Gần 90 phần trăm dân tộc Miến đều theo Phật Giáo. Giữa khung
cảnh xanh tươi của đất Miến, người ta thấy vươn lên từ các đỉnh đồi dọc theo bờ
sông hay trên thung lũng những ngôi chùa màu trắng. Ðời sống xã hội Miến hoàn
toàn xây dựng trên nền tảng Phật Giáo. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã thấm
nhuần sâu xa khắp mọi tâm hồn dân Miến. Trong xã hội tăng già hay Phongyis
chiếm một địa vị cao quý, quan trọng. Ảnh hưởng của họ chi phối khắp các từng
lớp dân chúng. Họ tham dự vào hết thảy mọi công tác từ thiện. Mỗi thôn xóm đều
có một ngôi chùa gọi là Phong yikyaung để giúp đỡ, phát triển Phật sự trong
vùng.
Trước kia, những chùa này đã góp
phần đắc lực vào công việc giáo dục Miến. Hiện nay, nền giáo dục của chùa chiền
đang được phục hưng. Những ngày lễ, vía nam nữ Phật tử lũ lượt đến chùa để nghe
chư Tăng thuyết pháp. Các trẻ nhỏ đều được gởi đến chùa để chúng học giáo lý và
học đọc, học viết. Theo phong tục Miến, mỗi thanh niên Phật tử đều phải thọ lễ
"Shinpyu" để vào chùa tập tu suốt trong thời gian chư Tăng an cư
(thường về mùa mưa chư Tăng không đi ngoài khất thực) hoặc khoảng một hay nhiều
năm, hoặc ít nhất là một tuần. Và khi vào ở chùa, họ sống đời tu sĩ y theo luật
Phật chế. Tập tục này đang được ăn sâu dần vào đời sống xã hội Miến.
Miến Ðiện cũng là xứ sở của lễ lược,
hội hè. Văn hóa Miến bao gồm những ngày lễ này, vì đời sống và 2 phong tục Miến
đều gắn liền chặt chẽ với Phật Giáo. Ở Miến, hai ngày lễ bắt đầu và mãn kỳ an
cư của chư Tăng rất lớn. Thời gian an cư tịnh tu bắt đầu từ rằm tháng Wazo Miến
Điện (khoảng tháng 06 hoặc 07 dương lịch). Lễ “Wazo” cũng gọi là "Lễ Hương
Hoa" (Festival of Flowers). Suốt thời gian lễ Wazo, mọi thú vui giải trí
đều được đình chỉ. Thay vào đó, người ta tổ chức nhiều cuộc bố thí giúp đỡ kẻ
nghèo. Chư Tăng được tín đồ cúng dường những y phục mới cùng vật dụng thuốc
men. Trong 03 tháng tịnh tu chư Tăng chuyên tụng kinh và thiền định. Vào những
ngày lễ Wazo, Phật tử không bao giờ tổ chức lễ đám cưới hay dọn nhà.
Lễ "Thadingyut" hay
"Lễ Ánh Sáng" (Festival of Lights) chấm dứt thời gian an cư của chư
Tăng. Lễ này tổ chức vào rằm tháng Thadingyut (khoảng tháng 09 hoặc 10 dương
lịch) với nhiều cuộc vui và bố thí kéo dài trong ba ngày. Ban đêm, các chùa, tu
viện cũng như tất cả các gia đình Phật tử đều thắp đèn. Và toàn quốc Miến Ðiện như
chìm ngập trong biển ánh sáng muôn màu sắc tuyệt diệu.
Lễ "Thingyan" hay gọi là
"Lễ Dâng Nước" (Water Festival), tổ chức vào ngày đầu năm Miến Ðiện,
khoảng từ ngày 13 tháng 04 dương lịch. Sáng mồng một, sau khi tẩy trần tượng
Phật trong nước hoa thơm, Phật tử có tục lệ cung thỉnh chư Tăng về nhà để cúng
dường thọ trai. Lễ này kéo dài suốt ba ngày với nhiều cuộc vui. Ðặc biệt nhất
là vào những ngày đó, dân chúng có tập tục đi tưới nưóc lẫn nhau. Và họ tin làm
vậy là để chúc cho nhau sự may mắn, an lành.
Lễ "Kason Nyaung Ye Thun"
tổ chức vào rằm tháng Kason Miến Ðiện (đôi khi vào khoảng tháng 05 dương lịch).
Trong ngày này, Phật tử có tục lệ đem nước đến tưới vào cây Bồ Ðề (Bodhi nyaung
bin) để tưởng niệm ba trường hợp đức Phật Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn (Nhập
Diệt).
Lễ "Tazaungdaing" tổ chức
vào rằm tháng Tazaungmon, (giữa tháng 11 dương lịch), cũng là dịp để tín đồ
thắp đèn sáng rực rỡ, và cúng dường tứ sự cho chư Tăng. Ngoài những ngày lễ
chính thức trên, còn có nhiều lễ, hội hè Phật Giáo khác đuợc tổ chức tại các
chùa tùy theo tập tục riêng của mỗi địa phương. Ðiều đáng chú ý là trong cuộc
sống tu tập hằng ngày, Phật tử Miến luôn chăm nghĩ đến việc bố thí, trì giới và
trau dồi trí tuệ.
Lúc nào, Phật tử Miến cũng sẵn sàng
bố thí. Họ không những chỉ cho, giúp đỡ thiên hạ thức ăn vật dụng mà còn cho
bằng lời nói, ý nghĩ và việc làm trong sạch. Người ta thích nhận ở kẻ khác
những lời nói an ủi dịu dàng hơn là cho họ thức ăn hay sức khỏe. Vì khi tâm trí
họ nhẹ nhàng, dĩ nhiên lúc ấy thân xác của họ sẽ được khỏe mạnh. Ðối với những
bệnh nhân đau khổ thì không gì giúp họ chóng bình phục hơn bằng sự an ủi trìu
mến của Phật tử chúng ta.
Chúng ta có thể bố thí (Dàna) mà
không cần có tiền. Chúng ta có thể cho người đói thức ăn, kẻ khát nước uống,
người rách rưới áo quần, hoặc nhường chỗ ngồi cho những bạn đồng hành trên một
chuyến xe đông khách. Chúng ta có thể dùng lời nói êm dịu để an ủi những tâm
hồn đau khổ, chăm sóc giúp đỡ bệnh nhân với tất cả tình thương, hoặc luôn tươi
cười vui vẻ với mọi người.
Nụ cười tuy là một vốn liếng rất
nhỏ, nhưng đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích lớn. Những lời nói hiền hòa và
hành động tốt đẹp của chúng ta bao giờ cũng sẽ mang lại cho mọi kẻ sung sướng
lẫn đau khổ nhiều nguồn vui đẹp đẽ biết bao nếu hằng ngày Phật tử chúng ta biết
đem gieo rắt những hành động từ bi đó khắp mọi loài. Và sự lợi ích của cách bố
thí này cũng chẳng kém gì phương pháp tài thí, cho người đồ mặc thức ăn. Nhưng
cách bố thí cao cả nhất là pháp thí.
Giới luật giúp con người trở nên đạo
đức. Thiếu giới luật, con người chỉ là một con vật luôn luôn thô lổ, hung tợn
và tàn bạo ; một kẻ vô cùng độc ác xấu xa. Nó có thể bóp cổ, giết vợ, đâm con,
chém bạn hay đồng bào, cưỡng hiếp thiếu nữ hoặc đánh dập tàn nhẫn kẻ tôi đòi.
Nó có thể hành hạ cha mẹ, bạc đãi vợ con. Nó có thể căm thù và xử tàn nhẫn với
mọi người. Kẻ nào xa lìa giới luật, họ sẽ dễ nói và hành động sai lầm. Nhưng
người giữ giới được rất ít.
Phần đông thiên hạ không ai giữ đặng
những điều răn căn bản của đức Phật dạy như quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và
thọ trì năm giới cấm là không sát sanh, trộm cắp, vọng ngữ, tà dâm, uống rượu.
Người Phật tử trái lại, tối thiểu phải giữ được các điều trên, và cố gắng chu
toàn bổn phận làm con đối với cha mẹ, đạo thầy trò, chồng vợ, chủ tớ đúng theo
lời Phật dạy trong Kinh Thi Ca La Việt (Sigalovàda). Một người dù họ giàu có
hoặc quyền cao chức trọng đến đâu mà không giữ được các giới điều căn bản vừa
kể thì họ vẫn chưa xứng đáng là một người có đạo đức.
Tại Miến kẻ nào cần cù siêng năng,
biết quy y thọ giới theo Phật, đều có thể chóng trở nên sung sướng giàu có, bởi
lẽ họ được mọi người mến chuộng. Bao giờ họ cũng có uy tín hơn những bạn khác
và luôn được quần chúng trọng đãi thán phục. Họ không lo sợ, nắm chắc thành
công khi phải ra đời mưu sinh. Họ chết trong sự an lành, bình tĩnh với niềm tin
đời sau của mình sẽ tốt đẹp. Cho nên Giới là điều kiện căn bản cho sự phát
triển trí tuệ, là cửa ngỏ đưa đến sự giác ngộ hoàn toàn, là con đường chắc chắn
hướng mọi người đến an lạc, hạnh phúc chân thật của Niết Bàn.
* Theo tạp chí "The
International Buddhist News Forum", số tháng 2-1962.