Lời nói đầu
Bản kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật do Lục tổ Huệ Năng giảng nghĩa được
tìm thấy trong Tục Tạng Kinh Trung Hoa ( Vạn, số 459 A ) chưa được dịch
ra tiếng Việt.
Hôm nay tôi cố gắng dịch để gửi tặng chư Tăng Ni
và Phật tử Việt Nam tại quốc nội cũng như ở hải ngoại nhân mùa Phật Đản
Vesak 2008, kèm theo bản dịch Anh ngữ của Thomas Cleary.
Bản dịch
chính văn của Kinh Kim Cương Bát-nhã thì Tổ Huệ Năng đã theo bản Hán
dịch của Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, phần phân mục này theo Thái tử
Chiêu Minh. Nay trong bản dịch tiếng Việt này, phần chính văn Kinh Kim
Cương Bát-nhã thì tôi theo bản Việt dịch của Hòa thượng Thich Trí Quang,
phần phân mục tôi vẫn giữ theo Thái tử Chiêu Minh.
Sơ dĩ bản
dịch Anh ngữ của Thomas Cleary được kèm theo là để giúp quý Tăng Ni Phật
tử tiện nghiên cứu các danh từ Phật học Anh ngữ, cũng để giúp các Phật
tử Việt Nam ở hải ngoại có thể đọc tụng Kinh Kim Cương bằng Anh ngữ.
Kinh
Kim Cương và Pháp Hoa là hai kinh được trì tụng nhiều nhất ở Việt Nam
và Trung Hoa. Những sự linh nghiệm xảy ra ở Trung Hoa còn được ghi lại
thì Kinh Kim Cương có 113 tờ, so với 37 tờ của Kinh Pháp Hoa ( Vạn,
149/38-150)
Kinh Kim Cương liên hệ trọn vẹn đối với Lục tổ Huệ
Năng, từ khi thoáng nghe cho đến khi được trao truyền y bát làm Tổ thứ 6
của Thiền tông Trung Hoa. Thật là thích thú khi được đọc, nghiên cứu
những giải thích, giảng nghĩa của Tổ Huệ Năng. Ngộ nhập Kinh Kim Cương
tức ngộ nhập Phật tâm, vào Vô thượng chính đẳng Bồ-đề.
Tôi xin
chân thành cám ơn Cư sĩ Nguyên Hồng đã đọc lại, hiệu chính bản văn trước
khi in. Dịch Hán văn cổ của thế kỷ thứ 8, chắc không sao tránh khỏi
khuyết điểm, mong các vị cao minh chỉ giáo để kỳ tái bản được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin đề tặng bản quyền của dịch phẩm này cho Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế.
California, mùa Vesak 2008
Nguyên Hiển
Bài tựa
Kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật
giảng nghĩa
Nguyên tác : Lục tổ Huệ Năng
Việt dịch : Nguyên Hiển
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng.
Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến
người đời ngộ lý đạo, thấy tính. Chỉ vì người đời không thấy tự tính nên
lập pháp môn kiến tính, nếu thấy được bản thể chân như thì chẳng cần
lập pháp môn.
Kinh Kim Cương Bát-nhã này được vô số người đọc
tụng, vô biên người xưng tán, có hơn tám trăm nhà luận giải. Sự tạo luận
tùy theo cái thấy của mỗi người. Năng lực thấy đạo dầu không đồng,
nhưng chân lý thì không hai.
Những người thượng căn một lần nghe
liền liễu ngộ. Những người độn căn dầu đọc tụng nhiều nhưng không thông
đạt Phật ý. Đó là lý do cần giải thích nghĩa lý của Thánh nhân để đoạn
trừ nghi lầm. Nếu hiểu được ý chỉ của kinh, không còn nghi lầm, thì
không cần giải thích.
Như Lai từ ngàn xưa thuyết giảng thiện pháp
là để diệt trừ tâm xấu ác của phàm phu. Kinh là lời dạy của Thánh nhân
để người đời nghe lĩnh hội mà vượt qua thân phận phàm phu , thấy thánh
đạo, vĩnh viễn diệt trừ mê tâm.
Một quyển kinh văn này, tự tính
chúng sinh đều có mà không thấy bởi chỉ đọc tụng lời văn. Nếu ngộ được
bản tâm thì biết ngay rằng kinh chẳng ở nơi văn tự. Có khả năng thấy rõ
tự tính mới có thể tin rằng tất cả chư Phật đều từ kinh này mà ra.
Nay
sợ người đời tìm Phật ngoài thân, hướng ra ngoài mà kiếm kinh, không
khai phát nội tâm, không gìn giữ cái ý nghĩa kinh trong tâm của mình, vì
vậy mới phải tạo luận, giải quyết nghi lầm để người tu học biết giữ lấy
kinh trong tâm của mình, thấu rõ Phật tâm thanh tịnh vô lượng vô biên
không thể nghĩ bàn.
Nếu kẻ hậu học đọc kinh còn nghi ngờ, đọc lời
giải thích này các nghi vấn sẽ tan dứt. Mong người tu học biết có vàng
trong quặng và dùng lửa trí tuệ nấu chảy quặng để được vàng.
Đức
Bản sư Thích-ca nói Kinh Kim Cương tại nước Xá-vệ ( Shravasti ) là do
Tu-bồ-đề ( Subhuti ) thưa thỉnh. Phật từ bi tuyên thuyết, Tu-bồ-đề nghe
pháp tỏ ngộ xin Phật đặt tên kinh để người sau theo đó mà thụ trì. Vì
vậy trong kinh có nói : “Phật bảo Tu-bồ-đề kinh này tên là Kim Cương
Bát-nhã Ba-la-mật ( Vajra-Prajñapāramitā ), ông nên phụng trì như vậy !”
Như
Lai nói Kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật là ẩn dụ cho chân lý. Nghĩa ấy
thế nào ? Kim cương là báu vật của thế giới, tính cứng sắc bén có thể
làm vỡ nát các vật.
Kim loại tuy rất cứng, sừng linh dương có thể
phá hoại. Kim cương dụ Phật tính, sừng linh dương dụ phiền não. Kim
loại tuy cứng, sừng linh dương vẫn có thể phá hoại. Phật tính tuy kiên
cố, phiền não vẩn có thể não loạn. Phiền não tuy cứng chắc, trí Bát-nhã
vẫn phá được. Sừng linh dương tuy cứng chắc nhưng sắt thép có thể cắt
được.
Người ngộ lý này tức thấy được Phật tính.
Kinh
Niết-bàn nói : “Người thấy được Phật tính, không gọi là chúng sinh,
không thấy Phật tính, gọi là chúng sinh.” Như Lai ví dụ kim cương vì
người đời tính không kiên cố, tuy miệng tụng kinh mà ánh sáng tuệ giác
không phát. Nếu ngoài tụng trong hành trì, ánh sáng tuệ giác sẽ phát
sinh. Nếu nội tâm không kiên cố thì định tuệ liền mất. Miệng tụng tâm
hành định tuệ đồng đẳng, như vậy là rốt ráo.
Vàng ở trong núi, núi không biết vàng là báu. Báu vật không biết núi, núi không biết báu vật. Vì sao ? Vì vật là vô tính.
Con
người là hữu tính, biết sử dụng của báu. Nếu tìm được thợ mỏ, đục núi
phá đá, lấy quặng đúc luyện thành vàng ròng, tùy ý sử dụng không còn
nghèo khổ.
Cũng thế, Phật tính ở trong thân tứ đại này. Thân dụ
thế giới, nhân ngã dụ núi cao, phiền não dụ quặng mỏ. Phật tính dụ vàng,
trí tuệ dụ thợ mỏ, tinh tiến dũng mãnh dụ cho sự công phá đúc luyện.
Trong
thế giới của thân có núi nhân ngã, trong núi nhân ngã có quặng mỏ phiền
não, trong quặng mỏ phiền não có báu vật Phật tính, trong báu vật Phật
tính có thợ trí tuệ.
Dùng thợ trí tuệ công phá núi nhân ngã, sẽ
thấy có quặng mỏ phiền não. Dùng lửa giác ngộ luyện rèn, sẽ thấy được
Phật tính kim cương của mình trong sạch chiếu sáng.
Vì vậy kim cương được dùng làm ví dụ và đặt tên kinh là như thế.
Nếu
chỉ hiểu suông mà không thực hành, tức chỉ có tên không có thực chất.
Nếu có trí có hành, tức có tên và bản chất đầy đủ. Không tu là phàm phu,
tu là tương đồng với Thánh trí, nên gọi là kim cương.
Bát-nhã là
gì ? Bát-nhã ( Prajñā ) là danh từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa là trí
tuệ. Người trí không khởi tâm mê, người tuệ có phương tiện khéo léo. Tuệ
là thể của trí, trí là dụng của tuệ.
Nếu trong thể có tuệ thì
dụng trí không ngu. Thể mà không có tuệ thì dụng ngu không trí. Vì ngu
si chưa ngộ nên tu trí tuệ để diệt trừ, cho nên gọi là Ba-la-mật.
Ba-la-mật
( Pāramitā ) là gì ? Tiếng Trung Hoa nghĩa là đến bờ kia. Đến bờ kia
nghĩa là thoát ly sinh diệt. Vì người đời tính không kiên cố, đối với
tất cả vạn vật đều khởi ý tưởng sinh diệt, trôi lăn trong các nẻo, chưa
đến bờ Chân như, nên gọi là bờ bên này. Điều thiết yếu là có đại trí tuệ
đối với tất cả pháp, hoàn toàn xa lìa ý tưởng sinh diệt, tức là đến bờ
kia.
Vậy nên nói tâm mê là bờ này, tâm ngộ là bờ kia. Tâm tà là
bờ này, tâm chính là bờ kia. Miệng nói tâm hành tức tự Pháp thân có
Ba-la-mật. Miệng nói tâm chẳng hành, tức không có Ba-la-mật.
Sao
gọi là kinh ? Kinh là con đường để thành tựu Phật đạo. Phàm người muốn
phát tâm thành tựu Phật đạo, trong tâm phải tu hạnh Bát-nhã cho đến chỗ
rốt ráo. Còn như chỉ miệng tụng niệm suông mà tâm không y theo đó hành
trì thì tự tâm không có kinh. Thấy đúng, thật hành đúng là tự tâm có
kinh. Vì vậy Như Lai đặt tên kinh này là Kinh Kim Cương Bát-nhã
Ba-la-mật./.