Ðức Phật là một
trong các vị đạo sư phi thường giải phóng con người khỏi tất cả những
ràng buộc - những ràng buộc của mối quan hệ siêu nhân, một Thượng Ðế, sự
sáng tạo, tội lỗi hay bất cứ một đặc điểm từ một người nào đó (ngoài
điều chính bạn đã làm).
Cho nên, Ðức Phật nói mỗi người là vị chủ
tể của chính mình, người đó ban hành ra nguyên tắc mà sự áp dụng trở
nên mạnh mẽ hơn vì con người bắt đầu càng thấy tin tưởng hơn trong việc
kiểm soát chính mình và môi trường chung quanh. Vậy, nếu ngày nay với sự
phát triển của khoa học và kỹ thuật, con người cảm thấy đã đi đến điểm
mà trí thông minh của mình làm cho mình cao hơn bất cứ ai khác, và cho
phép mình giải quyết bất cứ khó khăn nào hiện có, liệu vật chất hay đạo
đức, hay chính trị, hay bất cứ gì đi nữa, sẽ không phải là nguyên tắc
con người là vị chủ tể của chính mình mà con người phải chịu trách nhiệm
trước chính mình vì bất cứ gì mình làm ra mình thừa hưởng - trở thành
một trong những cách thức quan trọng nhất để xem xét chính mình?
Vậy
nên cách giải quyết căn bản làm con người thoát khỏi tất cả những xiềng
xích, tinh thần và các mặt khác, là một trong những học thuyết rất quan
trọng của Phật Giáo đóng góp vào tính vô tận của tôn giáo này. Chúng ta
càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiến bộ, thì việc cần thiết của
con người là phải xác nhận chính mình là vị chủ tể của mình. Con người
càng xác quyết chính mình là vị chủ tể của mình, lại càng phải nhớ lại
lời Ðức Phật dạy: "Atta hi attano natho".
Tự Do Tư Tưởng
Rồi
đến một học thuyết khác không kém phần quan trọng: Học thuyết về tâm mở
rộng- tự do tư tưởng. Phật Giáo không những giải thoát chúng ta khỏi
Thượng Ðế hay sự ràng buộc siêu nhiên mà còn giải thoát chúng ta khỏi
tín điều. Chúng ta hãy mường tượng thời gian Ðức Phật thuyết giảng. Ðó
là một thời gian mà nhiều giáo lý của các tôn giáo khác đang thịnh hành
và Ấn Ðộ ở vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Nguyên là một nơi được chú trọng
nhất về cuộc sống.
Các đạo sư tôn giáo đưa ra nhiều loại học
thuyết ganh đua với nhau để có nhiều người theo đạo của mình. Ngoài
những giáo lý mới, còn có những hệ thống đạo lý thâm căn cố đế. Trong
tất cả những hệ thống tôn giáo này, lý thuyết rêu rao là: "Chúng tôi đã
tìm ra con đường". "Con đường này là con đường chính đáng". "Bạn đến
đây, bạn sẽ được cứu độ".
Vào giữa lúc này, Ðức Phật xuất hiện và
nói: "Ðừng tin vào sách vở nói. Ðừng tin vào những gì các bậc thầy dạy
nói. Ðừng tin vào truyền thống nói. Ðừng tin vào điều gì chỉ vì điều đó
là của quyền thế hay của một người nào đó. Hãy tự mình kinh nghiệm điều
đó. Bạn phải tự suy nghĩ. Hãy tự mình nhận thấy đúng hay sai. Một khi
nhận thức thấy đúng hãy làm theo."
Chính điều này là một phương
cách rất mạnh: con người được hoàn toàn tư do, điều mà con người tranh
đấu để có, tự do tư duy. Nếu dưới chế độ phong kiến, trước khi các tiến
bộ hiện nay đạt được, chúng ta không có quyền được tự suy nghĩ, khi các
tiến bộ ngày nay đang diễn ra, chúng ta càng xác quyết quyền (tự do suy
nghĩ) càng nhiều hơn nữa.
Chúng ta sẽ cảm thấy tin theo sau những
cuộc điều tra nghiên cứu của chính chúng ta, và sau khi chúng ta đã có
thể xem xét tỉ mỉ những nguyên tắc, những thực tế, những điều thuận và
nghịch. Ðiều này chúng ta coi như một quyền bất khả xâm phạm. Ðó là một
học thuyết thứ hai có thể áp dụng vào thời hiện đại, và tương lai phải
tiếp tục.
Vai Trò Của Phật Giáo
Ðến một câu hỏi quan trọng
nhất - Ngoài phần hỗ trợ cái mà con người muốn khẳng định về bản thân
trong hiện tại và tương lai, Phật Giáo sẽ tiếp tục có một vai trò sửa
sai không? Với câu hỏi này thấy có một khía cạnh quan trọng nhất mà tất
cả chúng ta phải lưu tâm ngày nay. Trong khi con người có những tiến bộ
này, chúng ta cũng thấy áp lực của đời sống hiện đại - sự cạnh tranh để
sống còn, sự cạnh tranh nhằm làm tốt hơn người khác, sự ham thích sống
cuộc đời ganh đua về kinh tế, chính trị, văn hóa, hoặc bất cứ hình thức
nào - mang đến căng thẳng.
Ðể giảm bớt những căng thẳng này, con
người lại càng phát triển nhiều hình thức vui chơi giải trí và nghỉ
ngơi. Kết quả bề ngoài có vẻ được chút ít thư giãn nghỉ ngơi để giảm bớt
căng thẳng, nhưng hình như họ càng ngày càng sa vào vòng tội lỗi. Vì
căng thẳng, ta lại tham đắm vào một loạt hoạt động thoát ly thực tế, và
vì những hoạt động đào thoát này mất quá nhiều thì giờ, ta lại phải bắt
cho kịp tiến trình sống còn nên càng sa vào giai đoạn căng thẳng trầm
trọng hơn. Kinh tế càng tiến bộ lớn mạnh bao nhiêu, chính trị càng sáng
tỏ bấy nhiêu, ta lại càng phải cần đến thuốc giảm đau và thuốc an thần
để làm nhiệm vụ bình thường. Bạn phải uống một viên thuốc để thức, một
viên để ngủ, một viên để thư giãn và vân vân...
Kiểu hiện đại hóa
này đã thành mốt ở chỗ nào căng thẳng con người lên tới chỗ thấy rằng
tất cả những gì mà con người đã đạt được là không còn dùng được, là ở
trong một tình trạng nghiêm trọng. Thêm vào những áp lực này, nảy sanh
một khía cạnh khác trong đó với thời gian rảnh rang dồi dào mà con người
đạt được ngày nay do thoát khỏi sự làm việc cực nhọc, lại phải đương
đầu với một khó khăn khác - đó là sự chán chường.
Cho nên với một
bên là áp lực căng thẳng, bên kia thì chán chường, xuất hiện một loạt
tình trạng phức tạp làm con người thực sự không hạnh phúc. Ngày nay
người ta có thể hỏi: Phải chăng con người đang sống thực sự hạnh phúc,
hay ở trong tình trạng mà ít nhất nhận thức thấy rằng mặc dù đã đạt được
mọi thứ, họ đã mất một cái gì dưới hình thức của những khía cạnh căn
bản của đời sống? Ai là người bị trách cứ? Phải chăng chúng ta trách
khoa học? Chúng ta trách kỹ thuật? Chúng ta trách hệ thống chính trị?
chúng ta trách hệ thống kinh tế do ta thừa hưởng hay do ta phát triển?
Hay chúng ta trách cứ chính chúng ta?
Bạn Là Vị Chủ Tể Của Chính
Bạn
Quay về lối nhìn của Ðức Phật vào vấn đề, bạn sẽ nói, bạn nắm
phương tiện cuộc sống trong tay bạn. Bởi lẽ bất cứ gì sai, bạn đều phải
chịu trách nhiệm, bạn là vị chủ tể của chính bạn. Bạn để nó chạy như
vậy - cho phép nó thoát khỏi sự kiềm chế trong tay bạn. Quả là dễ dàng
để trách cứ một người: "Bạn để cơ hội trôi qua, bạn đã để mất cơ hội từ
tay bạn".
Nhưng cái đó có giúp ích không? Cái vĩ đại của Phật
Giáo nằm trong sự việc này, nó không dừng lại sau khi đặt trách nhiệm
cho bạn và không nói: Bây giờ đó là như thế. Nay chúng ta tìm thấy thủ
phạm. "Tiến tới giai đoạn kế tiếp nói rằng: "Nơi đây có một ít thứ có
thể làm được".
Nếu một người cứ loay hoay nhìn vào đủ loại biện
pháp tôn giáo, tâm thần, tâm lý liên can để cứu người hay để chữa chạy
trạng thái căng thẳng này và chán chường bên kia, bạn sẽ thấy có rất
nhiều biện pháp nhưng không một biện pháp nào lại không tốn kém, thực
tiễn như những hưóng dẫn đơn giản của Phật giáo tiến dẫn. Ta có thể đặt
câu hỏi: "Có phải một người khi trở thành Phật Tử thì sẽ không còn bị
căng thẳng hay chán chường trong đời sống hiện đại nữa phải không?
Trả
lời câu hỏi này rất khó vì không ai trở thành một Phật Tử. Không có ai
mang cái nhãn hiệu Phật Tử. Vì Phật Giáo không phải là một trong những
triết lý ấy hay lối sống hay tôn giáo - Tôi dùng từ "tôn giáo" vì không
có một hạng nào khác để có sắp vào cho ngang bằng - trong đó cần có một
nhãn hiệu. Khi Ðức Phật còn tại thế, dân chúng tìm đến Ngài, nghe Ngài
và nếu họ thấy vừa lòng với Ngài họ nói: "Tôi nương tựa nơi Ngài, nơi
Giáo Pháp của Ngài, và nương tựa nơi Ðoàn thể Tăng Già, cộng đồng, những
đệ tử theo cách sống ấy".
Cả đến ngày nay tất cả thứ đó cần
thiết cho bất cứ ai tự gọi mình là Phật Tử. Vì đã tin theo điều mà Ðức
Phật dạy thích hợp với khó khăn của đời sống, ta cảm thấy đó là lối sống
có thể theo đuổi vì có lợi ích, bằng cách nương tựa nơi Phật, Pháp và
Tăng Già. Với lòng tin vững chắc trong tâm này, người ấy trở thành người
Phật Tử không cần phải nghi lễ, nghi thức của một loại nào, ghi danh,
hay những đòi hỏi pháp luật nào khác. Ðó là điều mà F.I. Woodword, một
trong những dịch giả tài giỏi về chuyển ngữ những lời của Ðức Phật gọi
là "một-tôn-giáo -do-chính-bạn-làm-ra".
Ngày nay có nghĩa gì khi
có cả hàng nghìn người chưa bao giờ đặt chân tới một ngôi chùa Phật,
chưa bao giờ tham gia nghi thức đã phát triển trong các quốc gia Phật
Giáo, nhưng ai là người mà tâm của mình đã nhìn thấy giá trị bức thông
điệp của Ðức Phật và ai là những người sống một cuộc đời theo đúng giáo
lý của Phật Giáo. Thực ra, chúng ta thấy đa số dân cư trên thế giới
nguyện trung thành với Ðức Phật vì lý do này hay lý do khác. Ðó là một
trong những điều phi thường mà ta có thể coi hầu như là một vi diệu.
Lối
Sống
Lối sống do Ðức Phật thuyết giảng rất là đơn giản. Ðối với
người cư sĩ nó gồm có năm giới đơn giản: không giết, không trộm cướp,
không tà dâm, không nói dối, và không dùng các chất say - quả là một cụm
giới rất đơn giản. Nhưng lối sống Phật Giáo mà Ðức Phật miêu tả chưa
chấm dứt với loại giới này. Ðể đơn giản hóa trong một phương cách khiến
bất cứ ai cũng có thể hiểu được, có ba điều mà mỗi người cố gắng làm
được gọi trong tiếng Pali là Dana (Bố Thí), Sila (Trì Giới), và Bhavana
(Thiền Ðịnh).
Dana (Bố Thí) có nghĩa là hào phóng, rộng rãi -
hành động cho. Rất quan trọng Phật Giáo bắt đầu với Bố Thí như một hành
động đạo hạnh thứ nhất mà ta phải thi hành nhằm đưa mình vào con đường
chính đáng, vì bố thí là một hành động hy sinh. Ðể có thể cho một cái
gì, tâm bạn phải sẵn sàng từ bỏ cái mà bạn có đó, cái mà bạn quý trọng,
cái mà bạn luyến ái. Cho nên bạn phải đương đầu với nguyên nhân lớn nhất
của tất cả các khó khăn trong tiếng Pali được gọi là Lobha (tham) hay
tham dục hay tham lam. Thật lý thú được thấy lối sống được trình bày cho
chúng ta trong cái cách từng bước một chúng ta có thể loại trừ được
những nhược điểm và đặc điểm của con người chính nó gây căng thẳng và
chán chường đang làm ta bực dọc ngày nay. Hào phóng là chống lại tham
dục, lòng tham, bản chất bám níu.
Giới liên quan chặt chẽ tới một
số giới luật, đạo đức hay hạnh luân lý. Ðức Phật biết rõ người ta không
thể đặt ra điều lệ và quy tắc cho mọi người trong cùng một đường lối.
Cho nên có một số luật lệ cho người cư sĩ. Thêm một số luật lệ nữa cho
những ai muốn sống một cuộc đời đạo hạnh, và nhiều hơn nữa cho những
thầy tu tự nguyện dấn thân vào con đường nghiêm ngặt về kỷ luật và thanh
tịnh. Cho nên Giới là một thứ tăng trưởng dần dần, để mỗi người làm
quen cái có thể theo được trong hiện tại.
Trong giới hay hạnh
luân lý, hay giáo lý đạo đức của Ðức Phật, chúng ta quay về với học
thuyết đầu tiên: chúng không phải là điều răn, chúng không phải lệnh
truyền từ trên, chúng không phải lệnh ban bố bởi Ðức Phật, những mệnh
lệnh phải tuân theo. Mỗi một giới luật mà chúng ta, người Phật Tử giữ là
lời chính mình tự hứa hoàn toàn tự nguyện. Và cách mà các giới ấy nói
là: 'Tôi tự nguyện giữ kỷ luật không sát sanh, trộm cắp" vân vân..., vì
tôi là chủ tể của số phận của tôi, và chính tôi quyết định cuộc sống mà
tôi nên theo.
Ðức Phật như một người dẫn đường đã cho thấy một số
nhược điểm căn bản hay những lầm lẫn mà ta cần phải tránh. Nguyên nhân
thứ hai trong hầu hết các vấn đề mà chúng ta có là hận thù của chúng ta,
hay oán hờn người khác. Tiếng Pali được gọi là Dosa. Sila (giới) là một
trong những thuốc giải độc cho nguyên nhân thứ hai này về tất cả các
nhược điểm của chúng ta. Khi chúng ta giữ giới, chúng ta kiểm soát hay
đúng hơn là chúng ta hoàn toàn loại bỏ nguyên nhân của hận thù.
Ðức
Phật là một trong những người rất biết về những hậu quả của hận thù.
Ngài đã nhìn thấy những người đã tự hủy hoại do hận thù. Ðiều mà đã
khiến Ngài khẳng định sân hận không dập tắt được sân hận, càng sân hận
bao nhiêu thì khốn khổ bấy nhiêu. Bạn ghét tôi, tôi ghét bạn: Tôi ghét
bạn nhiều hơn, bạn ghét tôi nhiều hơn và sân hận cứ thế tăng đến điểm cả
hai bạn và tôi đều tự bị thiêu đốt trong mối sân hận lẫn nhau, và theo
Ðức Phật cách duy nhất là một trong hai người phải ngưng. Vì lẽ không có
một bên hay tốt hơn cả hai bên đều cố gắng đều chiến thắng sân hận bằng
tình hữu nghị, chiến thắng bằng không sân hận, sự liên tục của sân hận,
sân hận nối tiếp sẽ không bao giờ chấm dứt.
Phương cách đối phó
này căn cứ vào toàn bộ học thuyết về cuộc sống đạo đức trong Phật Giáo.
Vì lẽ đời đạo hạnh đánh phá nguyên nhân yếu kém thứ hai của chúng ta
được gọi là sân hận, trong Phật Giáo chúng ta có học thuyết rất lợi ích
và vô tận về lòng từ ái. Lòng từ ái là nền tảng của Phật Giáo, (nền móng
trên đó học thuyết của Phật Giáo được xây dựng) không phải Ðức Phật chỉ
coi điều đó như một nguyên tắc đạo đức đơn giản. Ngài đã lý giải nguyên
tắc của lòng từ ái trong cuộc sống cao thượng.
Rồi đến lòng từ
bi - Karuna. Lòng trắc ẩn phát sanh dễ dàng hơn. Bạn thấy người nào gặp
khó khăn, bạn thấy ai cần đến sự giúp đỡ của bạn, tim bạn, tình yêu
thương của bạn hướng tới người đó và bạn vội vã giúp người ấy. Ðức tính
vội vàng giúp đỡ người- cảm thấy áy náy vì người khác đau khổ, đó là một
khía cạnh khác của lòng từ ái.
Rồi đến khía cạnh thứ ba, một
khía cạnh khó khăn hơn để thực hành, khía cạnh này đòi hỏi tình thương
và chịu đau khổ lớn lao được gọi là Mudita - lòng hoan hỷ, đó là chia sẻ
hạnh phúc của người khác - quét sạch trong tâm tất cả những dấu vết của
ganh ghét và thèm muốn, để bạn có thể vui với hạnh phúc của người khác,
của người láng giềng và ngay cả của kẻ thù.
Cuối cùng là khía
cạnh thứ tư của lòng từ ái và đó là sự thanh thản hoàn toàn, tâm xả ly,
Upekkha. Bạn không còn bạn, không còn thù, không ai hơn, không ai kém.
Bạn tuyệt đối không còn phân biệt người này với người kia, và bạn hoàn
toàn hòa đồng vào cái tính thống nhất với tất cả chúng sinh, tất cả sự
vật, tất cả hoàn cảnh. Cho nên một khi bạn có thể sống một cuộc đời với
bốn đặc điểm này chi phối hành động của bạn thì không còn chỗ cho sân
hận, không có chỗ cho hơn thua, không có chỗ cho tranh đua. Cho nên
nguyên tắc thứ hai của giới sẽ chịu trách nhiệm về chuỗi khó khăn mà
chúng ta sẽ có thể có.
Ðiều nghĩa lý nhất sau cùng, điều mà bạn
sẵn sàng tiến hành ngay, đó là Bhavana - thiền định. Thiền định có nghĩa
là huấn luyện tâm. Tiếng này theo từ nguyên học tự nó có nghĩa là mở
mang- sự phát triển của tâm. Ðức Phật tin, và là một người tuyên bố sớm
nhất là mọi thứ bắt nguồn từ tâm con người (nhất thiết do tâm tạo). Tổ
chức mà tôi miêu tả có lời mở đầu trong Hiến Pháp: "Vì chiến tranh khởi
đi từ tâm con người, thì chính nơi tâm con người có thể kiến tạo được
hòa bình".
Ðiều này phản ảnh dòng đầu của câu kệ thứ nhất trong
Kinh Pháp Cú. Tâm thanh tịnh, tâm được huấn luyện, tâm mở mang, tâm được
kiểm soát theo ý muốn, tâm buông lung dẫn đến những điều căng thẳng và
chán chường, nhưng tâm biết cảnh giác, biết tự phát triển, tự khám phá,
và trong lòng nó bí ẩn của đời sống, khó khăn của cuộc đời và sự thực
của đời sống, là kho tàng vĩ đại của con người.
Tôi không ngạc
nhiên ngày nay có sự say mê ở bộ phận thế giới có sự phát triển kỹ thuật
cao độ về tất cả các loại thiền định. Không có gì là quan trọng về
chuyện ai thuyết giảng cái gì hay triết lý nào, hay kỹ thuật nào đem ứng
dụng. Nhưng sự thực vẫn là người ta bắt đầu nhận định được lúc tĩnh
lặng tập trung, lúc suy nghĩ thâm sâu, lúc chức năng của tâm được kiểm
soát đúng cách, là một yếu tố cần thiết cho hạnh phúc của con người.
Từ
2500 năm qua, Ðức Phật đã dạy đường lối này.và không có gì khác cần cho
con người ngày nay thì con người cần an lạc trong tâm. Con người muốn
thoát khỏi căng thẳng và chiến đấu chống lại chán chường. Và tôi nhìn
thấy câu trả lời trong Phật Giáo, nhất là ba pháp Bố Thí, Trì Giới và
Thiền Ðịnh.
Hãy nhìn vào nguyên tắc riêng của Ðức Phật như căn
bản hay sự khởi đầu cuộc đời đạo lý của Ngài. Chúng ta biết nhiều người
nghèo trở thành giàu, nhưng nơi đây trường hợp người giàu trở thành
nghèo, đi tìm kiếm, như chúng ta có thể nói, an lạc trong tâm - đó là
phước báu vĩ đại nhất. Kết quả người ấy nhìn vào chính mình, rồi dạy
người khác sự cản trở lớn, nguồn gốc của tất cả khó khăn, là sự luyến
chấp.
Cho nên, nếu hôm nay có một người nào đó đến nói rằng: "Tôi
có thể đưa bạn thẳng đến Niết Bàn chỉ trong một phút" Tôi nghĩ rằng hầu
hết chúng ta đều có lòng tha thứ. Người nào đó sẽ nói: "Tôi có thể chờ
đến khi con gái tôi lấy chồng không?" Một người khác lại nói: "Tôi có
thể chờ đợi đến Ðại Hội Thiện Hữu Phật Giáo Thế Giới chấm dứt không?"
Tôi không thể đợi đến khi hoàn thành nhiệm vụ ở Bangkok?" Chúng ta đều
có lúc thích hơn khi mục tiêu tối hậu đến.
Dù quyết định của bạn
ra sao để tiến tới mục tiêu, có một điểm mà chúng ta không thoát khỏi.
Chúng ta không thể chối bỏ sự thực tất cả những phát triển hiện đại
không có gì để tiến dẫn mà bất an, tranh giành cũng như căng thẳng và
chán chường kết liên với chúng. Phật Giáo đưa ra một số ít phương pháp
đơn giản hữu hiệu để chiến đấu với chúng. Với điều này tôi cảm thấy Phật
Giáo có một vai trò trong đời sống, một vai trò mà trong các nước Phật
Giáo giữ một phần quan trọng.
Trách nhiệm của chúng ta là chia sẻ
tư duy, kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta càng nhiều càng tốt để
cuối cùng chúng ta đều nhìn thấy thông điệp của Ðức Phật, bức thông điệp
đem lợi ích cho nhân loại, không ngưng tiến tới nhân loại ở khắp thôn
cùng xóm vắng, ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Thích Tâm Quang
(dịch)