Được
biết Tổ Sư Thiền bắt đầu từ Phật Thích Ca truyền lại cho ngài Ma Ha Ca Diếp, đến
ngài A Nan rồi truyền tới Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền sang Trung
Quốc. Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm sơ Tổ
Thiền Tông Trung Hoa, truyền cho nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo
Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và lục Tổ Huệ Năng.
Sau đó chia thành năm phái: Lâm
Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng và Vân Môn.
Mỗi phái đều có phương tiện cơ xảo riêng để khế hợp với từng cơ duyên
của đệ tử. Tuỳ mỗi đương cơ mà chư Tổ,
hoặc nói, hoặc nín, hoặc dùng gậy đánh hay dùng tiếng la, tiếng hét..v..v.. Các
phương tiện cơ xảo ấy giống như chuyện vô lý nhưng lại có tác dụng làm ngưng
suối nguồn ý thức của người đệ tử lúc bấy giờ.
Mục đích là để đệ tử, ngay sát na đó khai ngộ. Các ngài không muốn đệ tử sa lầy trong văn tự
chữ nghĩa, chỉ cần ngừng dòng tâm ý thức để trực thấy bản tâm, bản tánh của
mình. Do đó một người khi nhập môn dòng
thiền Lâm Tế liền bị tiếng la hét hay khi nhập môn dòng thiền Đức Sơn liền bị đánh..
v..v là vậy. Người tham thiền thời đó cảm thấy thích hợp
với cơ xảo nào thì đến phái đó theo học.
Tuy khác nhau ở cơ xảo nhưng sự ngộ chẳng khác.
Lâm Tế
và Tào Động là hai phái thiền Tổ Sư còn tồn tại truyền qua Việt Nam, Cao Ly, Nhật
Bản và Hoa Kỳ.
Ngày
nay, khi nói đến Tồ Sư Thiền, người ta lập tức nghĩ tới việc tham công án và
nghĩ rằng tham công án cũng tương tự như khán thoại đầu. Thật ra công án và thoại đầu có khác nhau mặc
dầu mục đích không khác nhau. Đa số các
công án có chuyện tích phức tạp, thí dụ công án Vô của Thiền sư Triệu
Châu: Một ông Tăng hỏi Hoà thượng Triệu
Châu: Con chó có Phật tánh không? Sư đáp:
Không. Vị khác hỏi: “Con chó có Phật
tánh không?” Sư đáp: Có. Tại sao Triệu
Châu nói “Không” cho người này lại đáp
“Có” với người kia? Tại sao các loài hữu tình chúng sinh đều có Phật tánh, mà
Hoà thượng Triệu Châu lại nói không, rồi sau đó lại nói có? Ngài có nói sai không? Nếu không thì ý ngài ở đâu? thắc mắc không
biết. v..v.. Còn khán Thoại Đầu, đơn
giản hơn, không có chuyện tích phức tạp như thế mà chỉ là câu hỏi. Ví dụ như câu “Niệm Phật là ai?” hay “Trước
khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?”..v..v...
Mục đích
của tu Tổ Sư Thiền là làm ngưng lại dòng tâm ý thức (thường lưu) trôi chảy liên
tục trong tâm con người từ thời vô thuỷ.
Chư Tổ Sư dùng cơ xảo để làm cho đương cơ bật ngược lại, vượt qua bức
màn vô minh từ thời vô thủy, vượt qua luôn bờ bên kia của vô thủy vô minh, hoàn
toàn giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp chất.
Bản thể
chân tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì môt niệm bất giác, tức nhất niệm
vô minh sinh khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, gây thành có ta, có cái không
phải ta, sinh ra đối đãi, từ đó dòng tâm ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng
dầy đặc, càng trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi tạo nghiệp trả quả, vay trả
không ngừng. Nay muốn trở về cội nguồn
thì phải dừng được dòng tâm ý thức.
Nghĩa là dừng lại những tạo tác của ý thức thường nghiệm, luồng tư
tưởng, những ý niệm và nhận thức.
Thoạt kỳ
thủy, chưa có công án, mà chỉ là cơ xảo của chư Tổ, tùy theo theo căn cơ của
người đối diện mà tháo gỡ vướng mắc đã khiến họ kẹt cứng, không hội nhập lại
bản thể được, thí dụ như Lục Tổ hỏi thượng tọa Huệ Minh:
- Không
nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?
Nghe câu
đó, thượng tọa Minh ngơ ngác, trong một sát na dòng tâm ý thức bị khựng lại,
bản thể hiển lộ lập tức. Những thí dụ như trong một ngàn bảy trăm công án đều
là những câu vấn đáp của chư Tổ, chính
là để đương cơ "khựng ngay dòng ý thức lại". Mỗi vị đều có những câu
khác nhau, tùy theo nhận xét của thầy mà đưa câu hỏi cho trò.
Người
sau thấy những câu hỏi đáp đó đã giúp khai ngộ cho đệ tử, bèn thu thập lại, rồi
đề ra cho người tới xin tu, cho họ một câu, gọi là "một tắc công
án", để họ tự hỏi hoài, thành ra
một nỗi thắc mắc nhân tạo, coi như dụng cụ để giúp người tu thiền có thể ngưng
đọng tâm tư, tạo được khối nghi, chờ một ngày kia có trợ duyên, khối nghi bùng
vỡ, là Ngộ.
Càng về
sau, tâm tư con người càng phức tạp, biện luận càng nhiều. Người tu dùng công
án để tạo thắc mắc, nghi tình thì ít, đem công án ra để bình giải thì nhiều,
công án nhà Thiền biến thành công cụ để bình luận văn thơ, đã không giúp cho
dòng ý thức ngưng, còn khai triển ra đủ loại tư tưởng đối nghịch, biến thành trò
chơi chữ nghĩa. Trong trường hợp đó, công án không còn phục vụ sứ mạng tạo nghi
tình, lại lấp bít con đường đi tới giác ngộ chân chính, và cũng do bởi Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục ra đời thời điểm này, ghi chép tất cả các thủ đoạn, công án của
chư Tổ, khiến người tham thiền biết hết kỹ thuật của Tổ nên không phát khởi được
nghi tình; do đó, chư Tổ mới bất đắc dĩ chế ra pháp "Chiếu Cố Thoại Đầu"
hay còn gọi là “Khán Thoại Đầu”. Chiếu
Cố Thoại Đầu có từ đó.
Như vậy
Chiếu Cố Thoại Đầu là gì? Thoại là lời nói và Đầu là đầu tiên. "Thoại đầu" là "phía trước, trước
khi có câu nói". Nếu đã nói ra, dù là một chữ, thì hết là "đầu",
mà chỉ còn là "thoại vĩ", là "câu nói" mất rồi. Cho nên
không có "câu thoại đầu", mà chỉ có "phía đầu của câu
thoại", cho nên phải có chữ "chiếu cố", chiếu cố thoại đầu, tức
là "quán chiếu về phía trước của câu nói".
Trước
câu nói là gì? Dĩ nhiên câu nói (thoại) phải là hậu quả của một dòng ý thức
trước khi tuôn ra thành lời. Nhưng dòng
ý thức trước khi thành lời đó ở đâu? Là cái gì? Sự thắc mắc ấy chính là nghi
tình. Nghi tình này không có đáp án,
không thể dùng tâm ý thức giải đáp huyên thuyên, dù có muốn, vì nó không có câu
chuyện có đầu có đuôi như công án. Miên mật trong khối nghi này tức là hành giả
đã vượt qua nhất niệm vô minh, đang ở trong vô thủy vô minh, tức là đang trên
"đầu sào trăm thước". Sau đó sẽ là "bước thêm một bước", là
nghi tình bùng vỡ, là bước vào nơi mà chư Tổ gọi là "đất điền địa
kia" (gọi là "đất", là "bước", chỉ là hình thức hóa
cho dễ hiểu trong ngôn từ, thật ra thì tất cả chỉ là chuyển hóa tâm thức, không
có cụ thể thành vật chất được, nói ra đã là dùng tương đối, cách xa mất rồi).
Bước này mau chậm tùy theo cơ duyên, có người ôm khối nghi nhiều năm, có người
ngắn hơn. Cơ duyên khiến cho nghi tình bùng vỡ, là "bước thêm một
bước" có thể là tiếng viên sỏi chạm vào cây tre, hoặc là tiếng vỡ của cái
chén rơi, tiếng chuông chùa, câu nói vô nghĩa, vân vân.
Chiếu Cố
Thoại Đầu bắt đầu từ đời nhà Tống bên Trung Hoa, không rõ truyền qua Việt Nam
từ năm nào nhưng sau năm 1975 có một vị Sư người Việt gốc Hoa truyền giảng pháp
môn này tại Việt Nam rồi sau đó truyền qua Úc, Canada và Hoa Kỳ theo vết chân
di cư của chính vị Sư này và những Phật tử Việt Nam và Phật tử Việt gốc
Hoa. Vị Sư này là cố Hoà ThượngThích Duy
Lực. Hiện nay tại Việt Nam pháp môn này đang
được truyền dạy tại các chùa: Phật Đà Quận 3 TP. HCM, (Thượng Tọa Thích Minh
Hiền), Chùa Liên Hoa, Quận Bình Thới, TP. HCM (HT. Thích Chứng Khai), Chùa Tam
Bảo, Nha Mân, Sa Đéc (TT. Thích Minh Thiền), Chùa Liễu Quán, Núi Dinh, Vũng Tầu
(TT. Thích Thiện Đức), và Chùa Giác Nguyên, Quận 4 TP. HCM (TT. Thích Đồng
Thường).
Riêng
tại Hoa Kỳ, Từ Ân Thiền Đường, ngôi
thiền đường duy nhất hoằng truyền Tổ Sư Thiền ở hải ngoại được chính cố Hoà
Thượng thiết lập và hiện tại được tiếp nối bởi Thượng Tọa Thích Truyền Vệ, là đệ
tử và nguyên là thị giả của cố Hoà Thượng trong lúc ngài còn sinh tiền.