Tiết I
Ý Nghĩa Của Sự Ăn Chay
Ðề yếu:
- Ở Việt Nam, không
những Phật giáo, mà trong các tôn giáo khác cũng có nhiều người ăn chay.
Riêng về đạo Phật, tuy phần đông đều dùng chay lạt, song ít ai hiểu xác đáng sự
lý của việc này. Về phần sự, có người ăn chay kỳ không trúng ngày tháng,
hoặc không kiêng cữ hành, hẹ, tỏi, kiệu, có kẻ lại gia vị vào các thứ như tôm
khô, hào khô. Do đó nên công đức không được toàn vẹn. Về phần lý,
nhiều người không hiểu nguyên do chánh đáng của việc ăn chay, hoặc lầm tin theo
tà thuyết, hay tưởng ăn chay nhiều là tu nhiều rồi sanh lòng ngã mạn. Do
chỗ phát tâm không chánh ấy, nên kết cuộc sự thật hành cũng không bền.
Ngoài ra, có vị đem lòng nghi cho thuyết ăn chay là do tập tục của Trung Hoa
đặt ra, chớ không phải chính Phật nói, bằng cớ là những vị ở các xứ thuộc Nam
tông Phật giáo vẫn ăn mặn mà cũng chứng thánh quả. Sở dĩ có mối nghi đó,
là vì họ chưa hiểu rõ nghĩa phương tiện của Nhị thừa và nghĩa chân thật của Ðại
thừa. Lại có người nghi rằng: có lẽ khi xưa Phật cũng ăn mặn, vì
khi đi khất thực, dân chúng cúng thức gì dùng thức ấy, tại sao ta bắt buộc phải
ăn chay? - Xin đừng đem tâm chúng sanh mà trắc lượng việc ấy, vì chúng ta
là phàm phu không thể sánh với Phật là bậc đại giải thoát, có đầy đủ thần thông
phương tiện trong khi hóa độ hữu tình. Vã lại, trong các kinh liểu nghĩa,
đức Thế Tôn đã nêu rõ nguyên nhân hợp tình lý của sự không dùng huyết nhục,
khuyên bảo đệ tử nên dùng chất thanh đạm, thì ta cứ y theo lẽ phải và lời Phật
dạy mà thật hành. Hơn nữa, theo kinh Ương Quật Ma, thì chẳng những riêng
đức Thích Ca, mà tất cả chư Phật đều không dùng huyết nhục.
Ðể giúp người học Phật trên phương diện tiến tu, trong đây
trình bày các sự lý, lời khuyên của Như Lai cùng cổ đức về việc ăn chay, giới
sát, phóng sanh. Mong rằng các mục nơi bản chương có thể đem lại cho
duyệt giả những điều hữu ích.
Tiết I - Ý Nghĩa Của Sự Ăn Chay
Theo quan niệm phổ thông của hàng Phật tử Việt Nam, ăn chay
là dùng những chất thanh đạm, không ăn cá thịt và các thứ hôi nồng thuộc về
loại ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ). Nếu dùng cá thịt và ngũ tân,
người ta gọi là ăn mặn. Nhưng thật ra, chữ "Chay" nói trại là
nguyên âm "Trai" và Trai có nghĩa là Trung hoặc Thời thực.
Trung hay Thời thực là dùng bữa giữa ngày vào giờ Ngọ, nếu ăn quá ngọ gọi là
phi thời thực. Còn dùng chất thanh đạm, nên gọi là "tố thực",
nghĩa là "ăn lại", mới xác đáng hơn. Tuy nhiên, chữ Trai dịch
từ Phạm âm Ô ba va sa tha (Upavasatha), lại có nghĩa là "thanh
tịnh". Và bởi ăn lại cũng có tánh cách làm cho thân tâm con người
nhẹ nhàng thanh tịnh, nên bên Ðại thừa giáo mới chuyển lần ý nghĩa Tố thực xem
đồng với Trai thực. Vậy tiếng "Chay" tuy không hoàn toàn xác
đáng với nguyên ủy của nó, nhưng cũng có một phần nào ý nghĩa, nên bút giả xin
dùng danh từ này với ý dùng chất thanh đạm cho hợp với quan niệm phổ thông của
Phật tử Việt Nam.
Phần đông Phật tử không hiểu xác đáng ý nghĩa ăn chay, nếu
có hỏi duyên do thì trả lời một cách đại khái: "Tôi ăn chay để tập
lần tánh nết cho thêm bình tĩnh hiền lương". Lại có những lời đồn
huyễn bảo: "Ăn chay sẽ khỏi tai nạn bom nguyên t?, ho?c ma vuong s?p
ra d?i, hay sắp tận thế, ai không ăn chay sẽ bị chết hết, không được dự hội
Long Hoa". Những truyền thuyết như trên đều không có căn bản, làm
cho nhiều người cố tự ép ăn chay một cách gắng gượng, kết cuộc qua một thời
gian rồi cũng thôi bỏ. Theo Phật giáo, ăn chay có những ý nghĩa như sau:
1- Vì lòng thương xót chúng sanh: Ðã
là loại hữu tình, loài nào cũng biết đau đớn buồn khổ và ham sống sợ chết, trừ
những duyên cớ riêng biệt. Chính mình khi bị vấp ngã hay đứt tay một
chút, còn cảm thấy đau đớn, huống chi là cảnh đâm chém, đập giết, thiêu nướng,
xẻ thịt, banh da! Như thế tại sao ta lại nỡ an nhiên vui vẻ, ăn uống trên
sự đau khổ vô hạn của chúng sanh? Chính mình khi s?p b? gi?t dã khóc
thuong s? hãi, ho?c ngu?i thân b? gi?t thì cũng xót xa, oán hận, đau
buồn! Như thế tại sao ta lại nỡ làm cho chúng sanh khác sợ hãi đau thương
lúc sắp bị giết, bị chia ly cùng quyến thuộc? Ðức Phật là đấng đại từ bi,
nên người con Phật thể theo lòng từ bi đó mà ăn chay, để tránh việc trực tiếp
hoặc gián tiếp sát sanh đầy thê thảm ấy. Trong kinh Lăng Già, đức Thế Tôn
bảo Ðại Huệ Bồ Tát: "Những người ăn thịt đoạn hết hạt giống đại
từ. Ta xem chúng sanh luân h?i trong sáu n?o, d?i d?i làm cha m? anh em
chồng vợ con cái lẫn nhau. Chúng sanh ăn thịt nhau, toàn là ăn thịt lục
thân quyến thuộc của mình. Thế mà loài hữu tình mơ màng không biết,
thường sanh lòng giết hại, làm cho nghiệp khổ thêm lớn, khiến nên mãi bị lưu
chuyển trong đường sanh tử, không du?c thoát ly. K? không an th?t, s?
du?c vô lượng công đức tụ. Nếu tất cả mọi người không ăn thịt, thì không
ai giết hại chúng sanh. Do có người ăn thịt tìm hỏi để mua, nên mới có kẻ
vì cầu tài lợi giết chúng sanh để bán. Cho nên kẻ ăn thịt cùng người giết
chúng sanh để bán thịt, cả hai đều có tội".
2- Vì tránh ác báo của nghiệp sát: -
Bởi tham miếng ngon, nên con người mới tạo nghiệp giết hại. Nhưng vì vô
minh che lấp, không rõ thấu lý nhân quả, nên kẻ gây nghiệp sát đâu biết hành vi
đó trở lại làm khổ chính mình. Theo lý nhân quả trong kinh, người tạo sát
nghiệp, như nặng tất bị đọa vào tam đồ, nhẹ thì phải chịu nhiều đau bịnh, hoặc
chết yểu, cùng sự khổ nạn về chiến tranh. Kinh Niết Bàn nói:
"Tội sát sanh có ba bậc: thượng, trung, hạ. Nghiệp sát bậc hạ,
là giết từ loài kiến cho đến tất cả bàng sanh. Người tạo tội nầy phải bị
đọa vào tam đồ, chịu sự khổ về bậc hạ. Tại sao thế? Bởi loài nhỏ dù
là con kiến, con muỗi cũng có chút căn lành, nếu giết nó thì phải chịu tội
báo. Nghiệp sát bậc trung là giết từ phàm phu trong loài người cho đến
bậc A Na Hàm. Người tạo tội nầy phải bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng
sanh, chịu sự khổ về bậc trung. Nghiệp sát bậc thượng là giết từ cha mẹ
cho đến bậc A La Hán, Bích Chi Phật. Người tạo tội nầy, phải bị đọa vào
đại địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ về bậc thượng".
3- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị trần: -
Trong mười pháp giới, nếu nói tóm tắt, duy có hai nẻo: phàm và
thánh. Phàm phu tâm còn nhiễm ô phiền não, chư thánh tâm hằng sáng sạch
lặng trong. Bởi thế cho nên hàng Phật tử muốn vượt phàm lên thánh, thoát
nỗi khổ luân hồi, phải bỏ nhiễm về tịnh. Mà muốn được tịnh tâm, phải ngăn
ngừa đừng cho sáu căn nhiễm sáu trần. Người nào ăn chay mà cảm thấy khó
khăn, đó bởi do còn thích món ăn ngon, nghĩa là thiệt căn còn nhiễm vị
trần. Vì thế, muốn dễ được tịnh tâm, người Phật tử nên tập lần từ ăn chay
kỳ đến chay trường.
Có kẻ hỏi: - Tại sao bên Phật giáo
Nam tông vẫn còn ăn mặn? Và nếu không thanh tịnh, tại sao những vị bên
phái ấy lại chứng thánh quả? Xin đáp: - Ðức Phật vì tùy hoàn
cảnh căn cơ, trong khi nói giáo pháp Nhị thừa, phương tiện tạm mở cho ăn ngũ
tịnh nhục (không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết, thịt con thú tự
chết, thịt loài thú khác ăn còn dư). Nhưng đến khi thuyết qua giáo nghĩa
Ðại thừa, ngài lại triệt để cấm dùng đồ huyết nhục, vì lẽ mất lòng từ bi bình
đẳng, và gây nhân vay trả luân hồi. Như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế
Tôn còn khuyên không nên dùng đồ bằng da, bởi còn thọ dụng một thân phần của
chúng sanh tức là còn mắc nợ nó, huống chi là thường ăn thịt? Trong kinh
Ương Quật Ma, ngài Văn Thù Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn! Phải chăng
nhân vì Như Lai tạng, nên chư Phật không ăn thịt? Ðức Phật bảo:
"Nầy Văn Thù! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay sống chết luân hồi
từng cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường cũng như trò hát.
Thân mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế nên chư Phật không
ăn thịt. Lại nữa, chúng sanh giới tức là ngã giới, thịt loài khác chính
là thịt của mình, nên chư Như Lai không ăn thịt. Nầy Văn Thù! Như
con bò tự chết, người chủ dùng da nó làm giày dép đem bố thí kẻ giữ giới.
Như bậc giữ giới không thọ tức là pháp Tỷ khưu; nếu thọ trì tuy không phải phá
giới, song thiếu tâm từ bi. Cho nên, không thọ dụng thân phần của hữu
tình, tức là lần lượt lìa nhân duyên sát sanh vậy". Ðời Ðường bên
Trung Hoa, Ðạo Tuyên luật sư giữ giới tinh nghiêm, nên chư thiên thường hiện
thân ủng hộ. Cứ theo bộ Tuyên Luật Sư Cảm Ứng Ký, Tứ thiên vương thưa với
Tuyên sư rằng: "Thuở đức Như Lai còn ở đời, một hôm ngài phóng ánh
sáng lớn bảo các thiên, long, quỉ, thần: - Sau thời chánh pháp diệt tận,
có nhiều vị Tỷ khưu chấp theo giáo tích Tiểu thừa của ta, không hiểu ý nghĩa Tỳ
ni, bảo rằng ta cho các Sa môn ăn thịt. Vì thế, trong tăng già lam hiện
ra cảnh tượng sát sanh cũng như lò thịt. Lại có các vị Tỷ khưu mặc đồ tơ
lụa gần gũi nơi quán rượu dâm xá, không học ba tạng, chẳng giữ cấm giới, làm
cho đạo pháp ta suy vi, thật đáng thương xót! Nên biết từ vô lượng kiếp
đến nay, ta tu Bồ Tát hạnh đã xả bỏ đầu, mất, tủy, não, vì tâm từ bi không tiếc
thân mạng để bố thí cho loài hữu tình, có lẽ nào lại bảo đệ tử mình ăn thịt
chúng sanh? Ta niết bàn rồi, các Tỷ khưu thay thế ta làm thầy trời người
dẫn dạy hữu tình khiến cho đắc đạo quả; có lẽ nào bậc thiên nhơn sư mà lại ăn
thịt chúng sanh ư? Khi ta mới thành đạo, tuy trong luật có mở ra cho ăn năm
thứ tịnh nhục, nhưng đó không phải thật là thịt của bốn loài, mà là thịt do sức
thiền định bất tư nghì của ta biến hóa ra. Trong các kinh Niết Bàn, Lăng
Già, ta không cho người trì giới ăn thịt. Nếu có Tỷ khưu nào bảo rằng
trong Tỳ ni giáo, Phật cho ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời ma thuyết,
là phỉ báng ta!" Lời Phật đã dạy như thế, nếu ăn thịt cá mà không
trước nhiễm cũng có thể chứng quả thánh như các vị bên Nam tông đã tu
chứng. Nhưng nếu so hai phương diện ăn chay và mặn, thì ăn chay dễ đoạn
nhiễm tâm hơn; đến như về nghĩa từ bi bình đẳng, bên ăn chay lại hoàn toàn hợp
lý. Thế nên biết giáo nghĩa Nhị thừa chỉ là phương tiện tạm thời, giáo
nghĩa Ðại thừa mới là chân thật cứu cánh. Vậy người tu nên hướng theo lẽ
phải và xét lại năng lực của mình, đừng quá cầu cao tự cho là bậc viên dung tự
tại, vội nói câu "Tửu nhục xuyên trường quá. Bất ngại bồ đề
đạo" (Chất rượu thịt ăn vào cũng ra ngoài, không ngại chi đến sự giải
thoát cả) mà lầm.
4- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ thật hành trên đường tu: - Ăn
chay nếu đúng cách thì hợp với vệ sinh, và khiến cho thân tâm thanh tĩnh nhẹ
nhàng thuận tiện trên đường tu tập. So lại thì khi dùng mặn, ta cảm thấy
trong người nặng nề mệt nhọc, chất ăn khó tiêu hơn. Các nhà bác học hữu
danh đông tây đã công nhận lẽ đó. Như ông Sénèque, một triết gia, đã
nói: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con
người tự sát ngấm ngầm mà không hay. Do đó loài người bị nhiều bịnh mà
chết sớm". Những y khoa bác sĩ trứ danh như các ông: Soteyko,
Varia Kiplami cũng bảo: "Trong các thứ thịt có nhiều chất độc rất
nguy hiểm cho sức khỏe con người". Và bà White, nhà nữ bác học, sau
một cuộc thí nghiệm đã tuyên bố: "Các thứ hột, trái cây, đậu và rau
cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ấy
chỉ cần nấu nướng một cách đơn giản, thì ăn vào hợp vệ sinh và rất bổ. Nó
làm cho con người thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh được biết
bao nhiêu là bịnh tật!" Chất máu thịt vốn là uế trược, hơn nữa loài
thú khi bị giết sanh lòng uất hận, độc khí lưu trữ vào tế bào, hoặc gặp nhằm
những con vật mang bịnh, như bịnh lao, bịnh sán..., nếu người ăn vào làm sao
khỏi sanh đau yếu?
Có vị hỏi: - Nếu ăn chay cũng đủ sanh
tố, tại sao tôi thường thấy người ăn chay trường phần nhiều đều có vẻ xanh và
gầy? Xin đáp: - Ðó là do nhiều nguyên nhân khác biệt, không
phải lỗi ở sự ăn chay; chẳng hạn như vấn đề tâm lý, hoặc không biết cách thức
dùng chay. Về tâm lý, như có người ăn chay với tánh cách gắng gượng, mãi
thèm những đồ mặn, lầm nghĩ rằng ăn chay thiếu sức khỏe, thường đem lòng lo
lắng e ngại. Hoặc có người tu, mà chưa diệt được niệm tưởng mơ sắc dục,
hoặc làm việc suy nghĩ quá nhiều. Những tâm trạng ấy có ảnh hưởng không
tốt cho sức khỏe, bằng chứng như ta thường thấy người nào trải qua một đêm lo
nghĩ, sáng ra gương mặt họ hiện rõ vẻ tiều tụy bơ phờ. Về việc không biết
cách dùng chay, như những người vì lỡ phát nguyện, nên ăn chay một cách bắt
buộc lấy có, chỉ dùng tương chao, ít lát dưa, hoặc muối sả ớt cho qua
bữa. Hơn nữa nhiều người quan niệm tu là phải khổ hạnh, nên không mấy chú
ý đến việc ăn uống; hoặc kho đầu củ cải, vỏ dưa, chiên xơ mít, hay làm những
thức ăn giống đồ mặn rất công phu, song thật sự không có bao nhiêu chất
bổ. Ngoài ra, tập tục của các chùa Việt Nam thiên về sự tụng niệm cúng
lễ, thường khi liền cả đêm ngày. Sự sanh hoạt của Phật giáo Việt Nam lại
nghèo, chư tăng ni thiếu phương tiện học tập, phải dùng sức quá nhiều, nên vị
nào khi học thành tài hầu hết đều suy gầy đau yếu. Ðó là đại lược những
nguyên do khiến cho người tu thường kém sức khỏe, chẳng phải lỗi ở nơi không ăn
cá thịt. Nếu ăn chay mà hợp cách, với lòng hiểu đạo hoan hỷ, và đường lối
tu không thái quá bất cập, thì đã ít bịnh tật, lại thêm có lợi ích cho thân
tâm.
Tóm lại, ý nghĩa của ăn chay là vì lòng từ bi, vì tránh ác
báo, vì lìa trần nhiễm, vì thuận ích cho đường tu. Nếu lập cơ bản nơi bốn
điểm nầy mà dùng chay, thì sự thật hành sẽ bền và tăng thêm phước huệ.
Như trái với cơ bản đó, tất việc làm chỉ có tánh cách thời gian, khó bền bỉ, kết
cuộc không được lợi ích gì thiết thật trên đường tu.
Tiết
II
Những Ngày Chay
Ăn chay có hai phương diện: chay kỳ và chay
trường. Ăn chay trường hay trường trai là hành giả tự nguyện suốt đời
dùng chất thanh đạm, không thọ dụng đồ huyết nhục. Ăn chay kỳ thì có
những thuyết: Nhị trai, Tứ trai, Lục trai, Thập trai, Nhứt ngoạt trai,
Tam ngoạt trai.
Nhị trai là ăn chay mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và
rằm. Tứ trai là ăn bốn lần chay trong tháng, vào ngày mùng một, mùng tám,
rằm, hăm ba (hoặc ba mươi, mùng một, mười bốn, rằm). Nhứt ngoạt trai là
ăn chay luôn trong một tháng, vào tháng giêng, tháng bảy, hay tháng mười.
Cách thức ăn chay như trên, thật ra không có điển cứ, chẳng qua là bước tập lần
để đi đến trường trai mà thôi. Bởi ăn chay dù rằng hữu ích và hợp lý,
nhưng cũng tùy theo hoàn cảnh và căn cơ, không phải người Phật tử nào cũng có
thể bỏ ăn mặn liền trong một lúc được. Vì muốn đạt mục đích trường trai,
có người không y theo lệ trên, mỗi tháng tập ăn chay từ năm, mười, mười lăm ngày,
lần lần cho đến trọn tháng.
Lục trai là ăn chay trong các ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30
(tháng thiếu 28, 29). Theo kinh Tứ Thiên Vương thì vào những ngày đó, Tứ
Thiên Vương xem xét việc lành dữ của nhơn gian, và các ác quỷ cũng rình rập chờ
người làm ác để gia hại. Nên trong mấy ngày ấy, mọi người cần phải giữ
gìn ba nghiệp không nên làm ác. Thêm vào đấy, nếu kẻ nào biết trì trai,
giữ giới, tụng kinh, tu phước, sẽ được tránh khỏi nạn tai, tăng phần phước
huệ. Luận Trí Ðộ nói: "Tại sao trong sáu ngày trai, cần phải
thọ tám giới và tu phước? Bởi vào các ngày ấy ác quỷ rình theo người muốn
gia hại, gây những việc tật bịnh hung suy. Vì thế nên thuở kiếp sơ, trong
mấy ngày đó, thánh nhơn dạy người trì trai, tu phước, làm lành. Nhưng
cách trì trai khi xưa chỉ lấy trọn ngày không ăn, gọi là trai. Ðến khi
Phật ra đời, chế lại cho thọ Bát quan trai giới trong một ngày đêm, và lấy quá
ngọ không ăn làm trai. Ðức Thế Tôn đã bảo: - Nên như chư Phật, thọ
trì tám giới và không ăn quá ngọ trong một ngày đêm. Công đức ấy sẽ đưa
người mau đến niết bàn!"
Thập trai là ăn chay mười ngày trong mỗi
tháng. Kinh Ðịa Tạng, phẩm Như Lai Tán Thán nói: "Nầy Phổ
Quảng! Trong các ngày: mùng 1, mùng 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29,
30 (tháng thiếu 27, 28, 29) của mỗi tháng, các tội được kết tập để định phần
khinh trọng. Nếu chúng sanh đời sau, vào mười ngày trai, đối trước tượng
Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh, tụng kinh nầy một biến, thì mỗi phương đông, tây,
nam, bắc, trong vòng 100 do tuần, không các tai nạn".
Tam ngoạt trai là ăn chay trong tháng giêng,
tháng năm, tháng chín. Thuyết nầy phát xuất trong các phạm điển
như: kinh Phạm Võng, kinh Ðề Vị, bộ Hành Sự Sao Tư Trì Ký. Kinh
Phạm Võng nói: "Trong sáu ngày trai và ba tháng trường trai, nếu sát
sanh, trộm cướp, phá trai, phạm giới, phạm tội khinh cấu (đối với người thọ
giới Bồ Tát). Kinh Ðề Vị bảo: "Vào ngày mùng một tháng giêng,
mùng một tháng năm, mùng một tháng chín, chư thiên Ðế Thích, Thái tử sứ giả,
nhật nguyệt quỉ thần, Diêm La ở địa ngục, trăm vạn chư thần an bố khắp
nơi. Vì trừ tội danh, định phước lộc, mọi người cần trì trai trong ba
tháng ấy". Trong Tư Trì Ký cũng có nói: "Trong tháng
giêng, tháng năm, tháng chín, nghiệp cảnh ở cõi u minh theo vòng xoay chiếu đến
châu Nam Thiệm Bộ. Người đời có bao nhiêu việc thiện ác, thảy đều hiện
bóng rõ trong gương. Lại trong mấy tháng đó, Tứ thiên vương tuần thú đến
Nam Châu, cũng là lúc ác quỷ đắc thế, vì vậy nên phải trì trai, tu phước".
Theo như trên, thì thuyết Lục trai, Thập trai và Tam ngoạt
trai đều có điểm cứ. Nhưng để cho đúng với nghĩa trai, thì trong các ngày
tháng ấy chẳng những ăn lạt, mà còn phải không ăn quá ngọ mới phù hợp lời Phật
dạy, và có lẽ được nhiều công đức hơn. Lại theo kinh Phạm Võng, đức Phật
bảo không nên dùng ngũ tân gia vị vào thức ăn, vì những thứ ấy làm cho thân thể
hôi và dễ sanh các phiền não như ái dục, sân hận... Như thế thì muốn cho
sự tu phước thêm phần toàn vẹn, vào ngày Lục trai hay Thập trai, người Phật tử
nên thọ trì Bát quan trai giới, song phải ăn lạt và không dùng ngũ vị
tân. Thọ trì Bát quan trai giới là giữ tám giới: không sát sanh,
không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không trang
điểm, không tự hành và cố ý xem nghe ca múa âm nhạc, không ngồi nằm chỗ cao
rộng sang đẹp; và giữ một phép trai là không ăn quá ngọ. Tám điều trước
duy thuộc về giới, vì có công năng đóng ngăn cửa ác, nên gọi là Bát quan.
Một điều sau gồm nghĩa trai và giới mà trai là phần chánh, nên mới thêm chữ
"trai" sau hai chữ Bát quan. Như thế, tổng hợp lại chín điều
gọi là Bát quan trai giới. Và đây là nghĩa giải thích của Trí Ðộ Luận.
Về việc trong những ngày tháng Lục trai, Tam ngoạt trai ác
quỷ đắc thế, có thuyết nói vào thời gian ấy các ngoại giáo bên Ấn Ðộ thường
theo thông lệ giết sanh vật cúng tế thần linh, hoặc cắt lấy máu thịt nơi thân
để làm phép hộ ma. Và bởi duyên cớ đó, những ác quỷ cũng y theo lệ mà đi
tìm ăn đồ huyết nhục. Do sự kiện nầy, vào các ngày trên, đức Phật khuyên
đồ chúng nên giữ trai giới không được sát sanh, để phản ảnh phong thái từ bi
của thánh đạo. Nếu quả như thế thì sự ăn lạt vào các ngày trai lại càng
hợp lý hơn.
Ăn chay đã vâng giữ theo lời Phật dạy, có lợi ích, hợp tình
lý như trên, thì tất cả Phật tử đều nên tùy hoàn cảnh, khả năng tập lần, để
tiến bước lên đường phước huệ. Ðiều cần yếu là khi ăn phải từ nơi cơ bản
thiết thật của nó, không nên vì mê tín phi lý, vì háo danh muốn được tiếng khen
mà ăn, hoặc sanh lòng kiêu mạn trở lại khinh người ăn mặn. Lại ăn chay
phải hợp vệ sinh, biết chọn lựa thay đổi thức ăn, không nên ép xác cố ăn một
cách quá kham khổ. Cũng không nên nấu chay giả thành đồ mặn mà làm trò
cười cho thế gian.
Tiết III
Lời Phật Dạy Về Sự Ðoạn Nhục Thực
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do
nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo:
"Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao
binh!" Vậy muốn cho tai nạn chiến tranh tiêu giảm, không gì hơn dứt
từ cái nhân của nó, nghĩa là mọi người đều nên ăn chay giới sát phóng sanh.
Nhưng về việc nầy phận sự thì dễ nhận biết, phần lý ít người suốt thông.
Bởi thế nhiều kẻ khi ăn chay giới sát phóng sanh, không thể phát tâm chí thành
thương xót, nên công đức cũng vì đó mà trở thành kém ít. Vậy khi làm các
điều thiện trên, hành giả phải nhận hiểu phần lý của nó như bốn điểm ở đoạn
trước đã nói. Ngoài ra lại cần phải hiểu rằng: tất cả chúng sanh
đều có đủ đức tướng trí huệ của Như Lai, nhưng vì bị nghiệp hoặc che lấp tánh
diệu minh nên chìm đắm vào hàng dị loại, chỉ biết tìm cầu món ăn, tránh sợ cái chết
mà thôi. Nếu những chúng sanh ấy ngày kia nghiệp chướng tiêu giảm, được
nghe chánh pháp, đều có thể tiến tu và được thành quả Phật. Lại nên
nghĩ: ta cùng tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay ở trong nẻo luân hồi,
vì vô minh che lấp nên đổi thay sanh sát lẫn nhau. Trong nhiều kiếp, các
loài kia thường làm cha mẹ, anh chị em, chồng vợ, con cái của ta; và ta cũng đã
từng làm cha me, anh chị em, chồng vợ, con cái của cái loài ấy. Chúng
sanh kia do sức nghiệp ác hoặc ở cõi người, hoặc ở trong hàng dị loại, thường bị
ta giết hại; ta cũng do sức nghiệp ác, hoặc ở cõi người, hoặc ở trong hàng dị
loại, thường bị nó giết hại. Cảnh tương sanh tương sát như thế đã diễn ra
từ vô lượng kiếp chẳng biết chừng nào dứt, phàm phu vì mê nên không hiểu, nhưng
Như Lai thì thấu suốt rõ ràng. Việc ấy nếu không nghĩ đến thì thôi, người
biết nghĩ suy tất không xiết thẹn thuồng bi mẫn! Nay ta do túc phước được
làm người, nên giải trừ oan kết, ăn chay giới sát phóng sanh; lại vì cứu độ
mình và muôn loài, niệm Phật hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Xin dẫn một đoạn
trong kinh Lăng Già về nhân duyên đoạn trừ nhục thực mà đức Thế Tôn đã dạy, để
cho hàng Phật tử thêm sự suy gẫm trên bước đường ăn chay tu thiện:
"... Có vô lượng nhân duyên mà hàng Bồ Tát phải sanh
lòng thương xót, không nên ăn tất cả các thứ thịt. Ta nay vì ông nói ra
đây một phần ít:
- Nầy Ðại Huệ! Tất cả loài hữu tình từ vô thỉ đến nay
ở trong vòng sống chết luân hồi vô tận, không có chúng sanh nào chẳng từng làm
cha mẹ anh em con cái quyến thuộc, cho đến chủ tớ bạn bè thân thích lẫn
nhau. Vậy đối với chúng sanh đã vì nghiệp lực phải chịu đọa làm thân thủy
tộc, cầm thú, nỡ nào bắt nó mà ăn thịt? Bậc Bồ Tát ma ha tát phải quán
sát xem tất cả loài hữu tình đồng với thân mình, nên nghĩ các thứ thịt kia từ
những sanh mạng biết vui khổ thương đau mà có, đâu nỡ an nhiên mà ăn?
- Nầy Ðại Huệ!
Các bọn La sát nghe ta nói điều nầy còn nên dứt trừ sự ăn thịt, huống nữa là
người ưa vui theo đạo pháp? Trong mỗi đời, Bồ Tát quán thấy chúng sanh
đều là quyến thuộc, thường nghĩ xem đồng như con, nên không ăn tất cả các thứ
thịt. Những người bán các thứ thịt trâu bò chó ngựa heo dê nơi chợ phố
hàng quán, vì tâm tham lợi nên tạo nghiệp giết hại; thịt là sở do của tâm hạnh
tạp uế như thế, làm sao Bồ Tát nên thọ dụng?
- Nầy Ðại Huệ! Tất cả các thứ thịt đều là chất tinh
huyết ô uế, người cầu thanh tịnh làm sao nên ăn? Kẻ ăn thịt, chúng sanh
thấy đều sợ hãi, người tu từ tâm làm sao nên ăn? Khi gặp bọn thợ săn cùng
kẻ hạ tiện làm nghề bắn giết, bẫy lưới tàn hại sanh linh, loài chó trông thấy
kinh hãi sủa vang, tất cả cầm thú thảy đều dớn dác trốn chạy. Sở dĩ như
thế, bởi các chúng sanh ấy đều nghĩ rằng: những người này lộ vẻ hung ác
dường như quỉ La sát, nếu ta đến đó tất bị bắt giết, vậy phải nên xa lánh là
hơn. Cũng như thế, người ăn thịt thường bị chúng sanh ghét sợ xa
lánh. Vì lẽ đó, bậc Bồ Tát tu hạnh từ bi không nên ăn thịt.
- Nầy Ðại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt, thân thể hôi nhơ, tiếng
dữ đồn xa, người lành bậc hiền thánh không thích gần gũi, vì thế Bồ Tát không
nên ăn thịt. Huyết nhục là chất chúng Tiên từ bỏ, các Thánh chẳng ưa, bởi
thế Bồ Tát không nên thọ dụng. Bồ Tát vì tâm từ mẫn, vì giữ gìn lòng tin
của chúng sanh khiến cho Phật pháp không bị chê bai, nên không ăn thịt.
Nếu đệ tử của ta ưa an thịt, sẽ bị người tục đem lòng khinh báng nói
rằng: Tại sao hàng Sa môn tu nghiệp thanh tịnh, lại không bằng hạnh trong
sạch của thiên tiên, mà như ác thú mang đầy bụng thịt cá đi dạo thế gian, làm
cho chúng sanh thảy đều ghét sợ? Và như thế là kẻ ấy đã phá hạnh thanh
tịnh, mất đạo Sa môn, thiếu tư cách để điều phục người. Cho nên, Bồ Tát
vì lòng từ mẫn, muốn nhiếp hộ mọi người khiến cho không sanh tâm niệm ấy, chẳng
thọ dụng đồ huyết nhục.
- Nầy Ðại Huệ! Như khi thiêu người chết cùng thiêu
thịt của loài vật, cả hai mùi khí vị không tinh sạch đồng như nhau, tại sao
trong ấy thịt người không ăn, lại ăn thịt loài vật? Vì thế, người ưa hạnh
thanh tịnh không nên ăn thịt. Các hàng thiện nam thiện nữ tu hành khổ
nhọc chốn a lan nhã, hoặc trụ nơi từ tâm, hoặc trì chú thuật, hoặc cầu giải thoát,
hoặc hướng về đại thừa, nhưng vì bởi còn ăn thịt nên bị nhiều sự chướng ngại,
công hạnh không được thành tựu. Cho nên Bồ Tát nếu muốn được lợi mình và
lợi ích cho chúng sanh, quyết không nên ăn thịt.
- Nầy Ðại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt khi thấy hình dáng loài
vật đã sanh tâm thèm mùi vị. Bậc Bồ Tát phải thương nghĩ chúng sanh cũng
như mình, tại sao vừa thấy hình đã muốn ăn thịt? Bởi thế, Bồ Tát phải dứt
trừ nhục thực. Người ăn thịt thì nơi miệng thường hôi nên chư thiên lánh
xa, hằng bị Dạ xoa ác quỷ đoạt mất tinh khí. Kẻ ấy giấc ngủ không yên,
khi tỉnh dậy lo lắng, tâm nhiều sợ hãi; do tham ăn không biết vừa đủ, nên thêm
nhiều tật bịnh, dễ sanh ghẻ độc, bị các loài tế trùng cắn đúc, mà cũng vẫn
không biết chán nhàm.
- Nầy Ðại Huệ! Ta thường bảo: ăn thịt chúng sanh
chẳng khác chi ăn thịt con mình, vậy đâu phải thật Như Lai hứa cho đệ tử ăn
thịt? - Thịt chẳng phải thơm ngon, thịt không tinh sạch, ăn thịt sanh
nhiều tội ác, làm hư các công đức, bị chư Tiên Thánh rời bỏ, làm sao Như Lai
lại hứa cho đệ tử ăn thịt? Bởi thế, kẻ nào nói Như Lai chấp nhận cho đệ
tử ăn thịt, tức là phỉ báng ta.
- Nầy Ðại Huệ! Nên biết thức ăn thanh tịnh là những
thứ như: lúa, nếp, đậu, bắp, đường, tô du... Các thứ ấy chư Phật
đời quá khứ đã hứa cho, ta nay cũng khuyên bảo như vậy".
Tiết
IV
Mấy Lời Khuyên Của Cổ Ðức
Như trên, đức Phật đã nói có nhiều nhân duyên không nên ăn
thịt chúng sanh, và bảo hàng đệ tử nên dùng những chất thanh đạm. Từ xưa
đến nay về việc nầy, chư cổ đức khuyên dạy cũng đã nhiều. Nơi đây, xin
tạm dịch lời văn phóng sanh của Liên Trì đại sư, để cho người học Phật thêm rõ
điều nhân quả trong việc ăn chay giới sát. Văn rằng:
Thảng nghe: Thế
gian rất quí trọng không chi hơn thân mạng. Thiên hạ cực đau thảm chẳng
gì bằng sát sanh.
Cho nên, gặp bắt liền trốn chạy, loài rận rệp còn biết
thương thân. Sắp mưa đã dời đi, lũ kiến bọ vẫn tham cuộc sống.
Thế sao, lưới nơi vực, bẫy trên non, nhiều phương đuổi
bắt. Lại nữa, cong thì câu, thẳng thì bắn, trăm kế săn tìm?
Khiến nên phách lạc hồn bay! Xui nỗi mẹ lìa con mất!
Hoặc giam nơi lồng chậu, như bỏ chốn ngục tù. Hoặc
chặt bằng thớt dao, khác nào bị hình lục.
Nai thương con dại, liếm vết thương mà ruột đứt từng
phân! Vượn sợ bầy chia, trông cung uốn mà đôi hàng rỏ lệ! (1)
Cậy ta mạnh mãi hiếp kia ngu yếu, lý có hợp chăng?
Thịt nó ăn để mình tự bổ thân, lòng sao vội nỡ?
Bởi thế đất trời thương cảm. Cho nên hiền thánh hành
nhân.
Mở lưới, ân rộng thuở Thành Thang. Nuôi cá, đức lập từ
Tử Sản. (2)
Lưu Thủy đã nên thánh triết, tưới nước xuân nhuận cảnh khô
khao. Thích Ca rõ thật từ bi, cắt thịt quý cứu cơn nguy nạn. (3)
Thiên Thai Trí Giả đào ao phước để phóng sanh. Ðại Thọ
Tiên nhơn hộ chim lành nơi định thể. (4)
Thả lân trùng mà đắc độ, Thọ thiền sư gương ưu ái hãy
còn. Cứu Long tử được truyền phương, Tôn chơn nhơn dấu từ bi chửa mất.
(5)
Một phen vớt kiến, Sa di cải mạng vắn thành thọ cao, Thơ
sanh đổi danh hèn lên thượng bảng. Giây phút mua rùa, Mao Bảo nơi cảnh
nguy mà thoát nạn, khổng Du từ tước mọn đến phong hầu. (6)
Khuất sư thả cá ở Nguyên thôn, thọ tăng một kỷ. Tùy
hầu cứu rắn nơi Tề dã, châu trả nghìn vàng. (7)
Cứu trạnh lớn chốn nhà trù, ả tỳ tử khỏi cơn dịch
bịnh. Vớt lằn xanh nơi hũ rượu, gả tử sinh được miễn gia hình. (8)
Ðối vật mạng chốn nhà đồ, Trương đề hình hồn siêu thiên
giới. Chuộc sanh linh nơi thuyền lưới, Lý Cảnh Văn giải độc đơn sa. (9)
Tôn Lượng Tự cứu nguy loài lông cánh, khi thọ chung chim đắp
mả mồ. Phan huyện đường lịnh cấm lưới sông hồ, lúc thuyên chức cá rền
khóc cảm. (10)
Tín lão bãi sanh tế kẻ ngu dân, điềm bay cam vũ. Tào
khê mở lưới săn người lạp tử, đạo khắp thần châu. (11)
Chim sẻ biết ngậm vành mà báo ân. Loài chồn hay đến
giếng để truyền thuật. (12)
Cho đến thân tàn được sống, rết đeo vách trắng để nghe
kinh. Cảnh nạn cầu sanh, lương hiện áo vàng mà báo mộng. (13)
Thế nên ra ơn có trả, chuyện xưa há phải vô bằng. Rõ
ràng mắt thấy tai nghe, việc trước còn ghi sử sách.
Khắp nguyên khi thấy vật loại, phát lòng từ bi; bỏ tiền của
không bền, làm việc lành có ích.
Nếu ra ơn cho nhiều mạng, thì chứa lớn âm công. Hoặc
làm phước cứu một con, cũng vẫn là việc tốt.
Như thế ngày thêm tháng góp, hạnh cả đức to. Chừng ấy
lành khắp nhơn hoàn, danh thông thiên phủ.
Rửa tiêu oan chướng, thụy trưng đã dẹp đời nay. Bồi đắp
thiện căn, phước báo còn tươi kiếp khác.
Nếu lại giúp xưng hiệu Phật, thêm tụng văn kinh. Ðể vì
hồi hướng Tây Phương, khiến chúng xa lìa ác đạo.
Thì chỗ dụng tâm càng lớn, trồng đức càng sâu. Ðạo
nghiệp nhờ đó mà mau thành, liên đài sẽ sanh lên phẩm thượng vậy.
(Chú thích: 1- Hứa chơn quân lúc trẻ tuổi ưa đi
săn. Một hôm, ông bắn trúng con nai nhỏ, nai mẹ vội chạy đến liếm vết
thương, giây lâu thấy không còn sống được, cũng ngã ra chết. Chơn quân
lấy làm lạ, mổ bụng nai mẹ ra xem, thấy ruột đứt từng phân đoạn, biết rằng vì
thương con thái quá, đến đứt ruột mà chết. Ông rất hối hận, tự thiết
trách mình, rồi bẻ cung tên, bỏ nhà vào núi tu hành, sau được thành tiên.
Sở vương cùng người tôi thân tín là Dưỡng Do Cơ đi
săn. Vua gặp một con vượn rất to, bảo Do Cơ bắn. Vượn trông thấy Do
Cơ liền sa nước mắt. Bởi loài vượn nầy rất tinh khôn lanh lẹ, có thể bắt
được tên bay, nhưng lại gặp Do Cơ là tay thần xạ, nó biết mình tất sẽ chết, nên
mới bi thương rơi lệ.
2- Vua Thành Thang đời nhà Thương cùng bầy tôi xuất du, gặp
bọn thợ săn bủa lưới bốn mặt, vái rằng: "Từ hư không bay
xuống. Từ hang bụi chạy ra. Từ bốn phương chợt đến. Ðều sa
vào lưới ta!" Vua liền bảo tùng nhơn mở ba mặt lưới, rồi vái lại
rằng: "Muốn sang tả thì sang. Muốn qua hữu thì qua. Muốn
bay lên thì bay. Muốn thoát ra thì ra. Loài nào không thiết
sống. Mới vào lưới của ta!"
Thầy Tử Sản khi làm quan Ðại phu nước Trịnh, có người thường
đem cho loại cá thịt ngon, còn sống. Ông không nỡ ăn, bảo người nhà thả
xuống ao để nuôi. Ðiều này cho ta thấy việc phóng sanh chẳng những riêng
Phật giáo, mà bậc quân tử bên Nho giáo cũng phụng hành.
3- Trong kinh Kim Quang Minh, Trưởng giả Lưu Thủy, một tín
đồ nhà Phật, mùa nắng ra ngoài chơi. Ðến một nơi, ông thấy có ao nước gần
cạn, trong ấy các loài cá hơn vạn con ở trong cảnh nguy ngập sắp chết.
Ông vội trở về, dùng voi chở nước đem đến đổ đầy ao. Kế đó, Trưởng giả
lại vì nó thuyết pháp khiến cho hoan hỷ. Loài cá nầy nhờ nghe pháp diệu,
đều xả mạng được sanh lên cõi trời.
Ðức Thích Ca Mâu Ni thuở tiền thân tu Bồ Tát hạnh, có một
kiếp làm vị quốc vương. Trời Ðế Thích muốn thử lòng Bồ Tát, mới hóa làm
chim ó bay đuổi bắt con bồ câu. Thấy bồ câu bay vào lòng quốc vương lánh
nạn và được che chở, chim ó nói: "Ông vì lòng từ bi muốn cứu nó, tại
sao lại nỡ để cho tôi chết?" Vua hỏi: "Ngươi muốn ăn
những gì?" Chim ó đáp: "Tôi muốn dùng thịt. Xin ông
thường tôi số thịt bằng cân lượng của chim bồ câu". Vua liền bảo đem
cân ra, và tự cắt thịt để đền, nhưng do sức thần thông của Ðế Thích, vua cắt
hết thịt nơi thân mà dĩa cân bên chim bồ câu vẫn nặng hơn. Thấy vua sắp
chết, chim ó hỏi vua có hối hận không? Vua đáp: "Ta tu hạnh Bồ
Tát vì cứu độ chúng sanh, chẳng có một mảy niệm hối hận. Nếu như lời nầy
không hư dối, xin cho thân thể nguyên lành như cũ". Sau lời thệ
nguyện ấy trời đất rung động, thân thể nhà vua liền được phục nguyên.
Trời Ðế Thích kinh hãi, hiện thân sám hối và lễ bái khen ngợi.
4- Trí Khải đại sư ở núi Thiên Thai, được Dương Ðế nhà Tùy
vì mến danh đức, thụy phong là Trí Giả. Ðại sư đào nhiều ao lớn để phóng
sanh, nhà vua sắc chỉ xuống quan địa phương cấm không cho dân câu lưới ở các
nơi đó.
Theo trong kinh, thuở nhơn thọ sống đến hai muôn tuổi, có
một vị tiên nhơn ngồi nơi gốc cây nhập định. Vì ngồi lâu ngày rễ cây phủ
xuống thân, chim đến làm ổ nơi lòng. Sợ chim kinh hãi, tiên nhơn ngồi yên
không động, chờ nó dời đi nơi khác mới xuất định.
5- Vĩnh Minh thiền sư, húy là Diên Thọ, khi chưa xuất gia
làm chức Khố lại ở huyện Dư Hàng, triều Ngô Việt Vương. Ngài thường lấy
tiền kho mua tôm cá để phóng sanh. Sau việc phát giác ra, bị ghép vào tội
hành hình nơi chợ. Trước khi gia hình, vua dặn quan giám sát xem ngài có
đổi sắc không rồi trở lại phúc tấu. Ðược biết ngài vẫn an nhiên, vua cho
vời đến hỏi duyên cớ, ngài tâu rằng: "Thần lấy tiền kho không phải
để dùng riêng mà vì cứu độ sanh mạng. Giả sử thân nầy có mất, linh thức
cũng nhờ đó được sanh về Cực Lạc; như thế chẳng là vui hơn ư!" Vua
nghe tâu, tha cho về. Từ ấy ngài xuất gia, sau ngộ đạo trở thành bậc danh
đức.
Tôn chơn nhơn khi chưa thành tiên, một hôm xuống núi gặp mấy
đứa trẻ bắt con rắn lạ đem căng ra chơi, xem con vật tình thế nguy khốn sắp
chết. Chơn nhơn lấy tiền chuộc rắn, đem thả xuống nước. Sau khi đó,
ông gặp đồng tử áo xanh thỉnh đến một công phủ, hỏi ra là cung Thủy tinh.
Bên trong một vị vương giả bước ra đón chào, rước vào mời ngồi nơi bảo tọa, rồi
thưa rằng: "Gia nhi hôm trước đi dạo chơi, ngẫu nhiên mắc nạn, nếu
chẳng gặp được tiên sanh chắc là tánh mạng không còn!" Nhân bày yến
tiệc thiết đãi, lại đem ra các thứ châu báu để đền ơn. Chơn nhơn tạ từ
không nhận, và nói: "Tôi nghe ở long cung có nhiều bí phương.
Nếu có thể, xin truyền cho tôi đem cứu đời còn quí hơn là châu
ngọc". Vương giả liền trao cho một bảo cấp, trong ấy có 36 thần
phương. Nhờ đó, chơn nhơn y thuật càng tinh, sau chứng được tiên phẩm.
6- Thuở xưa, có ông Sa di theo hầu vị A la hán. La hán
biết Sa di bảy ngày nữa sẽ mạng chung, liền cho về nhà viếng thăm cha mẹ.
Tám hôm sau, ông Sa di bình yên trở lại. Vị La hán lấy làm lạ, nhập định
để xem xét, thấy khi ông trở về nửa đường có dùng áo ca sa vớt một bầy kiến
đang bị khốn giữa dòng nước, liền biết sở dĩ đệ tử mình được tăng thọ là do nhờ
duyên phước đó. - Lại một chuyện: Tống Giao và Tống Kỳ, hai anh em
đồng đi thi. Một hôm trời mưa, Tống Giao thấy vô số kiến bị nước cuốn sắp
trôi vào lổ hủng, liền lấy cộng trúc ngăn lại, bắc thành cầu để cho nó bò lên
chỗ khô. Trước khi vào thi, Giao gặp vị Tây tăng xem tướng và nói:
"Dường như ông đã vừa cứu vài trăm muôn sanh mạng thì phải?"
Giao từ tốn bảo mình nghèo, không có năng lực làm được việc công đức ấy.
Vị tăng nói: "Chẳng phải thế đâu! Loài vật dù nhỏ cũng đều là
sanh mạng". Giao đem việc cứu kiến ra thưa lại. Vị tăng
bảo: "Ðúng như thế! Kỳ thi nầy lệnh đệ sẽ đứng đầu hàng sĩ tử,
còn địa vị của ông cũng không kém hơn đâu!" Quả nhiên, sau khi kiểm
danh, Tống Kỳ đỗ Trạng nguyên, Tống Giao vào hàng thứ mười. Nhưng triều
đình cho rằng em không nên đứng trước anh, đổi Tống Kỳ đỗ hàng thứ mười, Tống Giao
lên hàng đệ nhứt.
Mao Bảo khi còn hàn vi, đi đường gặp người mang một con rùa,
liền mua mà phóng sanh. Sau ông làm tướng ra trận bị thua, té xuống sông
bị nước lôi cuốn sắp chết chìm. Ðang lúc nguy cấp, ông cảm thấy có con gì
đỡ chân mình đưa sang bờ bên kia. Chừng lên bờ, xem lại thì là một con
qui rất lớn đang quay mình bơi đi. - Lại một chuyện: Khổng Du trước
là một quan chức nhỏ, thường mua rùa để thả. Mỗi lần phóng sanh, rùa đều
quay đầu lại ngó chừng ông, rồi sau mới lần bơi đi xa. Về sau Khổng Du
nhờ may mắn lập nhiều công trạng, nên được phong hầu. Khi đúc ấn, thì
hình con rùa trên ấn quay đầu lại, phá hủy đến bốn năm khuôn để đúc lại, cũng
vẫn y như trước. Thợ đúc ấn kinh ngạc, đem việc ấy thưa lên Khổng
Du. Ông suy nghĩ bỗng nhớ lại việc xưa, và hoảng nhiên biết mình được
phong hầu hôm nay là do nhờ phước báo của sự thả rùa khi trước.
7- Khuất sư ở Nguyên thôn gặp người lưới được một con cá lý
đỏ, liền mua mà phóng sanh. Sau ông nằm mộng thấy Long vương mời đến thủy
cung, bảo: "Thọ số của ông vốn đã mãn, nhưng nhờ công đức cứu rồng,
nên được tăng một kỷ".
Tùy hầu đi qua nước Tề, giữa đường gặp một con rắn bị khổn ở
bãi cát, đầu có máu chảy, xem dường như kiệt sức. Ông liền lấy gậy vít
thả nó xuống nước, rồi bỏ đi. Khi trở về đến chỗ ấy, ông thấy rắn ngậm
hạt châu bò đến trạng như muốn hiến dâng, song vì sợ nên không dám lại
lấy. Ðêm đến Tùy hầu nằm mộng thấy chơn đạp một con rắn, kinh hãi tỉnh
giấc, tìm được bên mình hai hạt châu sáng rỡ.
8- Có nhà họ Trình tánh ưa an thịt loài rùa trạnh. Một
hôm nhà nầy mua được con trạnh rất lớn, bảo người tớ gái đem giết để làm thức
ăn. Ðứa tớ thấy con trạnh lớn có ý hơn sợ, liền đem thả nơi ao. Khi
chủ nhà về thấy món ăn không có thịt trạnh, gạn hỏi, đáp là vì hơ hỏng để nó bò
đi mất, do đó bị một trận đòn nên thân. Sau đứa tớ gái mang bịnh dịch
nặng, người nhà khiêng đến thủy các để chờ cho chết. Ðêm ấy có con vật từ
dưới ao bò lên mang bùn ướt đấp trên mình đứa tớ gái, nhờ đó sức nhiệt độc tiêu
trừ, bịnh được thuyên giảm. Sáng ra người chủ thấy đứa ở chưa chết, vẻ
mặt lại tươi tỉnh, lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Cô tớ gái không dám dấu, đem
sự thật thưa lại. Chủ không tin, đến đêm rình xem, thấy chính là con
trạnh đã thất lạc khi trước. Cả nhà kinh ngạc than thở, từ đó không ăn
thịt loài rùa trạnh nữa.
Một anh chàng nấu rượu, mỗi khi có con lằn xanh sa vào hũ
rượu liền vớt ra để chỗ đất khô, lại lấy tro đấp lên mình. Tro rút nước,
con lằn được sống. Như thế lâu ngày, anh cứu loại lằn xanh rất
nhiều. Sau có người đem tội trộm vu báng, anh không thể tự biện bạch, sắp
bị gia hình. Khi quan chánh án cầm bút muốn phê quyết, thì có nhiều lằn
xanh bay đến bu đậu vào ngòi, đuổi xong, nó bay lại như cũ, không xuống bút
được. Viên chánh án nghi có chuyện oan ức, cho đòi người vu báng đến gạn
hỏi nhiều cách; kết cuộc kẻ ấy phải thú nhận chính mình là thủ phạm, và anh nấu
rượu được tha về. Việc nầy đồn ra, ai nấy đều lấy làm lạ.
9- Quan Ðề hình họ Trương thường đến nhà đồ mua vật mạng để
phóng sanh. Ðến sau, lúc lâm chung, ông bảo người nhà rằng:
"Ta nhân cứu nhiều vật mạng, chứa phước đức đã sâu dày. Nay có chư
thiên đến rước, ta sắp sanh về cõi trên". Nói xong, an nhiên mà qua
đời.
Lý Cảnh Văn thường đến thuyền lưới mua loài thủy tộc để
phóng sanh. Ông vốn ưa đạo tiên, thường luyện chất đơn sa để uống.
Nhân đó tích nhiệt thành bịnh, phát ung thư nơi lưng, không thuốc nào trị được,
sắp chết. Một hôm, trong lúc mơ màng, ông thấy có loài cá đến rút chất
độc, nhã nhớt mát vào chỗ đau; khi tỉnh dậy thấy trong người mát mẻ thơ thới,
bịnh lần lần lành.
10- Tôn Lương Tự khi gặp loài chim bị lưới bắt, liền mua mà
thả. Sau khi chết, vì nghèo nên không có quan quách tẩn liệm. Lúc
ấy có vô số chim bay đến, ngậm đất đắp thành mồ. Người xung quanh đều
kinh hãi khen ngợi, cho là do đức từ chiêu cảm.
Phan Công khi làm huyện lịnh, cấm không cho dân chúng vào
những sông hồ trong vùng câu lưới cá, kẻ nào trái phạm liền bắt gia tội.
Sau ông đi trấn nhậm nơi khác, dân trong huyện nghe dưới nước có tiếng rền rĩ
như khóc than luôn cả mấy ngày. Ai nấy đều than thở cho là chuyện lạ.
11- Nhân lúc trời khô hạn, Hoằng Tín đại sư thấy dân muốn
sát sanh để đảo võ, thương xót cho thói mê tín, đến nơi bảo: "Nếu
các ngươi không sát sanh cúng tế, ta sẽ cầu mưa giùm cho". Dân chúng
hứa nhận, Ðại sư tinh thành cầu đảo, mưa lớn xuống nước đầy đồng. Do đó
người gần xa đều cảm hóa.
Lục tổ khi được truyền y bát ở Hoàng Mai, vì cơ duyên chưa
đến, mặc đồ thế tục ở ẩn trong bọn người săn bắn. Thợ săn bảo ngài giữ
lưới để họ đi đuổi thú. Ngài nhân lúc họ đi vắng mở lưới thả bớt rất
nhiều, như thế luôn cả 16 năm. Sau Tổ mở đạo tràng ở Tào Khê, đức cao
vọng trọng, độ người vô số, đạo pháp chia thành năm tông.
12- Dương Bảo khi còn thơ ấu, thấy chim sẻ vàng bị chim cắt
đánh rơi xuống đất, lại bị loài kiến làm khổn, liền đem vào nhà nuôi nấng, đợi
cho lành mạnh mới thả đi. Ít lâu sau, ông nằm mộng thấy đồng tử áo vàng
đến bái tạ, tặng cho bốn vòng ngọc, và bảo: "Tôi là sứ giả của Tây
vương mẫu, nhờ ngài cứu mạng nên đến tạ ơn. Nguyện cho con cháu của ngài
hiền lương, lên ngôi tam công, như những chiếc vòng này vậy". Quả
nhiên về sau dòng dõi của ông được quí hiển đến bốn đời.
Một ông đạo nghe nói ăn củ Huỳnh tinh có thể sống lâu, muốn
thí nghiệm, để nhiều Huỳnh tinh dưới giếng khô, dụ người xuống giếng, rồi rút
mất thang dây, đậy nắp giếng lại chỉ chừa một lỗ thông hơi. Người nọ
trong lúc nguy nan vô kế, chợt thấy một con chồn ló đầu xuống bảo:
"Ðừng lo sợ, tôi sẽ có cách cứu ông. Loài chồn chúng tôi khi học
phép thông thiên đào huyệt nơi gò mả, rồi nằm dưới đáy huyệt tụ thần chăm chỉ
ngó ngay miệng hang, lâu lâu thân hình tự nhiên bay ra khỏi mặt đất.
Trong Tiên kinh gọi "thần hay đưa hình bay đi" chính là phép
nầy. Vậy ông nên quên hết mọi duyên chỉ chăm chú nhìn nơi lỗ thông hơi, tự
sẽ được thoát nạn. Khi trước tôi bị thợ săn bắt, nhờ ông chuộc đem thả,
nên nay đến báo ơn". Người ấy làm y lời, hơn một tuần sau, thân hình
bay ra khỏi giếng. Ông đạo trông thấy rất mừng, cho đó là sự ứng nghiệm
của vị Huỳnh tinh, đem một mớ củ nầy xuống giếng, ước với các đồng bạn sau một
tháng sẽ mở nắp giếng ra. Tới kỳ, đồng bạn đến xem thì ông đã chết mất.
13- Liên Trì đại sư một hôm đi dạo bên ngoài, thấy có người
bắt mấy con rết, dùng những mảnh tre mỏng uốn cong lại căng đuôi đầu. Ðại
sư liền chuộc mà thả, thì duy có một con còn mạnh chạy đi, kỳ dư đều ngất ngư
muốn chết. Sau ban đem đại sư ngồi nói chuyện với người bạn trong am, có
một con rết bò nơi vách kề bên mình. Ngài dùng cây thước gõ mạnh nhiều
lần ra ý đuổi, song nó vẫn ở mãi không chịu đi. Ðại sư trực nhớ lại việc
trước, liền bảo: "Có phải khi xưa ngươi nhờ ta cứu mạng, nên đến đây
tạ ơn chăng? Nếu quả thế, hãy lặng yên nghe ta thuyết pháp để được siêu
thoát". Liền thuyết rằng: "Tất cả hữu tình, do tâm tạo
ra. Tâm hung dữ hóa ra cọp sói, tâm sân độc hóa thành rắn rết.
Ngươi hãy trừ tâm nóng độc, tất sẽ thoát được thân hình nầy!" Nói
xong bảo đi, thì không đợi xua đuổi mà nó lần lần bò ra cửa sổ. Người bạn
mục kích cảnh tưởng ấy, kinh ngạc cho là việc hy hữu.
Hồ Dã Can ở Hàng Châu, nhân người hàng xóm bị trộm, sai con
gái đến thăm và cho một rổ lươn. Ông hàng xóm tiếp nhận đem rộng vào
chiếc hũ lớn, lâu ngày rồi quên đi. Một đêm người ấy nằm mộng thấy có
mười vị mặc áo vàng, đội mũ nhọn, đến quì xin cứu mạng. Thức dậy trong
lòng nghi sợ đến hỏi thầy bói, được quẻ ứng rằng: "Ðó là có loài vật
muốn cầu phóng sanh, nên trở về tìm trong nhà sẽ biết". Người hàng
xóm về nhà tìm trong hũ, thấy có rộng mấy con lươn vàng lớn, đếm ra đủ mười
con. Ông ta kinh hãi, liền đem thả hết. Ðây là sự việc trong năm
Vạn Lịch thứ chín, đời nhà Minh.
Kinh sách trích dẫn: -Kinh Lăng Già, Kinh Ương Quật
Ma, Kinh Niết Bàn, Kinh Tứ Thiên Vương, Luận Trí Ðộ, Kinh Ðịa Tạng, Kinh
Phạm
Võng, Kinh Ðề Vị, Tư Trì Ký, An Sĩ Toàn Thơ, Tuyên Luật Sư Cảm Ứng ký.